Chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc đă chuyển từ ‘hợp tác’ sang ‘đối đầu’ |
Tóm tắt bài viết ·
Chính sách
thân thiện với Bắc Kinh được khởi xướng
từ thời chính quyền của Tổng thống
Nixon, sau khi ông đến thăm Trung Quốc vào năm
1972, chấm dứt sự cô lập đối với
Trung Quốc, làm đối trọng với Nga trong
Chiến tranh Lạnh, kết thúc vào năm 1991. ·
Trong 20 năm
tiếp theo, các liên kết kinh tế mở rộng
đă giúp cho Mỹ và Trung Quốc có mối quan hệ
thân thiện. Bất chấp sự vi phạm nhân
quyền của Trung Quốc, các chính quyền liên
tiếp của Mỹ đă t́m cách đưa Bắc
Kinh vào các hiệp định quốc tế về thương
mại, vũ khí hạt nhân và những quan tâm khác, cho
rằng nó sẽ dẫn Trung Quốc đến cải
cách kinh tế và chính trị của ḿnh. ·
Tuy nhiên,
theo tờ ‘Los
Angeles Times’ các chính
quyền Mỹ trước đây đă đưa ra các
chính sách sai lầm, không tạo ra được
sự tự do hóa chính trị hoặc nới lỏng các
biện pháp kiểm soát kinh tế nghiêm ngặt của
chính quyền Trung Quốc. ·
Đô
đốc Philip S. Davidson
cho rằng: “Các quan chức cấp cao Trung Quốc công
khai bày tỏ sự không hài ḷng với trật tự
thế giới hiện có mà họ cho là do Mỹ xây
dựng và lănh đạo;
Trung Quốc đang t́m cách thay đổi trật
tự thế giới thành một nơi mà sức
mạnh quốc gia quan trọng hơn luật pháp
quốc tế”. ·
V́
vậy, dưới thời Tổng thống Trump, chính sách
của Mỹ đối với với Trung Quốc
đă chuyển từ ‘hợp tác’ sang ‘đối
đầu’. Tờ Los Angeles Times gần đây
đă đăng tải một bài viết của các tác
giả Don Lee và David S. Cloud, nhận định rằng chính sách
của Mỹ đối với Trung Quốc dưới
thời Tổng thống Trump, đă chuyển từ
‘hợp tác’ sang ‘đối đầu’. Để
minh chứng cho nhận định này, các tác giả
đă đưa ra một vài ví dụ và phân tích
về trường hợp của bà Dianne
Feinstein, người được cho là bạn thân
thiết của Trung Quốc trong nhiều thập kỷ
qua. Là
thị trưởng San Francisco vào những năm 1970,
bà Fienstein đă xây dựng mối quan hữu nghị
với thành phố Thượng Hải, mối quan
hệ hữu nghị đầu tiên giữa cộng
đồng người Mỹ và Trung Quốc. Là thượng
nghị sĩ đảng Dân chủ, bà Feinstein đă
từng ăn tối với các nhà lănh đạo Trung
Quốc tại dinh thự cũ của Mao Trạch Đông
ở Bắc Kinh. Trong những năm 1990, bà Feinstein
đă đấu tranh cho sự thay đổi chính sách
thương mại, mở ra cửa đầu tư
của các nước phương Tây vào Trung Quốc. Tuy
nhiên, hiện bà Feinstein đă
thay đổi quan điểm, coi Trung Quốc là mối
đe dọa ngày càng tăng đối với Mỹ. Tham
gia cùng với một loạt các quan chức chính
quyền Trump, các nhà chiến lược gia an ninh
quốc gia, và các giám đốc điều hành doanh
nghiệp, những người đă từng ủng
hộ hợp tác với Bắc Kinh, bà Feinstein bây
giờ ủng hộ cách tiếp cận đối
đầu với Trung Quốc. “Tôi
ghét phải nh́n thấy tất cả mọi thứ
bắt đầu đổ vỡ. Thật khó đối
với tôi để nh́n thấy, với tất cả
những hy vọng mà tôi có giữa Trung Quốc và
đất nước này”, bà Feinstein chia sẻ. Bà
Feinstein đă thúc đẩy các đạo luật,
khiến các nhà đầu tư Trung Quốc khó khăn
hơn trong việc mua cổ phần tại các công ty
Mỹ. Tại
một phiên điều trần gần đây của Thượng
viện, bà Feinstein tham gia cùng với các nhà lập pháp
khác, chỉ trích việc Bắc Kinh tấn công mạng
và tiến hành các vụ trộm kỹ thuật số
khác. Theo
các tác giả, với chính sách “Nước
Mỹ trên hết” của Tổng thống Trump, cách
tiếp cận của Mỹ đối với Trung
Quốc của Chủ tịch Tập Cận B́nh, ngày càng
trở nên đối kháng hơn trên nhiều mặt
trận địa chính trị và kinh tế, giống như
Washington và Moscow bị bao bọc bởi cuộc đấu
tranh quyền lực trong Chiến tranh Lạnh. Nhưng,
không giống như Liên Xô, Trung Quốc là nền kinh
tế lớn thứ hai thế giới, và đang trên
đường vượt qua Mỹ.
