CÁC TỔNG THỐNG MỸ VÀ VIỆT NAM (Phần I) Vũ Linh |
Tháng Tư Đen đương nhiên là
một tháng u buồn, ảm đạm, chúng ta ngồi
thương cho số phận đất nước. Nhưng
đó là thái độ tiêu cực vô bổ. Điều
cần làm là tỉnh táo nh́n lại lịch sử
để biết cho rơ chuyện ǵ đă xẩy ra,
chia sẻ với con cháu như những bài học
biết đâu sẽ giúp chúng sau này. Diễn Đàn Trái
Chiều sẽ viết hai bài về các tổng
thống Mỹ có liên quan đến vấn đề
VN, xét lại vai tṛ và trách nhiệm của họ
đưa đến số phận đen tối
của đất nước ta. Hai bài này sẽ xét
quan hệ Mỹ-Việt qua 2 giai đoạn: với Quốc
Gia VN và với VNCH, cho tới năm 1975. Cuộc chiến VN cần
phải có cả vạn trang sách để t́m hiểu
và thảo luận. Trong khuôn khổ diễn
đàn này, chỉ có thể tóm lược một cách
đơn sơ nhất trong vài ngàn chữ thôi. Với
những vị quen thuộc với Việt sử, bài này
không có ǵ mới lạ, DĐTC chỉ là nhắc
lại vài điểm chính cho những bạn trẻ
ở Mỹ học lịch sử chiến tranh VN qua sách
sử cấp tiến Mỹ, cũng như cho giới
trẻ ở VN từ hồi nào đến giờ
chỉ biết lịch sử cận đại VN qua cái
diễn giải một chiều lố bịch của
VC, kiểu súng lục bắn rớt B-52! Bài này cũng không bàn
về vai tṛ và trách nhiệm của người
Việt, chính quyền cũng như dân chúng. Trước khi đi xa hơn,
có vài điều phải coi như tiền đề
để thảo luận. 1.
Quyền hạn của tổng thống
Mỹ cực lớn, nhất là trong chính sách quốc
pḥng và đối ngoại, do đó chính sách của
Mỹ đối với VN tùy thuộc gần như hoàn
toàn vào cá nhân các tổng thống, có thể thay đổi
hoàn toàn từ ông này đến ông khác. Tuy nhiên,
quyền hạn của họ cũng bị giới
hạn bởi quốc hội và nhất là dư
luận quần chúng và nhu cầu bầu bán cho cá nhân
họ cũng như cho đảng của họ.
Tất cả những giả thuyết về thế
lực ngầm quốc tế nào đó, theo ư kiến cá
nhân, chỉ là chuyện vớ vẩn, không có căn
bản và không đáng tin, tuy ai muốn tin vẫn có
quyền tin. 2.
Tất cả các tổng thống Mỹ
đều lấy quyết định dựa trên
mục tiêu tối hậu là quyền lợi của nước
Mỹ và dân Mỹ, tuy ‘quyền lợi’ có thể khác
nhau từ vị tổng thống này đến vị
khác. Điểm mấu chốt cho chúng ta
là xin đừng bao giờ nghĩ họ phải hành
động v́ quyền lợi của nước VN và dân
VN. Đừng bao giờ trách cứ họ đă
phản bội hay bán đứng VN, cũng như đừng
bao giờ thắc mắc họ đă đặc
biệt thương hay ghét dân Việt. 3.
Tất cả các tổng thống Mỹ
đều là con người, không ai là
thần thánh hay ác qủy, tuyệt đối tốt
hay xấu, tuyệt đối hoàn hảo hay rác
rến. Họ cũng bị chi phối bởi những
hỷ nộ ái ố, tự ái, thể diện, tham
vọng, thói hư tật xấu, hay ngược
lại bởi tính vị tha, nhân đạo cá nhân.
Họ cũng đă phạm những sai lầm, sơ
xuất như bất cứ người nào khác. TỔNG THỐNG MỸ
VÀ QUỐC GIA VIỆT NAM Quốc Gia Việt Nam trên
nguyên tắc ‘ra đời’ khi thực dân Pháp chính
thức trao trả độc lập năm 1949 dưới
sự lănh đạo của Đức Quốc Trưởng
Bảo Đại, khi đó không chính thức
gọi là vua hay hoàng đế. Chính thức cáo chung
tại miền bắc năm 1954 khi Việt Minh (VM)
tiếp thu Bắc Việt, và miền nam năm 1955
khi Bảo Đại bị truất phế và VNCH ra
đời. Đây là thời đại của các
tổng thống Truman và Eisenhower. 1.
