Chính
sách đối ngoại của Hoa Kỳ dựa theo
chủ thuyết quốc tế hay cô lập? TS. Đỗ Kim Thêm |
Dù Chiến tranh
Lạnh đă kết thúc, nhưng Hoa Kỳ vẫn c̣n
là cường quốc quan trọng nhất trong trật
tự thế giới hiện đại. Trong các phân tích
về chính sách ngoại giao hiện nay, chủ đề
Hoa Kỳ luôn gây nhiều thu hút cho công luận. Nh́n trong toàn
cảnh, dường như Hoa Kỳ luôn bị dao động
giữa hai thái cực của chủ thuyết quốc
tế và cô lập. Tại sao t́nh trạng này lại
xảy ra? Những lư thuyết hay truyền thống nào
làm cho Hoa Kỳ phải lâm cảnh như vậy? Có
những yếu tố nào khác đă gây ảnh hưởng
không? Dĩ nhiên, đề tài này đă có vô số sách
vở bàn đến và đưa ra nhiều câu trả
lời khác nhau. Nói chung, câu trả
lởi đơn giản nhất cho vấn đề là,
diễn biến tùy thuộc vào hai khía cạnh chủ
yếu, một là t́nh trạng của hệ thống
quốc tế luôn biến động và hai là Hoa
Kỳ có c̣n là một tác nhân duy nhất tự
quyền định đoạt không. Vấn đề
lư thuyết trong mối bang giao quốc tế trở thành
tâm điểm trong thế giới quan của người
quan sát. Chính các khía cạnh khác nhau trong các lư
thuyết tạo nên các cuộc thảo luận dị
biệt trong thực tế. Nhưng trong lĩnh
vực học thuật, đóng góp nổi bật
nhất là của Walter Russell Mead, tác giả Anh ngữ và
Gebhard Schweigler, tác giả Đức ngữ. Cả hai
đă tổng hợp các đường lối chính mà
bài viết của David Sirakov sẽ được tóm lược
sau đây. Các lư
thuyết Theo chủ
thuyết hiện thực, quốc gia sẽ dựa theo
quyền lợi tối thượng của dân tộc mà
hành động. Trong việc lựa chọn một
chiến lược đấu tranh để sinh
tồn, chính giới thường sử dụng bốn
công cụ tiêu biểu là ngoại giao, thông tin, quân
sự và kinh tế, trong tiếng Anh viết tắt là
DIME biểu hiện cho Diplomatic, Informational, Military và
Economic. Chiến tranh bùng nổ bị xem là giải pháp
bất đắc dĩ cuối cùng cho đại
cuộc quốc gia. Trong khi đó,
chủ thuyết tương thuộc nêu rơ, hợp tác
là phương tiện vô cùng cần thiết để
giải quyết các xung đột quốc tế. Do
đó, t́nh trạng ngày càng phụ thuộc lẫn nhau
của các quốc gia chính là trọng tâm cần t́m
hiểu. Ngược
lại, để giải quyết các thách thức trong
t́nh h́nh quốc nội, chủ thuyết tự do đề
cao vai tṛ của các chủ thể xă hội trong
một quốc gia trước khi các cuộc đàm phán
quốc tế có liên quan có thể tiến hành. Do chiều hướng
tâm lư xă hội luôn diễn biến phức tạp, nên
vai tṛ cảm nhận thực tại xă hội trong
việc xây dựng đất nước gây ảnh hưởng
đáng kể đến trào lưu chung, kể cả
trong các tranh chấp quốc tế; do đó, chủ
thuyết kiến tạo theo cấu trúc thành h́nh. Gần đây, vai
tṛ nữ quyền trong quan hệ giới tính cũng là
một trào lưu mới gây nhiều tiếng vang trên
chính trường quốc tế. Tuy nhiên, những phân
tích về mặt lư thuyết không c̣n đóng khung trong
các công tŕnh nghiên cứu hàn lâm, mà trở thành các
yếu tố định đoạt cho giới
hoạch định chính sách. Nhiều tác giả
đă triển khai các mô h́nh lư thuyết trong nhiều
phạm vi riêng biệt. Nh́n chung qua các bối cảnh
lịch sử khác nhau, chính sách đối ngoại
của Mỹ di chuyển theo hai trục chủ yếu:
chủ thuyết quốc tế (Internationalism) so
với chủ thuyết cô lập (Isolationism)
với hai nội dung bao gồm thuyết hiện
thực (Realism) hoặc
duy tâm (Idealism). Điểm khác
biệt ở đây là Walter Russell Mead sử dụng tên
của ba tổng thống Hoa Kỳ và một bộ trưởng
tài chính để đặt tên cho các chủ
thuyết, trong khi Gebhard Schweigler nêu ra các h́nh ảnh
