CÁC
TỔNG THỐNG MỸ VÀ VIỆT NAM (Phần II)
Vũ Linh |
Tuần này, chúng ta bàn qua phần hai của bài
nhận định về vai tṛ của các tổng
thống Mỹ trong việc mất trọn miền Nam VN
vào tay VC. Ba tổng thống Johnson, Nixon, và Ford sẽ
được bàn qua trong phần này. Đây là giai đoạn chiến tranh VN lên cao
điểm, rồi đi đến kết cuộc bi
thảm mà ta đă biết. 4. TT Johnson. Dân Chủ 1963 – 1968 TT Kennedy bất ngờ bị ám sát chết ba
tuần sau khi TT Diệm bị giết. Nhiều
người tin dị đoan sẽ gọi là ‘quả
báo’? TT Johnson lên thay thế, một năm sau ông ra
tranh cử và đắc cử, làm tổng thống chính
danh chứ không c̣n là ‘tổng thống ngáp’ sau khi TT
Kennedy chết, nhưng 4 năm sau đó, quyết định
không ra tranh cử nữa. TT Johnson, dân ‘cao bồi’
Texas thứ thiệt, chủ trương cứng rắn
hơn TT Kennedy. Ngay từ đầu, ông
muốn tiếp tục hậu thuẫn TT Diệm,
phản đối lại mọi đề nghị
đảo chánh, chống ngay cả những áp lực
đẩy cố vấn Nhu ra ngoài ṿng quyền lực.
Ngay sau khi nhậm chức, ông đă muốn can dự
mạnh, nhưng v́ phải ra tranh cử cuối năm
1964, nên phải dè dặt, tuyên bố sẽ không cho
“thanh niên Mỹ chết trong đồng ruộng Á Châu”
và đả kích mạnh thái độ ‘diều hâu’
cực đoan của ứng cử viên CH ông Barry
Goldwater. Sau khi đắc cử, ông
mau mắn lật ngược chính sách, can thiệp
mạnh vào nam VN, nhất là sau khi t́nh h́nh VN suy xụp
mau chóng qua các ‘chỉnh lư’ không ngừng của các
tướng lănh. TT Johnson quyết tâm sẽ
không là tổng thống Mỹ đầu tiên thua
trận hay bỏ rơi đồng minh. Trong thời gian
đầu, ông được hậu thuẫn của
đảng DC khi đó nắm đa số tại
cả Hạ Viện lẫn Thượng Viện. Đảng
CH diều hâu cũng hậu thuẫn tuy họ đ̣i
hỏi những biện pháp can thiệp c̣n mạnh hơn
nữa. Quốc hội biểu quyết cho TT Johnson toàn
quyền đánh BV sau vụ tàu Maddox bị tàu VC
bắn, qua Nghị Quyết Tonkin –Tonkin Resolution- chỉ
có đúng 2 phiếu chống so với 98 phiếu
thuận tại Thượng Viện, với 0 phiếu
chống và 416 phiếu thuận tại Hạ Viện.