TT
Truman. Dân Chủ 1945-1953 TT
Harry Truman kế nhiệm TT Roosevelt qua đời
v́ bệnh tháng 4/1945.
TT Roosevelt là người chống việc
thực dân đô hộ các thuộc địa. Ông
chủ trương ép các đồng minh Âu Châu
phải trao trả độc lập cho các thuộc
địa sau khi triệt hạ được trục
phát-xít Đức-Ư-Nhật. Trong vấn đề
Đông Dương, ông đề nghị ba nước
Việt-Miên-Lào phải được đặt dưới
một chế độ đặc biệt, gọi là
‘trusteeship’ dưới
quyền cai quản của một ‘ủy ban quốc
tế’ gồm có Pháp, Tàu, Nga, và đại diện ba
nước, trong một thời gian chuyển tiếp có
thể kéo dài vài chục năm từ thuộc địa
qua độc lập trọn vẹn. Coi như thời
gian ba nước thuộc địa cần có để
‘tập tự trị’. TT Truman chấp chánh trong giai đoạn
mới, khi Thế Chiến Thứ Hai sắp chấm
dứt tuy vẫn c̣n đánh lớn tại Á Châu. Nhưng
ông lại phải trực diện với một
vấn đề gai góc hơn, đó là sự lớn
mạnh của tân đế quốc đỏ Liên Xô.
Vừa giải quyết xong cuộc chiến với
Nhật, th́ ông đă phải đối phó với
sự lớn mạnh của Hồng Quân của Mao,
đưa đến đại thắng của Tàu
cộng năm 1949 với sự giúp đỡ tối
đa của Liên Xô. Ngay sau đó th́ bàn tay lông lá
của Liên Xô ḅ qua bán đảo Triều Tiên,
dựng lên và nuôi lớn bắc Triều Tiên với
tham vọng thôn tính luôn nam Triều Tiên, đưa
đến cuộc chiến nam-bắc Triều Tiên. Trước mối đe
dọa của CS quốc tế, TT Truman lo
sợ mất Âu Châu, nên chú tâm củng
cố việc pḥng thủ Âu Châu, một mặt
viện trợ kinh tế tối đa để tái
thiết Tây Âu qua chương tŕnh mang tên tướng Marshall,
mặt khác t́m cách thành lập một liên minh quân
sự chống Liên Xô, sau này ra đời với cái tên
Liên Minh Bắc Đại Tây
Dương, NATO. Trong khối Tây Âu, nhân
vật với cái tôi vĩ đại nhất lịch
sử nhân loại, cái tôi cá nhân cũng như cái tôi
quốc gia, chính là De Gaulle của Pháp. Tướng
De Gaulle khi đó chưa là tổng thống, nhưng v́
là người lănh đạo chính quyền lưu vong
Pháp dưới thời Hitler chiếm nước Pháp,
ông có tiếng nói rất lớn. Điều kiện
của De Gaulle để Pháp tham gia một liên minh quân
sự chống Nga tại Âu Châu là Pháp phải
được giữ Đông Dương, dù cho ba nước
Đông Dương sẽ được độc
lập trên nguyên tắc, nhưng trên thực tế
vẫn phải lệ thuộc Pháp trong cái khối
gọi là Liên Hiệp Pháp, và cả 3 ông vua
của 3 nước đều là bù nh́n b́nh phong. Tướng
De Gaulle nhất quyết không nhả các thuộc địa
Đông Dương cũng như Phi Châu. Mặt khác, TT Truman
hiển nhiên cũng nh́n thấy nguy cơ làn sóng đỏ
Trung Cộng tràn xuống VN và Đông Nam Á, nên cũng
thấy cần Pháp trở lại Đông Dương
để chặn. V́ cần Pháp, TT Truman
bỏ kế hoạch trusteeship của TT Roosevelt, gián
tiếp chấp nhận và giúp Pháp trở lại
chiếm vị thế tại Đông Dương. Đây
có lẽ là quyết định có hệ quả quan
trọng nhất cho số phận đất nước
ta. Nếu như De Gaulle không yêu sách và nếu như TT
Truman thi hành sách lược của TT Roosevelt, th́
lịch sử đă đi về một hướng khác,
có lẽ sẽ không có hai cuộc chiến tranh VN kéo dài
30 năm. Quân đội Pháp dưới
quyền tướng Leclerc rầm rộ trở
lại Đông Dương với sự hậu
thuẫn của Mỹ và tiếp sức của quân
đội Anh có trách nhiệm giải giới quân
Nhật trong Nam, và quân đội của Tầu khi
đó dưới quyền Tưởng Giới
Thạch lo giải giới quân Nhật tại
miền Bắc. Tướng Leclerc trục xuất VM ra
khỏi Hà Nội và tất cả các tỉnh lớn. Chiến tranh Đông Dương
lần thứ nhất ra đời tháng Chạp 1946.