Hầu hết nền kinh tế thế giới phụ
thuộc vào những ǵ Trung Quốc sản xuất,
đến mức người ta không thể tưởng
tượng được ngay cả một thập
kỷ trước.
Thượng
nghị sỹ Dianne Feinstein, từng là người bạn thân
thiết của Trung Quốc, hiện cho rằng Trung
Quốc là mối đe dọa ngày càng tăng đối
với Mỹ. Hơn nữa, Trung
Quốc đang xây dựng một quân đội
hiện đại, một lực lượng mà trong 10
năm, có thể có khả năng thách thức sự
thống trị của Mỹ ở phía tây Thái B́nh Dương.
Một số học giả và các chiến lược
gia quân sự nh́n thấy một cuộc đụng
độ không thể tránh khỏi, khi 2 nước
đua nhau, tranh giành quyền lực và ảnh hưởng
trên thế giới. Các
chuyên gia tranh luận về việc liệu Washington có rơi
vào cái mà nhà khoa học chính trị Graham Allison của trường Havard gọi là “Bẫy Thucydides” hay không? Một tham chiếu
đến [cuộc chiến] giữa Đế quốc
Athens [cường quốc đang thống trị] và
Sparta, một cường quốc đang nổi lên
ở thời Hy Lạp cổ đại, khi sự
trỗi dậy của Sparta gây ra nỗi sợ hăi cho
Athens, đă leo thang thành chiến tranh. “Chúng
ta có nên đơn giản để ḿnh rơi vào
bẫy Thucydides? Hoặc liệu có khả năng
với ngoại giao khéo léo, Trung Quốc có thể
mạnh mẽ và thịnh vượng hơn vào năm
2025, và không phải là mối đe dọa chiến lược
đối với Mỹ hay không?”, cựu
quan chức ngoại giao J. Stapleton Roy, nguyên đại
sứ tại Trung Quốc từ năm 1991 đến
1995, đặt câu hỏi. Quan hệ Trung – Mỹ đă phát
triển như thế nào? Theo
các tác giả, cuộc đối đầu của chính
quyền Trump với Trung Quốc, không chỉ đơn
giản là một cuộc chiến thuế quan theo
kiểu trả đũa. Mỹ
đă tăng cường tuần tra hải quân gần
các đảo do Trung Quốc tuyên bố chủ
quyền ở Biển Đông, truy đuổi các công dân
Trung Quốc ở nước ngoài v́ được cho
là đă vi phạm luật pháp Mỹ, và cảnh báo các
đại học hàng đầu của Mỹ về các
gián điệp Trung Quốc ‘lang thang’ khắp nơi
trong các khu trường Đại học. Trong
một bài phát biểu gay gắt hồi tháng
10/2018, Phó Tổng thống Mỹ Mike Pence đă cáo
buộc Bắc Kinh sử dụng toàn bộ bộ máy
nhà nước, để phá hoại nền kinh tế
và hệ thống chính trị của Mỹ. Vào
ngày 20/12/2018, sau khi Bộ Tư pháp Mỹ truy tố 2 công
dân Trung Quốc v́ đă chỉ đạo một
chiến dịch tin tặc toàn cầu,
Giám đốc FBI Christopher Wray đă đi xa hơn
nữa khi tuyên bố: “Mục
tiêu của Trung Quốc, chỉ đơn giản là,
thay thế Mỹ trở thành siêu cường hàng đầu
thế giới – và họ đang phá vỡ Luật pháp
để đạt được điều đó”. Các
tác giả cho rằng những căng thẳng này không
phải là mới. Sau khi Tổng thống Nixon đến
thăm Trung Quốc vào năm 1972, chấm dứt sự
cô lập đối với Trung Quốc, Washington đă
tạo ra những quan hệ thân thiện với Bắc
