BIDEN
VÀ ĐỒNG MINH VNCH TS Nguyễn Tiến Hưng
|
LGT: TS
Nguyễn Tiến Hưng du học Mỹ từ năm
1958 và tốt nghiệp tiến sĩ năm 1965. Giáo Sư
Nguyễn Tiến Hưng giảng dạy kinh tế
tại các đại học Hoa Kỳ. Sau khi về nước,
ông phụ tá Tổng Thống về Tái Thiết
(1971-1973), Tổng Trưởng Kế Hoạch & Phát
Triển (1973-1975) và phụ tá đặc biệt
của TT Nguyễn Văn Thiệu. Ngày 14 tháng 4 năm 1975, TT Nguyễn Văn
Thiệu phái ông cùng Ngoại Trưởng Vương Văn
Bắc và Đại Sứ Trần Kim Phượng đi Mỹ cầu viện lần cuối cùng, nhưng
cuộc vận động không thành nên sau khi CS cưỡng
chiếm miền Nam VN, ông ở lại Mỹ và góp
phần vận động để giúp người
Việt tỵ nạn được nhận định
cư vào Mỹ. Trong thập niên 1990, ông làm cố
vấn cho Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) và giáo
sư kinh tế học tại Đại học Howard
tại thủ đô Washington D.C. Quyển
Khi Đồng Minh Tháo Chạy của GS Nguyễn
Tiến Hưng coi như phối hợp giữa bút kư
lịch sử chính trị và công tŕnh nghiên cứu tài
liệu v́ ghi nhận tất cả sự kiện liên
quan đến người trong cuôc. KĐMTC gồm 5
phần, 20 chương. Cuốn sách dày 705 trang với
495 trang nội dung bài viết. Trong
“Phần Ghi Chú”, tác giả đă ghi rơ: “Chi
tiết về nhà xuất bản những tài liệu
ghi trong mục này: xem phần “Sách Tham Khảo” ở
cuối sách”. Trong phần “Sách Tham Khảo” tôi
đếm thấy có 104 tác phẩm. Trong số 104 tác
phẩm tham khảo đó, ngoạị trừ 10 tác
phẩm của các tác giả Việt Nam mà tôi đặt
mức độ khả tín thấp (tại sao tôi
lại đánh giá như vậy không phảỉ
mục tiêu để bàn ở đây,) ví dụ các
cuốn “Hồ chí Minh Tuyển Tập” của nhà
cầm quyền Cộng Sản, “Rồng An Nam”
của Bảo Đại, “Làm Thế Nào Để
Giết Một Tổng Thống” của Cao Thế Dung
và Lương Khải Minh, “Đại Thắng Mùa Xuân”
của Văn Tiến Dũng và vài tác phẩm của
mấy cựu tướng lănh VNCH hoặc là viết
cho “Trung Tâm Quân Sử Hoa kỳ” (U.S. Army Center of
Military History) hoặc tự xuất bản, số 94
cuốn c̣n lại của các tác giả ngoại
quốc mà đa số là của ngườ́ Hoa kỳ
là những cuốn mang lại những tài liệu có
mức độ khả tín rất cao (như quí vị
thường thấy)”. Cuốn
sách được ra mắt vào ngày 15/6/2005 tại
Little Saigon, ngày 18/6 tại San Jose, ngày 19/6 tại
Sacramento và Texas… được đánh giá
“Một hiện tượng chưa từng thấy
trong việc ra mắt sách” trong cộng đồng người
việt của chúng ta. Khoảng một ngh́n đến
tham dự cả ba nơi này (Ở Sacramento khoảng
500). Trong
thời điểm nầy, tác giả Nguyễn Tiến
Hưng đề cập đến Thượng
Nghị Sĩ Joe Biden. Nếu viết vào thời điểm
hiện nay trong cuộc bầu cử Tổng Thống vào
tháng 11/2020 th́ gán cho tác giả ủng hộ TT Trump. – VTrD * Lúc
ấy chưa có CNN, nên tin tức chỉ do ba kênh ABC,
NBC, CBS phát sóng mỗi buổi chiều. Vào cuối tháng
Ba đầu tháng Tư năm 1975, h́nh ảnh gây xúc
động nhiều nhất là về hai t́nh huống
đối nghịch: một là về chiến trường
Miền Nam, và hai là cảnh Tổng thống Ford chơi
gôn ở Palm Spring. Đà Nẵng thất thủ rồi
mà ông và Ngoại trưởng Kissinger cứ tỉnh bơ.