Chính quyền ‘độc lập’ của Quốc Gia
VN với Bảo Đại mất chính nghiă. VM lớn
mạnh trong rừng núi Bắc Việt. Cuộc chiến ra đời
trong tinh thần ái quốc chống thực dân Pháp mau
mắn chuyển hướng thành cuộc chiến
quốc cộng vài năm sau, khi Trung Cộng công khai giúp
đỡ VM và VM bắt đầu thi hành các chính sách
cộng sản như cải cách điền địa
theo mô thức Tàu cộng trong những vùng chiếm
được, trong khi Mỹ công khai giúp Pháp và chính
quyền Bảo Đại từng bước t́m độc
lập thật sự, nhưng từng bước quá
nhỏ và quá chậm. Người Việt ái quốc
bị kẹt trong thế phải lựa chọn:
một là đi theo cộng sản VM chống Pháp đến
cùng, hai là chấp nhận Bảo Đại như
một bước tiến đến độc lập
hoàn toàn không lệ thuộc thực dân cũng
chẳng bị nhuộm đỏ.
Rất nhiều người yêu nước thật
sự, đi theo VM nhưng sau ít lâu, không chấp
nhận CS, ‘về thành’ như các ông Nguyễn Khánh,
Nguyễn Văn Thiệu và Phạm Duy. Nhiều người khác
đi theo Việt Quốc hay Việt Cách, cho
đến khi các tổ chức này bị VM tiêu
diệt, đành phải về với Bảo Đại. Cuối trào Truman cũng
là giai đoạn cam go nhất khi VM với viện
trợ quân sự ào ạt của Mao sau khi đă
chiếm được cả lục địa
Tầu, đă đủ lớn mạnh để tung ra
những trận đánh biển người, nướng
lính theo sách lược của Mao trong khi Pháp thẳng
tay diệt dưới quyền tướng De Lattre de
Tassigny. Cuộc chiến leo thang, thanh niên Việt
cả hai bên chết hàng vạn, nhưng vẫn bất
phân tháng bại. Kết luận đơn
giản nhất, TT Truman có ‘tội’ v́ đă giúp Pháp
trở lại VN, đẻ ra cuộc chiến tranh Đông
Dương thứ nhất. Cũng phải nói ngay
nếu TT Truman không giúp Pháp trở lại, th́ cả nước
VN đă bị cộng sản hóa ngay sau cái gọi là Cách
Mạng Tháng 8/45 khi VM chiếm chính quyền trong
khoảng trống sau khi Nhật đầu hàng. Các
đảng phái quốc gia khi đó đơn độc,
hiển nhiên không đủ khả năng chống
đỡ VM với TC và Liên Xô đứng sau lưng. 2.