Kinh, làm đối trọng với Nga trong Chiến tranh
Lạnh, kết thúc vào năm 1991. Trong
hai thập kỷ tiếp theo, các liên kết kinh tế
mở rộng đă giúp cho 2 nước có mối quan
hệ thân thiện. Bất chấp sự vi phạm nhân
quyền của Trung Quốc và những sự khó
chịu khác, các chính quyền liên tiếp của
Mỹ đă t́m cách đưa Bắc Kinh vào các
hiệp định quốc tế về thương
mại, vũ khí hạt nhân và những quan tâm khác, cho
rằng việc đó sẽ dẫn Trung Quốc đến
cải cách kinh tế và chính trị của ḿnh. Theo
đó, Washington đă cấp cho Bắc Kinh quan hệ thương
mại b́nh thường vĩnh viễn, vào năm 2000,
mở đường cho Trung Quốc gia nhập Tổ
chức Thương mại Thế giới một năm
sau đó. Kim ngạch thương mại Mỹ – Trung
đă tăng từ 5 tỷ USD trong năm 1980 lên
tới 116 tỷ USD trong năm 2000, và lên 635 tỷ đô
la vào năm ngoái. Theo mọi thước đo, tăng
trưởng kinh tế của Trung Quốc là phi thường.
Tại một quốc gia từng bị nạn đói
hoành hành, gần 800 triệu người Trung Quốc
đă thoát nghèo trong những thập kỷ gần
đây, theo Ngân hàng Thế giới. “Sau
năm 1978, chúng tôi không bao giờ phải chịu
cảnh không đủ nguồn cung cấp lương
thực”, ông Mao Vu Thức (Mao Yushi), một nhà kinh
tế học nổi tiếng ở Bắc Kinh cho
biết. Ông
Mao, 89 tuổi, nhớ lại thời gian vào năm 1979,
Trung Quốc lúc đó chỉ có duy nhất 2 cây cầu
dài 2.000 dặm, bắc qua sông Dương Tử trên
cả nước, từ Tây Tạng đến Thượng
Hải. Và ngày nay, Trung Quốc đă có hơn 100 cây
cầu, ông Mao nói. Nhưng
theo các tác giả, các chính quyền Mỹ trước
đây đă đưa ra các chính sách sai lầm. Nó đă không tạo ra tự do hóa chính
trị hoặc nới lỏng các biện pháp kiểm
soát kinh tế nghiêm ngặt của chính quyền Trung
Quốc. Thay vào đó, thặng dư thương
mại tăng vọt của Trung Quốc đă dẫn
đến sự gia tăng các khiếu nại của
Mỹ về việc Bắc Kinh đóng cửa thị
trường, trợ cấp nhà không công bằng cho các
doanh nghiệp nhà nước, trộm cắp tài sản
trí tuệ và thao túng tiền tệ. Ông
Tập lên nắm quyền vào cuối năm 2012, khi
Trung Quốc vật lộn với tăng trưởng
kinh tế thiếu thận trọng, tham nhũng tràn lan
và quân đội lạc hậu. Biện pháp đối
phó của ông Tập là: sử dụng sự ḱm
kẹp sắt đá đối với Đảng
cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), tăng cường
sự thống trị của Đảng đối
với cuộc sống của người dân Trung
Quốc. Ông Tập rút khỏi các cam kết tiến
tới một nền kinh tế thị trường
tự do. Thay vào đó, ông Tập tăng cường
vai tṛ của các doanh nghiệp nhà nước, và vai tṛ
của các quan chức đảng trong việc kiểm
soát các doanh nghiệp. Theo
ông Mao Vu Thức “Ư
tưởng quản lư của ông Tập là theo hướng
ông Mao Trạch Đông – ít tự do hơn, kiểm soát
nhiều hơn”.