Mở màn cho các chiến dịch dội bom Bắc
Việt kéo dài qua tới thời TT Nixon. Cái nhức răng cho TT
Johnson là ông là người có khuynh hướng cấp
tiến nặng, có tham vọng lớn muốn thay đổi
xă hội, tung ra các chương tŕnh cấp tiến
để thực hiện cái mà ông gọi là Great
Society, nhưng kẹt chiến tranh VN, vừa tốn
tiền quá mức, vừa gây phân hóa lớn trong chính
trường cũng như trong dư luận quần chúng,
là những cản trở vĩ đại cho giấc
mộng Great Society. Sau vài năm đầu
thậm thụt leo thang từng bước, đưa
đến việc hơn nửa triệu quân Mỹ tham
gia cuộc chiến mà vẫn không thấy ‘ánh sáng
cuối đường hầm’, ông t́m cách ‘tháo
chạy’ nhưng không t́m ra lối thoát. Những cố gắng
mở đường nói chuyện với VC qua
nhiều ngă đều thất bại. Ngay cả sau khi
Mỹ và VC thỏa thuận gặp nhau tại Paris tháng
5/1968 sau khi VC thảm bại trong vụ tổng công kích
Mậu Thân, hai bên cũng chẳng đi đến
một thỏa thuận nào hết, tranh căi cả
mấy tháng trời về những chuyện lẩm
cẩm như h́nh thù cái bàn họp. Thật ra, VC
cố t́nh tŕ hoăn để đợi bầu cử
tổng thống Mỹ cuối 1968. Khi hai bên chuẩn
bị nói chuyện cũng là lúc TT Johnson đă công khai
tuyên bố ông không ra tranh cử lại, trong khi các
ứng cử viên tổng thống của đảng
DC, trong đó có các thượng nghị sĩ Eugene
McCarthy, George McGovern và Robert Kennedy, đều công khai
muốn Mỹ rút khỏi VN. TT Johnson là người
chịu trách nhiệm mang hơn nửa triệu quân
Mỹ vào VN, ‘chiếm’ quyền trực tiếp điều
hành cuộc chiến từ quân sự đến chính
trị, với những hậu quả tốt cũng như
xấu. Tốt v́ hiển nhiên đă cứu miền Nam
khỏi một đại bại ngay từ những năm
65-66 khi quân lực VNCH gần như tan hàng v́ những
chỉnh lư của các tướng, chỉ lo đánh
lẫn nhau chứ không lo đánh VC nữa. Xấu v́
đúng như TT Eisenhower và TT Diệm đă lo ngại,
việc Mỹ can thiệp trực tiếp quá mạnh,
đă khiến VNCH mất chính nghiă, tặng cho VC
một vũ khí tuyên truyền vô giá là “lính da
trắng Mỹ chỉ là thay thế lính da trắng Pháp
thôi”. Qua việc TT Johnson can
thiệp mạnh, nhiều người nghe theo tuyên
truyền của CS cho rằng việc đó thể
hiện tính ‘đế quốc’ của Mỹ.
Thật ra, nếu hiểu người Mỹ rơ th́
sẽ biết quyết định can thiệp mạnh
của TT Johnson chẳng qua là đúng theo tính người
Mỹ, làm ǵ cũng muốn ḿnh là người lấy
quyết định trọn vẹn, không tin người
khác có khả năng làm được việc,
nhất là khi thấy cấp lănh đạo VNCH, từ
TT Diệm đến các tướng lănh, đều
đă đi từ thất bại này đến
thất bại khác. Đáng tiếc thay, chính
quyền Mỹ cũng không khá hơn, đă đưa
ra hết chiến lược sai lầm này đến
chính sách trật bét nọ, luôn đi theo VC nhưng
chậm hơn một bước. Ban đầu, Mỹ
chờ đợi một cuộc chiến quy ước
lớn kiểu Bắc Hàn xâm lăng Nam Hàn, th́ VC chơi
du kích chiến. Khi Mỹ chuyển qua chống du kích
trong rừng th́ VC tổng công kích thành phố. Khi
Mỹ lo bảo vệ thành phố và lùng du kích VC trong
núi, th́ VC xua thiết giáp tràn qua biên giới. TT Johnson coi cuộc chiến
như một cuộc đấu vơ chính trị trong
đó quân sự chỉ là công cụ. Tất cả các
chiến dịch quân sự lớn, tất cả các
cuộc đánh bom BV, đều phải được
Ṭa Bạch Ốc ô-kê dựa trên tính toán chính
trị, từ nhu cầu, ư nghiă, đến hậu
quả. Rồi lại c̣n phụ thuộc vào phân tích
thống kê điện toán –computer data analysis- theo
kiểu tỷ lệ địch chết so với
số lượng đạn bắn, số làng đă
b́nh định so với số bom đă thả,...