TT
Eisenhower. Cộng Ḥa 1953 -1960 Cựu
tư lệnh lực lượng đồng minh đánh
tan Hitler, tướng Dwight
Eisenhower đắc cử tổng thống Mỹ,
nhậm chức đầu năm 1953. Ông tiếp nhận
một t́nh trạng dở dở ương ương
tại Đông Dương. Ông giúp Pháp một cách
bất đắc dĩ v́ là đồng minh chính
trị nhưng trong thâm tâm không ưa Pháp và muốn giúp
VN được độc lập thật sự và mau
chóng. Bất ngờ, ông bị
đặt trước chuyện đă rồi khi Pháp
quyết định mở chiến dịch Điện
Biên Phủ, đóng chốt tại con đường
tử huyệt của VM qua Lào, để câu VM đến
đánh, ngơ hầu Pháp có cơ hội dùng hỏa
lực mạnh hơn để tiêu diệt hết. VM
chấp nhận thách đố, mang quân đến bao vây
ĐBP với ư định ngược, tiêu diệt quân
Pháp một lần cho trọn. Pháp
đă đánh giá VM sai lầm hoàn toàn, bị đe dọa tiêu
diệt thật. Cầu
cứu TT Eisenhower mang bom nguyên tử chiến lược
–nhỏ- tiêu diệt hầu như toàn bộ lực lượng
VM đang tập trung quanh ĐBP. TT Eisenhower tham khảo
với Anh Quốc, lo ngại việc tham gia quá lớn
của Mỹ sẽ mang tai tiếng cho Mỹ, sẽ
bị gắn liền với việc bảo vệ
thực dân Pháp duy tŕ thuộc địa. Ông quyết
định chỉ tham gia mạnh nếu có một liên
minh quốc tế trong đó có Anh, Úc, Tân Tây Lan và vài
quốc gia Á Châu như Phi Luật Tân, Thái, Mă Lai. Liên
minh không thành v́ Anh Quốc lo ngại sẽ xẩy ra
đại chiến thế giới thứ ba hay ít
nhất đại chiến Á Châu và TC sẽ đánh
Ấn Độ, Mă Lai, Tân Gia Ba, là những tử
huyệt của Anh. Anh khi đó đă trả độc
lập lại cho Ấn Độ và Mă Lai, nên cũng
không thấy lư do ǵ phải giúp Pháp duy tŕ thuộc
địa Đông Dương. Không
có sự tham gia của Anh, TT Eisenhower từ chối can
thiệp mạnh hơn, tuy có tăng cường phi
vụ thả bom chung quanh ĐBP cho có, nhưng không
đủ để cứu Pháp. TT Eisenhower có thể đă
tính đường khác. Chấp nhận cho Pháp thua
để Mỹ vào thay thế đánh VM mà không bị
mang tiếng là đồng minh của thực dân,
đưa cuộc chiến đi thêm một bước
nữa vào cuộc chiến tư bản - cộng
sản quốc tế, không c̣n mang cái áo chiến tranh dành
độc lập của một thuộc địa
nữa. Pháp thất trận ĐBP,
qua Ḥa Ước Geneve, tháo chạy, trao một
nửa nước cho VM, phần miền nam c̣n lại,
bán cái qua cho Mỹ. TT Eisenhower mang con bài
của ḿnh về nước, thủ tướng Ngô
Đ́nh Diệm chấp chánh với hậu thuẫn
mạnh mẽ của cả TT Eisenhower lẫn đảng
đối lập DC qua các thượng nghị sĩ Mike
Mansfield và John Kennedy, cũng như yểm trợ tích
cực của khối công giáo của Hồng Y Francis
Spellman. Thủ tướng
Diệm quan niệm VN cần phải lột xác, xóa
bỏ tận gốc mọi dấu vết của
chế độ thuộc địa mới có hy
vọng thành công trong cuộc chiến sống c̣n
chống CS. Bắt đầu bằng cách truất
phế quốc trưởng bù nh́n Bảo Đại
chỉ lo ăn chơi tại Hồng Kông và Nice,
trục xuất tất cả quan chức Pháp, xóa
bỏ mọi dấu vết của chế độ
thuộc địa, và tiêu diệt tận gốc
tất cả băng đảng, giáo phái tay sai của
Pháp như B́nh Xuyên, và cả các quan lại trong các
đảng gọi là ‘quốc gia’. Ông mau mắn
chứng minh cho dân Việt và cả thế giới
thấy ông là người yêu nước chân chính, có
khả năng và được hậu thuẫn
mạnh của những người Việt quốc gia
không chấp nhận Pháp nhưng cũng chống CS. TT
Eisenhower và cả đảng DC tích cực hậu
thuẫn thủ tướng rồi tổng thống
Diệm, từ kinh tế đến quân sự và
cả chính trị, xă hội. Đưa đến
thời cực thịnh của miền Nam, dưới
chế độ Đệ Nhất Cộng Ḥa cuối
thập niên 1950 và đầu thập niên 1960. VN trở
thành mô thức phát triển mẫu mực cho một nước
chậm tiến mới thoát khỏi đô hộ,
vừa phải ổn định chính trị, vừa
phải lo định cư một triệu người
bắc di cư, vừa lo chống đỡ đe
dọa CS xâm lăng. Một gương sáng mà thủ tướng
Lư Quang Diệu của Tân Gia Ba khi đó c̣n phải
ước mơ. Nh́n chung, TT Eisenhower là người
có ‘tội’ là đă bỏ qua cơ hội tiêu
diệt VM tại ĐBP, nhưng sau đó lại là người
có công lớn đă củng cố miền Nam dưới
Đệ Nhất Cộng Ḥa. TỔNG THỐNG MỸ VÀ VIỆT NAM
CỘNG H̉A Quốc Gia Việt Nam cáo
chung năm 1955 khi thủ tướng Ngô Đ́nh
Diệm truất phế Bảo Đại, thành lập
chế độ Cộng Ḥa, chấp chánh như
tổng thống đầu tiên của VN. VNCH tồn
tại 20 năm, tới 1975 khi CSVN chiếm trọn
miền Nam. 3.