Tuy nhiên việc ông Mao Vu Thức yêu cầu các quyền
tự do lớn hơn, đă khiến ông bị cấm
xuất bản và diễn thuyết. Bắc
Kinh cũng bắt tay vào một kế hoạch đầy
tham vọng, để hiện đại hóa quân đội
và bắt đầu xây dựng đường băng
và các cơ sở khác trên các đảo nhân tạo
ở Biển Đông, nơi có nhiều quốc gia cũng
đưa ra các yêu sách về hàng hải và lănh
thổ. Dưới
thời ông Tập, Trung Quốc đă bắt đầu
thực hiện ‘Sáng kiến Vành đai và Con đường’,
một chương tŕnh cơ sở hạ tầng
khổng lồ, nhằm củng cố các kết
nối đường bộ và đường
biển trên toàn thế giới. Trung Quốc cũng
tạo ra Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ
tầng châu Á, một định chế cho vay đa phương
giống như Ngân hàng Thế giới do Mỹ đứng
đầu, để tài trợ cho các khoản đầu
tư vào đường bộ, tháp điện
thoại di động, đường sắt và sân
bay, trên khắp châu Á. Theo
các tác giả, sự quyết đoán và trỗi
dậy của Trung Quốc đă đặt ra thách
thức trực tiếp đối với vai tṛ sau
chiến tranh của Mỹ trong việc thúc đẩy
sự ổn định và thương mại tự do
ở phía tây Thái B́nh Dương. Tuy
nhiên, theo các nhà phân tích, phản ứng của Mỹ,
bắt đầu với Tổng thống Obama, là
chậm chạp, vẫn không đủ và không nhất
quán, làm gia tăng áp lực đối với Trung
Quốc. Ông
Obama, người tự xưng là “tổng thống Thái
B́nh Dương đầu tiên” đă phê chuẩn
chiến lược xoay trục sang châu Á, với
nhiều nguồn lực quân sự và các nguồn
lực khác, nhưng nỗ lực này đă sớm chùn
bước. Ông
Obama cũng t́m kiếm sự giúp đỡ của
Bắc Kinh trong việc ngăn chặn Iran chế
tạo vũ khí hạt nhân, và cắt giảm khí
thải gây ra sự nóng lên toàn cầu. Đó là 2 hành
động ưu tiên của chính quyền Obama. Động
thái đối phó chính của ông Obama đối
với Trung Quốc là Hiệp định Đối tác
xuyên Thái B́nh Dương (TPP), một thỏa thuận
thương mại do Mỹ dẫn dắt, với
hầu hết các nước lớn ở Thái B́nh Dương,
ngoại trừ Trung Quốc. Hiệp
định TPP được đề xuất là
nhằm củng cố sự lănh đạo của
Mỹ trong khu vực. Tuy nhiên Tổng thống Trump
đă bác bỏ thỏa thuận khi ông nhậm chức
vào năm 2017. Thay vào đó, ông Trump đă theo đuổi
cách tiếp cận song phương. Ông Trump cũng rút
khỏi ‘Thỏa thuận hạt nhân Iran’, và Hiệp
định khí hậu Paris. Các
nhà lănh đạo doanh nghiệp Mỹ, những người
từng thúc đẩy tiếp cận thị trường
rộng lớn của Trung Quốc, đă thấy hy
vọng của họ phai nhạt dần, khiến
hầu như không ai muốn biện luận cho việc
tiếp tục ràng buộc ở Trung Quốc. “Khu
vực tư nhân không c̣n nh́n thấy những cơ
hội sinh lời ở Trung Quốc mà họ đă
từng thấy, và không c̣n tỏ ra tin tưởng
trong mối quan hệ với đối tác Trung Quốc
như trước đây”,
ông Abraham Denmark, cựu quan chức Lầu Năm Góc,
hiện làm việc tại Trung tâm học giả
quốc tế Woodrow Wilson, nhận xét. Con đường cạnh tranh phía
trước? Theo
các tác giả, mục tiêu của chính sách đối
đầu của chính quyền Trump rất khó để
thấy rơ. Liệu đó có phải là một thỏa
thuận thương mại tốt hơn với
Bắc Kinh hay một cái ǵ đó nhiều hơn
thế? Liệu ông Trump có thể thuyết phục ông
Tập từ bỏ việc khẳng định sức