Nhiều chuyên gia đă nhận xét không sai là cuộc
chiến không phải do các tướng bốn năm
sao điều hành trên chiến trường, mà là do các
sinh viên vừa tốt nghiệp đại học, chuyên
gia tranh căi lư thuyết chính trị và phân tích thống
kê, làm việc trong pḥng lạnh tại Ṭa Bạch
Ốc hay Ngũ Giác Đài, chỉ nh́n thấy
những con số thống kê, chưa bao giờ thấy
một giọt máu hay nghe một phát súng nổ. Mỹ thua v́ không hiểu mà
cũng chẳng bao giờ muốn t́m hiểu những
yếu tố tâm lư chính trị đặc thù của
VC nói riêng và VN nói chung, mà chỉ trông cậy vào
hỏa lực. Lư luận của người Mỹ:
Mỹ đă diệt tan cả Đức lẫn
Nhật, luôn cả Trung Cộng tại Bắc Hàn, mà
đâu có cần t́m hiểu tâm lư của Hitler, Hirohito
hay Mao ǵ đâu, sao bây giờ phải thắc mắc
chuyện mấy ông nông dân Việt nghĩ ǵ? Ngay
cả các tướng tá, sĩ quan VNCH nghĩ ǵ,
Mỹ cũng chẳng cần biết. Cái sai lầm của
lập luận này là Đức, Nhật và Trung
Cộng đều dùng hỏa lực của họ
chống lại hỏa lực của Mỹ, và họ
thua; trong khi VC không dùng hỏa lực mà dùng chiến
tranh gặm nhấm. Vũ khí chính của VC là lấy ḷng
dân bằng đủ cách, từ dụ dỗ ngon
ngọt đến lừa gạt xảo trá nhất
đến khủng bố và giết thẳng tay, tùy
đối tượng. Với mục đích kéo dài
cuộc chiến, gặm nhấm vào tính kiên nhẫn
của dân Mỹ. Trong khi HCM nói chuyện “100 năm
trồng người” th́ người Mỹ chỉ nh́n
thấy 4 năm nhiệm kỳ một tổng thống. Dĩ nhiên là VC cũng
phải dùng hỏa lực, nhưng chỉ để
‘dứt điểm khi thời cơ chín mùi’. Ở
đây ta thấy ngay cái sai lầm của cấp lănh
đạo VC, quá chủ quan, quá tin tưởng vào tuyên
truyền của chính ḿnh, tưởng ‘cơ hội
dứt điểm’ đă tới với Mậu Thân 68
và Mùa Hè 72, để rồi cả hai lần đều
ôm đầu máu, chết lính như rạ. ‘Cơ
hội dứt điểm’ chỉ thực sự đến
với VC năm 75 khi quốc hội DC Mỹ đă
cắt đứt cuống rốn cung cấp bom đạn
và xăng nhớt cho QLVNCH. Chính sách của TT Johnson tiêu
biểu cho chính sách đối ngoại cũng như quân
sự của các tổng thống của đảng DC:
bao đồng muốn can dự nhưng lại nhát tay,
vừa đánh vừa run v́ sợ TC nhẩy vào. Khi TT
Johnson được mật báo có cả ba trăm ngàn
lính TC ở BV, ông tiếp tay VC dấu nhẹm tin này v́
sợ đụng độ lớn với TC. 5.
TT Nixon. Cộng Ḥa 1969 – 1974 TT Johnson không ra tranh cử
lại, đảng DC đưa PTT Hubert Humphrey ra
chống lại cựu PTT Richard Nixon. Ông Nixon thắng. Ông Nixon khi ra tranh cử
bảo đảm ông đă có “kế hoạch bí
mật” để chấm dứt chiến tranh VN. Sau này,
kế hoạch bí mật đó được bật mí
và mọi người thấy đó là giải
quyết cuộc chiến VN bằng cách nói chuyện
thẳng với các đàn anh đang đỡ đầu
VC là Liên Xô và Trung Cộng, trao đổi quyền
lợi dựa trên tính toán địa chính trị toàn
cầu, trong khi chỉ điều đ́nh với VC
về chi tiết đ́nh chiến, rút quân, và trao
trả tù binh. TT Nixon nh́n cuộc chiến
VN dưới nhiều khiá cạnh: -
Cuộc chiến VN là một vi khuẩn vĩ đại