Cuối tuần, ông c̣n định cùng với phu nhân
tới dự tiệc với ca sĩ nổi danh Frank
Sinatra do Kissinger mời. Nhân viên trong đoàn tùy tùng
phải cản lại v́ ông đang bị báo chí
chỉ trích là chỉ vui chơi trong khuôn viên các nhà
triệu phú đang khi Việt Nam bốc cháy. Thế
nhưng chỉ mấy ngày sau, đă có sự thay đổi
rơ rệt về thái độ của ông Tổng
Thống: ông ra phi trường San Francisco đón
tiếp đám trẻ em mồ côi vừa được
chở tới từ Tân Sơn Nhất. Và từ lúc
đó, ông quyết định cứu một số người
Việt tỵ nạn và xin thêm quân viện cho Miền
Nam. Ông làm như vậy dù các cố vấn đă khuyên
ông là cứ lờ đi cho xong. Chính ông viết
lại rằng Kissinger cũng đă soạn sẵn cho
ông một bài diễn văn vào loại ‘cháy
nhà b́nh chân như vại’ (go down with the flag flying)
để đọc tại Quốc Hội, nhưng ông
đă không chấp nhận. Yếu
tố nào đă đưa tới sự thay đổi
quan trọng ấy Không
c̣n nghi ngờ ǵ nữa về lư do chính là v́ ông đă
được đọc vài lá thư mật của
Tổng thống Nixon gửi Tổng thống Thiệu do
Tướng Weyand
chuyển đạt. Weyand đă dùng mưu lược:
ông đến gặp Tổng thống năm phút trước
khi Kissinger tới họp vào sáng ngày năm Tháng Tư. Ông Von Marbod kể lại cho chúng tôi là đọc
xong thư, Tổng thống Ford đă hết sức xúc
động v́ thấy sự bất công quá rơ ràng
của Hoa kỳ đối với VNCH. Von
Marbod là Đệ
nhất Phó Phụ tá Tổng trưởng Quốc pḥng,
cùng đi với Tướng Weyand sang Việt Nam. Ông cũng
là người đă giúp chúng tôi trong việc bí
mật chuyển đạt hai lá thư cho Tổng
thống Ford sau khi thuyết phục được
sự đồng ư của Tổng thống Thiệu.
Marbod đă có mặt khi Weyand đưa thư. Sau này
khi phỏng vấn chính Tổng thống Ford th́ chúng tôi
lại càng thấy rơ hơn về việc này. Khi
đưa cho ông xem lại tài liệu, ông vẫn c̣n bùi
ngùi. Ông kư tặng chúng tôi cuốn Hồi kư ‘A
Time to Heal’ (Thời gian để hàn gắn)
với mấy chữ: To Greg Hung, with warmest best wishes -
Gerald R. Ford (Gregory là tên Thánh của chúng tôi). Về
nhà mở ra đọc, chúng tôi mới biết rằng
đúng ngày Tổng thống Thiệu chỉ thị cho
chúng tôi đi Washington để sắp xếp th́
Ủy Ban Ngoại Giao Thượng Viện đă tự
động yêu cầu và đến Ṭa Bạch Cung
gặp Tổng thống để bầy tỏ về
lập trường dứt khoát chấm dứt viện
trợ. Họ c̣n tiến xa hơn
nữa là đă bác bỏ cả vấn đề di
tản một số người Việt. Một
điều hơi lạ với chúng tôi khi đọc
cuốn sách là thấy trong Ủy Ban này, có một
nghị sĩ chưa bao giờ chúng tôi nghe đến tên.
Các vị khác như Frank Church, Jacob Javits, Clifford Case th́
đă quá quen thuộc. Trong buổi họp với
Tổng thống, nghị sĩ này đă mạnh mẽ
chống đối việc di tản người
Việt Nam. Nghiên cứu thêm chúng tôi mới biết là
ông này rất trẻ, vừa mới 30 tuổi đă
được bầu vào Thượng Viện (tháng Giêng,
1973 - cũng là thời điểm kư kết Hiệp
định Paris). Đó
là Nghị sĩ Joseph Biden (thường
gọi là Joe Biden) thuộc tiểu bang Delaware. Ngôn
từ của ông trong buổi họp thật là
thiếu nhân hậu, nếu không phải là tàn
nhẫn. Trong
cuốn hồi kư, Tổng thống
Ford đă kể lại việc này. Sau đây là vài
đoạn trích dịch (trang 253-256): “Chúng
tôi cảm thấy rằng một cuộc di tản
vội vă sẽ có những hậu quả trầm
trọng. Một t́nh trạng hoảng hốt lớn
tại thủ đô Miền Nam sẽ có thể phát
sinh, và trong sự chua cay là đă bị ‘phản
bội,’ quân đội miền Nam có thể quay súng vào
người Mỹ”... “Ngày
14 tháng 4, Ủy Ban Ngoại Giao Thượng Viện yêu
cầu gặp tôi để thảo luận về t́nh
h́nh Đông Nam Á. Đây là sự việc hăn hữu ít
khi xẩy ra - lần cuối cùng Ủy Ban này họp
với Tổng Thống là thời Wilson (Woodrow Wilson, 1913
- 1921, lời tác giả) - vậy nên tôi gọi cả
Kissinger (Ngoại Trưởng), Schlesinger (Bộ Trưởng
Quốc Pḥng) và Scowcroft (Cố Vấn An Ninh) cùng
tới dự. “Buổi
họp diễn ra trong bầu không khí hết sức căng