mạnh ngày càng tăng của Trung Quốc ở châu Á
và xa hơn không? Ông
Matthew Kroenig,
cựu quan chức của CIA và Bộ Quốc pḥng
Mỹ, người đă giúp Tổng thống Trump xây
dựng chiến lược an ninh quốc gia, và hỗ
trợ cạnh tranh lớn hơn với Trung Quốc, phát
biểu ‘đầy ẩn ư’: “Chúng
ta ở bên ngoài cuộc chơi, thắt chặt dây giày,
và thậm chí chúng ta không biết sẽ chạy đến
đâu?. Tôi đă
hỏi một số quan chức chính phủ cấp cao
về mục tiêu là ǵ, và tôi đă nhận được
ít nhất 4 hoặc 5 câu trả lời”. Các
quan chức Lầu Năm Góc đă chấp nhận quay
trở lại cuộc cạnh tranh “cường
quốc lớn”
với các đối thủ chủ yếu, bao gồm
Trung Quốc, một phần chiến lược của
Nhà Trắng, khi họ t́m cách thoát khỏi cảnh
‘rối rắm’ từ các cuộc chiến chống
khủng bố. Các
quan chức này công khai hy vọng củng
cố sức mạnh quân sự của Mỹ ở châu
Á và các nơi khác để
ngăn chặn – hoặc nếu cần thiết, để
chiến đấu – chống lại Trung Quốc,
một kịch bản mà Lầu Năm Góc cho đến
gần đây được coi là một kế
hoạch, nhưng không đề cập trước công
chúng. Do
đó, họ đă thúc đẩy Nghị viện
Mỹ tài trợ thêm tàu chiến, máy bay, tên lửa và
tàu ngầm để chống lại sự tăng cường
quân sự của Trung Quốc.
Họ cho rằng các cuộc đụng độ
giữa Washington và Bắc Kinh, là gần như không
thể tránh khỏi do sự xung khắc trong hệ
thống thống chính trị của 2 bên. Trong
một bài phát biểu gần đây với Trung tâm
Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế,
một tổ chức tư vấn ở Washington, Đô
đốc Philip S. Davidson, tư lệnh cao cấp
của Lầu Năm Góc tại Thái B́nh Dương,
đă cảnh báo rằng: “Các
quan chức cấp cao của Trung Quốc công khai bày
tỏ sự không hài ḷng với trật tự thế
giới hiện có mà họ cho là do Mỹ xây dựng và
lănh đạo, bắt nguồn từ các giá trị
Mỹ hoặc phương Tây, và hoạt động v́
lợi ích to lớn của Washington. V́ vậy, Trung
Quốc đang t́m cách thay đổi trật tự
thế giới thành một nơi mà sức mạnh
quốc gia quan trọng hơn luật pháp quốc
tế, một hệ thống mà kẻ mạnh làm
những ǵ họ sẽ làm, và kẻ yếu làm
những ǵ họ phải làm”.
Đô
đốc Philip S. Davidson,
tư lệnh cao cấp của Lầu Năm Góc tại
Thái B́nh Dương. Ông John Bolton,
cố vấn an ninh quốc gia của Tổng thống
Trump, cảnh báo rằng một công ty Trung Quốc do nhà
nước sở hữu, đang thảo luận để
tiếp quản các cơ sở cảng ở Djibouti, một quốc gia châu Phi có vị trí
chiến lược trên Biển Đỏ (biển
Hồng Hải), nơi quân đội Mỹ có một
căn cứ quân sự gọi là ‘Trại
Lemonnier’. “Nếu
điều này xảy ra, sự cân bằng quyền
lực ở vùng ‘Sừng châu Phi’ (Horn of Africa) – các
tuyến giao thông huyết mạch của thương
mại hàng hải giữa châu Âu, Trung Đông và Nam Á
– sẽ thay đổi theo hướng có lợi cho
Trung Quốc”, ông
Bolton cảnh báo. Các
quan chức cấp cao của Trung Quốc phủ
nhận việc Bắc Kinh đang t́m cách thay thế
Mỹ trở thành siêu cường của thế
giới. [Tuy nhiên] một số nhà phân tích quốc pḥng
Mỹ nói rằng Trung Quốc muốn thống trị
khu vực châu Á-Thái B́nh Dương, nhưng điều
quan trọng là không nên thổi phồng tham vọng
của Bắc Kinh. Huy Hoàng |