gây phân hóa không hàn gắn được trong xă
hội và chính trị Mỹ, làm tê liệt tất
cả mọi chương tŕnh nội bộ hay
ngoại giao của Mỹ. Chưa kể tốn kém quá
mức về tiền bạc và nhất là sinh mạng
thanh niên Mỹ. Mà lại không thấy giải pháp nào
khi khối CS quốc tế vẫn kiên tŕ giúp VC và VC
nghiến răng thí mạng cùi tới cùng. Ông cho
rằng việc cần phải làm là một mặt
củng cố quân lực VNCH qua sách lược gọi
là ‘Việt Nam hóa’, mặt khác điều đ́nh
với Liên Xô và TC chấm dứt hay ít nhất
giảm mạnh viện trợ quân sự của họ
cho VC, như vậy sẽ giúp cho VNCH một cơ
hội đánh nhau ngang tay với VC, và trong cuộc
chiến ‘ngang tay’ đó, TT Nixon tin tưởng VNCH
sẽ chỉ thắng hay huề, không thể thua. -
Nhưng quan trọng hơn nữa trong cái viễn
kiến quốc tế của TT Nixon, cuộc chiến VN
là một chất keo kết nối khối CS, nhất là
Nga và Tàu, mà nếu Mỹ chấm dứt can thiệp th́
chất keo sẽ tan và mấy ông CS sẽ túm đầu
đánh nhau túi bụi. Khối CS quốc tế đang
bị chi phối bởi việc dành ảnh hưởng
giữa hai ông anh lớn, Mỹ cần phải triệt
để khai thác phân hóa đó để tạo ra
thế chân vạc, ‘tam quốc tân thời’, chứ
hai ông CS lớn đó ngồi với nhau th́ Mỹ khó
chống đỡ. TT Nixon đă có viễn
kiến xa hơn tất cả mọi người. Sau
khi chiến tranh VN chấm dứt, quan hệ Liên Xô -
Trung Cộng đổ vỡ hoàn toàn, không hàn gắn
được. Sau đó, ngay cả TC cũng đánh VC
trong khi VC đánh Căm-Pu-Chia. Chuyện ‘môi hở răng
lạnh’ biến thành răng cắn cho đứt môi. Phải thẳng thắn nh́n
nhận chiến tranh VN là một hột cát kẹt trong
con mắt của Mỹ, không có một ích lợi nào mà
chỉ làm cộm mắt. TT Nixon thực sự muốn
chấm dứt chiến tranh VN. Nhưng cũng không khác
TT Johnson, ông không muốn là tổng thống đầu
tiên thua trận, nhất là thất hứa không bảo
vệ đồng minh. Thất hứa đó, ông sợ
Mỹ sẽ phải trả giá quá cao khi Mỹ và
khối Liên Xô-TC c̣n đang tranh dành ảnh hưởng
trên các quốc gia đệ tam. Mỹ bỏ miền
Nam VN quá dễ dàng sẽ khiến các quốc gia đệ
tam cân nhắc việc làm đồng minh với Mỹ. Điều ông hy vọng là
sẽ có thể điều đ́nh trên đầu VC,
tức là điều đ́nh thẳng với Liên Xô và
TC để hai xứ đàn anh này ép VC chấp
nhận một giải pháp nào đó mà sẽ không có
bên nào thắng bên nào thua, chấm dứt chiến tranh
VN theo mô thức Triều Tiên, duy tŕ t́nh trạng hai
miền trong khi chờ đợi thống nhất có
thể cả chục năm sau. TT Nixon sai lầm và thất
bại v́ ông đă không tính trước sự
chống đối quá mạnh của đối
lập DC và nhất là không tính Watergate. Đảng DC thất
bại với TT Johnson nhất quyết không cho ông CH
Nixon thành công. Trong suốt
thời gian nắm quyền, ông Nixon đă gặp
phải chống đối tuyệt đối của
phe đối lập DC và TTDC thiên tả suốt ngày bôi
bác miền Nam và ca tụng VC, chưa kể hàng vạn
người xuống đường biểu t́nh liên
tục cả mấy năm trời. Chỉ trong 4 năm
nhiệm kỳ đầu, TT Nixon đă bị Hạ