TT
Kennedy. Dân Chủ 1961 – 1963 (Đoạn này trích dẫn từ bài #18: TT
Kennedy Và VN đă đăng trên DĐTC tháng
4/2018: https://diendantraichieu.blogspot.com/2018/04/tt-kennedy-va-viet-nam.html#more) Năm 1960, TNS John Kennedy đắc cử
tổng thống. Ông tin tưởng một thể
chế trung lập Lào với sự chấp nhận
của Liên Xô sẽ bảo đảm Lào thành trái
độn ngăn cản con đường ‘nam
tiến’ của CSBV. TT Kennedy vận động Nga
để rồi cuối cùng đẻ ra được
hiệp định trung lập hóa Lào năm 1962.
Một thể chế trung lập quái đản, trao vào
tay Pathet Lào, con đẻ của CSBV, một
nửa đông-nam của lănh thổ Lào, giáp giới
với CSBV, VNCH, và Căm Pu Chia, tức là để nguyên
hành lang này cho CSBV chuyển quân vào Nam VN qua cái sau này
gọi là ‘đường ṃn HCM’. Đây là sai lầm
chiến lược vĩ đại mang theo hậu
quả cực kỳ tai hại cho miền Nam VN của tân
tổng thống trẻ không bao nhiêu kinh nghiệm. TT
Eisenhower
đă đúng hoàn toàn khi tiên đoán CSBV sẽ không
bao giờ tôn trọng trung lập của Lào bất
kể thái độ của Liên Xô, và sẽ chiếm Căm
Pu Chia và VNCH qua ngă Lào không sớm th́ muộn. Nhiệm kỳ của TT
Kennedy cũng trùng hợp với sự ra đời chính
thức và lớn mạnh của Mặt Trận
Giải Phóng Miền Nam VN như công cụ của CSBV. Năm 1963 là cái
mốc đổi đời của VNCH. Cuộc
chiến leo thang mạnh khi CSBV bắt đầu
chuyển quân ào ạt vào miền Nam trong khi TT Diệm
gặp khó khăn chính trị lớn khi biến cố
Phật giáo miền Trung nổ ra, rồi sau đó
bị lật đổ. Năm này cũng là năm
truyền thông Mỹ đổ bộ vào miền Nam và
tin tức chiến sự VN cũng như những khó khăn
chính trị của TT Diệm bắt đầu tràn
ngập mặt báo và TV Mỹ. Hàng đoàn kư giả
Mỹ thay v́ chỉ làm nhiệm vụ thông tin trung
thực th́ đều đă biến thành chuyên gia sách
động cho việc Mỹ chấm dứt can thiệp
vào cuộc chiến, triệt để bôi bác miền
Nam, tiếp tay cho bộ máy tuyên truyền của CSVN
trong dư luận Mỹ. Năm 63 cũng là năm
TT Kennedy rất sợ tin xấu v́ ông chuẩn bị tái
tranh cử trong năm 64. TT Kennedy nh́n thấy rơ
hai lựa chọn của ông: một là phủi tay,
chấm dứt mọi can thiệp, và hai là can thiệp
mạnh hơn. Nhất chín nh́ bù, không có giải pháp
lằng nhằng ở giữa. Giải pháp rút lui ngay khó
làm được v́ Mỹ vẫn c̣n bị chi
phối bởi thuyết domino, lo sợ sẽ mất
hết cả Đông Nam Á nếu bỏ Nam VN, chưa
kể TT Kennedy vẫn bị ám ảnh bởi h́nh
ảnh một tổng thống yếu đuối
bị Khrushchev coi thường, thất bại hai
lần ở Cuba (trong vụ đổ bộ tại
Vịnh Con Heo, và vụ tháo gỡ hỏa tiễn nguyên
tử của Liên Xô tại Cuba), cũng như viễn
tượng phải tranh cử chống ông diều hâu
Nixon trong kỳ bầu cử tới. Ngược
lại, can thiệp mạnh chỉ có thể thực
hiện được nếu loại bỏ được
anh em ông Diệm-Nhu v́ TT Diệm không chấp nhận
can thiệp sâu hơn của Mỹ. Ở đây không
phải chỉ là việc TT Diệm bác bỏ ư
kiến đổ bộ lính Mỹ vào VN, mà c̣n là
việc ông chống lại ư định của Mỹ
muốn gia tăng kiểm soát cuộc chiến quân
sự cũng như kiểm soát chính trị và kinh
tế. Người Mỹ muốn nắm quyền
quyết định quân sự, nắm luôn hầu bao
viện trợ quân sự và kinh tế, đồng
thời ép TT Diệm thi hành những cải tổ chính
trị theo ư của họ. Những yêu sách quá lớn
mà TT Diệm cương quyết không nhượng
bộ. Về phiá VNCH th́ một
số tướng lănh đă rục rịch tính
chuyện lật đổ TT Diệm v́ họ cho
rằng ông này đă thất bại, mất hậu
thuẫn dân, khiến VC ngày càng lớn mạnh, đe
dọa sự tồn vong của cả miền Nam. Nhưng
các tướng cũng chỉ có thể đảo chánh
nếu nhận được bảo đảm Mỹ
sẽ không can thiệp cản trở đảo chánh,
hay nếu đảo chánh thành công, sẽ tiếp
tục hậu thuẫn cuộc chiến chống CSBV.