thẳng. Tôi yêu cầu Kissinger và Schlesinger tŕnh bày
về t́nh h́nh chính trị và quân sự tại
Miền Nam, rồi tôi tham khảo ư kiến của quư
vị Nghị sĩ. Thông điệp của họ
đă thật rơ ràng: hăy ra đi ngay, và đi cho nhanh
(The message was clear: get out, fast)… “Chúng tôi bằng ḷng
chấp thuận một ngân khoản lớn để
di tản,” Nghị sĩ New York là Jacob Javits nói, “nhưng
viện trợ quân sự th́ một cắc cũng không”
… Nghị sĩ tiểu bang Idaho là Frank Church th́ cho
rằng sẽ có vấn đề lớn ‘có thể lôi
cuốn chúng ta vào một cuộc chiến lâu dài’
nếu chúng ta di tản tất cả những người
Việt Nam đă trung thành với chúng ta. Nghị
sĩ tiểu bang Delaware là Joseph Biden
dội lại điệp khúc: “Tôi sẽ bỏ
phiếu thuận để cấp bất cứ ngân
khoản nào cho việc di tản người Mỹ ra
khỏi Việt Nam, nhưng tôi không muốn số
tiền đó dính líu ǵ tới việc di tản người
Việt.” Trong
cương vị là Tổng thống viết hồi kư,
có lẽ ông Ford đă viết nhẹ nhàng hơn là
những ǵ thực sự đă xảy ra tại
cuộc họp. Sau này khi đọc được
cuốn hồi kư của Ron Nessen, Phụ tá Báo chí và là
người rất thân cận với Tổng thống
Ford, chúng tôi thấy lời lẽ
của Nghị sĩ Biden về người Việt
tỵ nạn đă nặng nề hơn nhiều
chứ không phải chỉ là vấn đề ‘dính líu.’
Trong cuốn It Sure Looks Different From the Inside (Những
ǵ ở hậu trường th́ thực là khác), Nessen
thuật lại rơ ràng hơn, tóm tắt như sau (trang
104-106): “Kissinger bắt đầu cuộc họp qua
việc tiết lộ là trên một triệu người
có liên hệ với Mỹ sẽ bị nguy hiểm
với Cộng Sản sau cuộc chiến. Trong số này,
có 174.000 người là bị nguy cơ đặc
biệt nên Mỹ phải cho di tản nếu có thể
được... " “Tổng
Thống Ford cảnh cáo: “Nếu quư vị tuyên bố
‘không di tản người Việt Nam,’ quư vị
sẽ có khó khăn lớn trong việc di tản 6,000 người
Mỹ ra khỏi Việt Nam.” “Kissinger,
với vẻ mặt mệt mỏi và phiền muộn,
nói thêm rằng một quan chức Sàig̣n (có thể là
Đại sứ Trần Kim Phượng - lời tác
giả) đă nói với ông: “Nếu các Ngài rút người
Mỹ ra và bỏ rơi chúng tôi trong hoạn nạn, các
Ngài có thể sẽ phải đánh nhau với một
sư đoàn quân đội Miền Nam để có
lối ra”… “Tới
đây, vấn đề an toàn của số người
Mỹ c̣n lại ở Việt Nam trở nên mối lo
ngại lớn cho Ủy Ban... “Chúng tôi không muốn người
Mỹ bị bắt làm con tin,” (để phải di
tản người Việt), Nghị sĩ Charles Percy b́nh
luận. “Tổng
thống Ford cảnh cáo thêm... “Nếu ta rút hầu
hết người Mỹ ra cùng một lúc th́ sẽ làm
cho người Việt Nam nghĩ rằng Mỹ đang
tháo chạy nên có thể gây hoảng hốt, dẫn
tới những cuộc tấn công vào số người
Mỹ c̣n lại”... Nghị sĩ Joseph Biden nói toạc móng
heo: “Tôi không muốn trả bất cứ món nào
để đưa người Việt Nam đi,
chỉ trừ khi ta không thể mang được người
Mỹ nào ra mà không phải mua 174.000 người
Việt Nam. Trong
trường hợp đó, tôi sẵn sàng mua 174.000 người
Việt Nam” (dùng chữ nghiêng là do tác giả): “I am
not willing to pay any money to get the Vietnamese out unless we can’t get
any Americans without buying 174.000
Vietnamese. In that case, I’m willing to buy
the 174.000 Vietnamese” (độc giả lưu ư là ông dùng
chữ ‘buy’ hai lần). Bên
ngoài Ṭa Bạch Ốc, Nghị
sĩ McGovern, người ra tranh cử với TT Nixon
năm 1972 lại đổ thêm dầu vào lửa:
“Tôi cho rằng người Việt Nam sẽ được
sung sướng hơn nếu họ ở lại
Việt Nam, kể cả lũ trẻ con mồ côi kia
nữa,” tuần báo Time đă ghi lại (trong
số ngày 12 tháng Năm, 1975, trang 26). Nessen
viết thêm: “Sau cuộc họp, Tổng thống Ford c̣n
dặn các nghị sĩ chớ để cho báo chí
biết là tất cả phiên họp chỉ để bàn
bạc về chuyện di tản. Quư vị hăy nói: “Chúng
tôi chỉ bàn chuyện làm thế nào để ổn
định t́nh h́nh.” (TS Nguyễn Tiến Hưng: Khi Đồng Minh Tháo Chạy). |