Viện DC biểu quyết hơn 80 lần, trung b́nh 3
tuần một lần trong suốt bốn năm
liền, đ̣i TT Nixon chấm dứt can dự vào
cuộc chiến. Tháng Chạp
1969, Thượng Viện DC thông qua luật Church-Cooper
(thượng nghị sĩ DC Frank Church của Idaho, và
CH John Cooper của Kentucky) cấm triệt mọi
hoạt động quân sự -hành quân hay dội bom- trên
lănh thổ Lào. Đường ṃn Hồ Chí Minh
được các nghị sĩ DC Mỹ bảo đảm
an toàn tuyệt đối. Năm 1974, VNCH
bất lực nh́n VC chuyển quân và súng đạn ào
ạt vào Nam VN qua đường ṃn bây giờ đă
thành xa lộ HCM. TT Nixon muốn đánh bom, nhưng
bị vướng x́nh lầy Watergate, không đủ
hậu thuẫn chính trị để vượt qua
luật Church-Cooper. Tháng 6, 1970, Thượng
Viện DC thông qua tu chính Church-Cooper cấm chính
quyền Nixon không được chi một đồng
nào cho cuộc chiến tại Căm-Pu-Chia, cấm
gửi lính qua hay đánh bom xứ này luôn. Đến
phiên các mật khu VC trên đất Căm-Pu-Chia
được Thượng Viện DC Mỹ bảo
đảm an toàn. VC di chuyển bộ tư lệnh
từ “R” ở Nam VN qua Căm–Pu-Chia. Năm 1973,
lấy cớ Hiệp Định Paris đă kư, TNS Church
lại cho thông qua luật mới cắt hết mọi
viện trợ quân sự cho ba nước Việt-Miên-Lào.
QLVNCH hết nhận được viện trợ quân
sự. Cũng năm 1973, quốc hội thông qua
luật War Power Act, Quyền Tham Chiến, bắt tổng
thống phải xin phép quốc hội nếu tham gia
bất cứ cuộc chiến nào quá ba tháng. V́
Hiệp Định Paris đă chấm dứt chiến
tranh VN, nếu Mỹ trở lại VN th́ sẽ coi như
mở đầu một cuộc chiến mới,
phải có sự chấp thuận của quốc
hội do DC nắm đa số tại cả hai
viện. (Cả hai luật cắt viện trợ hoàn toàn
và cấm tham chiến khi đó được tân
nghị sĩ Joe Biden ủng hộ) Trong khung
cảnh ‘nội chiến’ với đối lập DC
đó, TT Nixon lại dính vào vụ Watergate, dĩ nhiên
bị TTDC và DC triệt để khai thác, cuối cùng
ép ông phải từ chức. Câu hỏi không
bao giờ có câu trả lời: nếu TT Nixon không
bị DC chặt chân trói tay và dính lầy Watergate th́
số phận VN sẽ ra sao? Hiệp Định Paris
sẽ như thế nào? Ông sẽ đối phó
thế nào khi thấy VC chuyển quân giữa ban ngày trên
xa lộ HCM? Ông sẽ phản ứng ra sao khi VC xé
Hiệp Ước Paris, tung thiết giáp chiếm Nam VN năm
75? Nhiều người
VN trách cứ TT Nixon và nhất là cố vấn Kissinger
đă gian trá, lừa gạt VNCH, bán đứng VNCH cho
Trung Cộng, để bảo vệ Do Thái. Luận cứ
này có đúng nhưng cũng sai. Đúng ở điểm
TT Nixon muốn t́m giải pháp rút khỏi VN và nhiều
khi đă không hoàn toàn chân thật với TT Thiệu, v́
nhu cầu bảo vệ quyền lợi Mỹ cũng như
thực hiện sách lược ‘tam quốc’ của
ông, trong khi ông lại không muốn TT Thiệu công khai
chống v́ ông sợ mang tiếng phản đồng
minh, do đó đă dấu TT Thiệu nhiều
chuyện. Không đúng ở điểm TT Nixon muốn
bán đứng VNCH cho TC với bất cứ giá nào,
để bảo vệ Do Thái. Tố Kissinger “bán đứng
VN để bảo vệ Do Thái” là một luận
cứ thô thiển dễ ăn khách v́ Kissinger là Do Thái.