Chứ nếu đảo chánh xong, Mỹ rút đi không
yểm trợ cho cuộc chiến th́ nguy nặng v́ VNCH
sẽ không thể nào đương đầu
được với CSBV vẫn nhận được
viện trợ quân sự hùng hậu từ khối Liên
Xô và TC. Sau nhiều lưỡng
lự và tranh luận nội bộ, chính
quyền Kennedy lựa
con đường can thiệp mạnh, chuyển qua giai
đoạn tích cực áp lực các tướng
lật đổ TT Diệm. Cuộc đảo chánh năm 63, bất
kể nguyên nhân và diễn biến, là một biến
cố ‘đổi đời’, làm suy yếu nền
tảng chính trị và quân sự của chính quyền
VNCH, nhất là các tướng cả 3 năm sau vẫn
bận rộn ‘chỉnh lư’ nhau, thay đổi các
tư lệnh quân sự và chỉ huy địa phương
như chong chóng. Nh́n vào những sự
kiện lịch sử trên, ta thấy rơ ta thua không
phải năm 75, mà đă thua từ năm 63 với
những khó khăn chính trị bị TTDC Mỹ khai thác
tiếp tay cho VC, và khi TT Diệm bị lật đổ,
hay xa hơn, thua
từ năm 62 khi TT Kennedy phạm sai lầm
chiến lược vĩ đại, kư hiệp ước
ngớ ngẩn ‘trung lập hóa’ Lào. TT Diệm trong 6 năm đầu là một vĩ nhân có công lớn khi đă thành công xây
dựng nên một VNCH tương
đối thịnh vượng và hùng mạnh từ
đống tro tàn do thực dân Pháp để lại, nhưng
ông cũng đă phạm nhiều sai lầm lớn trong
3
năm
sau đó, khi gặp khó khăn chính trị nội
bộ. Càng
gặp khó khăn, TT Diệm càng tự cô lập, càng
dựa vào gia đ́nh, và càng trở nên độc
đoán, đưa đến việc mất ḷng dân
rất nhiều, cuối cùng đi đến đảo
chánh. Việc dân
miền Nam nói chung khi đó bất măn chế độ,
ào ạt biểu t́nh chống TT Diệm trong vụ
Phật giáo để rồi vui mừng xuống
đường hoan hô Cách Mạng 1/11/1963 là những
dữ kiện lịch sử, không thể phủ
nhận, viết lại được. Nếu TT Eisenhower có
công lớn giúp TT Diệm gây dựng nên một VNCH tương
đối thịnh vượng và hùng mạnh, th́ TT
Kennedy chính là người đă lấy 2 quyết định
cực tai hại là mở hành lang ‘đường ṃn
HCM’ bên Lào cho CSBV xâm nhập và giúp lật đổ
TT Diệm mở toang cửa cho TT Johnson can dự
mạnh, khiến cuộc chiến của miền Nam
mất hết chính nghiă, cuối cùng đưa đến
việc mất cả miền Nam VN vào tay CSBV. Hơn
tất cả các tổng thống khác, TT
Kennedy đă là người chịu trách nhiệm
lớn nhất trong việc mất miền Nam VN vào tay
CSBV. (C̣n tiếp kỳ sau với vai tṛ quan trọng hơn của các TT Johnson, Nixon và Ford)
|