Cũng chỉ là một giả thuyết nằm trong câu
chuyện hư cấu thế lực ngầm Do Thái thao
túng cả thế giới. Thật ra, Do Thái chưa bao
giờ là một yếu tố quan trọng trong việc
giải quyết chiến tranh VN. TT Nixon cố
gắng t́m một giải pháp để VNCH có thể
tồn tại lâu dài, qua những cuộc dội bom Căm-Pu-Chia
và nhất là những cuộc dội bom trên Hà Nội
mùa Giáng Sinh 72, nhưng mỗi lần ông ra tay mạnh là
một lần bị khối DC ra luật mới trói tay
thêm. Luận cứ
TT Nixon bán đứng miền Nam thật ra là do phe DC
tung ra để chạy tội sau khi mất miền Nam,
dấu nhẹm tất cả những biểu quyết
của khối DC tại quốc hội đă khoá
chặt tay TT Nixon. Nếu quốc hội đă ra
luật cắt mọi viện trợ quân sự,
cấm Mỹ dội bom trên cả bốn vùng, nam và
bắc VN, Lào và Căm-Pu-Chia, cấm cả tổng
thống không được tham chiến trở lại
th́ cho dù TT Nixon muốn giữ miền Nam th́ ông có cách
nào?
Làm sao có thể nói TT Nixon là người
chịu trách nhiệm về việc bỏ/mất VNCH?
Điều ngạc nhiên phải nói là việc ông đă
cứng cựa, cầm cự dai dẳng được
4 năm, vớt vát đến cùng, trước khi kư
Hiệp Định Paris. TT Nixon bị
phe đối lập DC đánh đến độ không
c̣n giữ được cái ghế của ông, làm sao
giữ được cả miền Nam VN? 6.
TT Ford. Cộng Ḥa 1974 – 1976 TT Ford nhậm
chức sau khi TT Nixon từ chức. Ông thừa hưởng
một nước Mỹ đang bị khủng
hoảng nặng chưa từng thấy và phải
tập trung mọi nỗ lực để cứu con
bệnh Mỹ, trong khi uy tín ông không có bao nhiêu v́
chỉ là tổng thống ‘ngáp’ do Nixon chỉ định
chứ không ai bầu (tuy ông có được quốc
hội phê chuẩn). Trong chuyện VN, ông hoàn toàn
bị trói tay bởi Hiệp Định Paris cũng như
các luật Church-Cooper. Khi VC rầm
rộ chiếm miền Trung, ào ạt nam tiến, TT Ford
t́m mọi cách cứu giúp. Ông yêu cầu quốc
hội cho lính Mỹ trở lại viện cớ không
phải để cứu nam VN, mà là để cứu lính
và dân Mỹ c̣n đang ở VN. Ông cũng yêu cầu
quốc hội cho tháo khoán khẩn cấp 720 triệu
tiền viện trợ quân sự đă được
phê chuẩn cho tài khoá 75 nhưng chưa tháo khoán.
Những yêu cầu này bị quốc hội DC bác
bỏ. Nhưng TT Ford vẫn bất chấp, trong
những ngày cuối, cho chở hàng loạt vũ khí,
đại bác, súng đạn qua cho VNCH, lấy cớ
thay thế hao ṃn, trên nguyên tắc được
Hiệp Định Paris cho phép. (Những chuyến bay này
chở bom đạn đến, khi rời VN th́ chở
qua Mỹ hàng ngàn trẻ mồ côi VN; chuyến bay đầu
tiên, họa vô đơn chí, rớt ngay tại Tân Sơn
Nhất, cả trăm trẻ em bị chết) Cuối tháng Tư
75, khi VC gơ cửa Sàig̣n, quốc hội DC cũng bác luôn
yêu cầu của TT Ford xin viện trợ khẩn
cấp 300 triệu để tăng cường bảo
vệ thủ đô Sàig̣n và phần c̣n lại của
miền Nam trong khi chờ đợi (hy vọng?) các bên
điều đ́nh lại. Cận ngày mất nước
khi không c̣n hy vọng ǵ, TT Ford xin chuyển số 300
triệu này qua một quỹ đặc biệt giúp
chuyên chở và định cư tại Mỹ
khoảng 200.000 quân cán chính VNCH mà ông cho rằng
chắc chắn sẽ bị VC giết sau khi họ
chiến thắng. Đề nghị này cũng bị
quốc hội DC bác. Măi đến
ngày 23/5, ba tuần sau khi VNCH đă mất, trong khi
cả vạn người Việt đang chờ tại
Guam và Wake, và sau những vận động mạnh
của TT Ford trong hậu trường, quốc hội
mới biểu quyết chấp nhận 130.000 người
Việt đầu tiên tỵ nạn. Ở đây,
phải ghi nhận khi đó, tân thượng nghị sĩ
Joe Biden đă là tiếng nói chống đối
mạnh nhất. KẾT Nh́n vào thực tế
lịch sử, VN từ thời Quốc Gia VN đến
Đệ Nhất rồi Đệ Nhị Cộng Ḥa,
cũng kể luôn cả chế độ VC tại
miền Bắc, trước sau vẫn chỉ là quân
chốt trên bàn cờ chính trị thế giới. Quân
chốt của Mỹ và quân chốt của khối CS
quốc tế, trong một cuộc chiến ‘ủy
nhiệm’ không hơn không kém. Việc đánh hay giúp
VN –QG hay CS- luôn nằm trong những tính toán lớn
của các đại cường. Cấp lănh đạo
VN từ CS đến QG, có tiếng nói rất nhỏ và
quyền hành c̣n nhỏ hơn nữa. Dù vậy, cũng không thể nói cấp lănh
đạo VN hoàn toàn không có trách nhiệm. Về phiá
quốc gia, những chuyện như Bảo Đại
ăn chơi trác táng không lo việc nước, hay TT
Diệm xây dựng nên một quốc gia thịnh vượng
và ổn định, nhưng sau đó phạm nhiều
sai lầm nghiêm trọng trở nên độc đoán,
hay các tướng lănh đảo chánh trên danh nghiă
để đánh VC hữu hiệu hơn, nhưng
rồi v́ tham vọng cá nhân liên tục chỉnh lư
lẫn nhau, bán cái việc đánh VC cho Mỹ, các sư
săi ‘chống chiến tranh’, linh mục ‘chống tham
nhũng’, sinh viên ‘chống bắt lính’, kư giả
‘đi ăn mày’, nhân sĩ ‘đ̣i quyền
sống’, các chính khách thời cơ ‘cẳng
giữa’, những cuộc triệt thoái hỗn độn
qua những quân lệnh bất nhất, rồi cuộc
đầu hàng vô điều kiện quá nhanh thay v́
cầm cự ít lâu để t́m cách điều đ́nh,…
cuối cùng đưa đến mất nước,
đó chính là những phần trách nhiệm lớn
của người Việt quốc gia, không phải là
lỗi của Johnson hay Nixon hay Kissinger ǵ hết. Những sai lầm đó đưa đến
sự hy sinh cao cả nhưng oan uổng của một
số tướng lănh oai hùng tuẫn tiết v́ nước
và những sĩ quan và lính can trường chiến
đấu đến cùng dù biết vô vọng. Những lập luận "Mỹ tháo
chạy" hiển nhiên không sai lắm, nhưng dù sao
cũng vẫn là cách các quan chức miền Nam xiả
tay đổ thừa mà không dám nhận phần trách
nhiệm của chính ḿnh. Nhiều chính khách và tướng lănh có trách
nhiệm lớn trong cuộc chiến đă viết sách
hay nói chuyện. Hầu hết đều khoe ḿnh đúng
và tài giỏi, để đổ thừa tất
cả sai lầm lên đầu người khác. Điều
đáng buồn là h́nh như những vị này, trong
đó có nhiều vị bỏ quan bỏ lính ôm vợ
con chạy, đă không có một vị nào đủ
can đảm đứng ra nhận sai lầm của chính
ḿnh, công khai có một lời xin lỗi người dân
và nhất là xin lỗi người lính miền Nam, từ
lính chủ lực tới địa phương quân,
nghiă quân, nhân dân tự vệ và cảnh sát, và
nhất là vợ con của lính,
là những nạn nhân khốn khổ thật sự
trong cuộc chiến bi thảm kéo dài 30 năm.* Vũ Linh |