chủ yếu để mô tả nội dung. Cả hai
tác giả không đề cao một dạng nào là
thuần túy hay duy nhất mà xem tất cả trong
một tổng hợp như sau:
Lập trường
cô lập Nh́n lại lịch
sử lập quốc, Hoa Kỳ đă thể hiện
một thái độ cô lập đối với
hệ thống quốc tế, tự xem ḿnh như
một mô h́nh quốc gia kiểu mẫu và ư thức
hệ luôn có vai tṛ định đoạt. Hơn thế,
Mỹ tự hào là t́nh trạng ngoại lệ (American
Exceptionalism) trong lịch sử thế
giới. H́nh ảnh nước Mỹ là một “thành
phố trên một ngọn đồi” (“City
upon the hill“). Mỹ chỉ muốn cho nội t́nh
của Mỹ, một cộng đồng xă hội thu
hẹp, được ổn định. Do đó,
Mỹ cần tạo thêm nhiều động lực khích
lệ mẫu mực cho tinh thần đoàn kết
nội bộ để cùng chung lo phát triển. Lối
suy nghĩ này cũng giải thích lư do tại sao các
phong trào bài ngoại phát triển mạnh tại Mỹ
như là chuyện tự nhiên. Trước đây,
chủ thuyết ngoại lệ cũng có giải thích
theo cách hướng ngoại,
“America number one” (Nước Mỹ là
số một). Do đó, Hoa Kỳ cũng nên mang các giá
trị độc đáo ra nước ngoài. Về
mặt truyền giáo, Mỹ sẽ hoạt động
như một quốc gia thập tự chinh, “crusade
states“, thậm chí có thể mang vũ lực
ra thế giới để thực thi chính sách. Sau này, ngược
lại, cách giải thích “America
First” (Nước Mỹ trên hết)
được hiểu với nhiều khía cạnh
một cách rộng răi hơn là thuần về tôn giáo. George Washington,
một bậc quốc phụ, trong bài diễn văn
từ nhiệm vào năm 1796, đă nêu lên vấn đề
ngoại giao quan trọng: “Why
quit our own to stand upon foreign ground?” (Tại
sao chúng ta phải rời bỏ đất nước ḿnh
để đứng trên đất nước người?)
Chủ thuyết cô lập gợi lên một tinh
thần duy tâm và trở thành một lư tưởng cơ
bản mà sau này Thomas Jefferson, vị tổng thống
thứ ba của Hoa Kỳ (1801-1809), theo đuổi. Theo quan điểm
hướng nội của Jefferson, khi nào Hoa Kỳ là
một cộng đồng lành mạnh và hoạt động
hữu hiệu th́ mới có thể nắm bắt các các
cơ hội kinh tế để phát triển toàn
diện. Jefferson kêu gọi người Mỹ nên xác
định quyền lợi quốc gia thành một lư tưởng
hướng về một “more
perfect union, liên minh hoàn hảo hơn” mà
phần mở đầu của Hiến pháp Hoa Kỳ
đă nêu rơ. Để được xứng đáng
là một khuôn mẫu cho thế giới, trọng tâm chính
sách hoàn hảo là Hoa Kỳ nên t́m cách tránh tuỳ
thuộc vào nước khác, thậm chí cũng nên tránh
chuyện chiến tranh bùng nổ. Lúc đầu,
Tổng thống Dân chủ Lyndon B. Johnson (1963-1969) theo
đuổi chủ thuyết cô lập mang đặc
điểm duy tâm. Trong những năm đầu
nhậm chức, Johnson mang đến một làn gió
mới khi hy vọng Hoa Kỳ sẽ hồi phục t́nh
trạng hoàn hảo thông qua các chương tŕnh
cải cách xă hội mà “Great
Society” (Xă hội vĩ đại) là thí
dụ điển h́nh. Một trong nhiều mục tiêu
đối nội của Johnson là “Civil
Rights Act 1964” (Đạo luật Dân quyền
1964). Luật được đặt ra nhằm
thiết lập quyền b́nh đẳng cho người
Mỹ gốc Phi và chấm dứt sự phân biệt
chủng tộc và phân biệt đối xử. Nhưng về sau,
khi bị ấn tượng mạnh là chiến tranh
Việt Nam sẽ c̣n kéo dài, Johnson đă bắt đầu
phiêu lưu trong chính sách đối ngoại. Trong
chiều hướng nhằm thúc đẩy dân chủ
hoá cho các quốc gia khác trên thế giới, nỗ
lực của Johnson cũng bị công luận quốc
nội phản đối dữ dội bởi v́ các
nhu cầu cải cách trong chương tŕnh nation-building
at home càng ngày càng bức thiết. Cuối
cùng, Johnson phải kết thúc các mục tiêu lư tưởng
ban đầu. Trái ngược
với truyền thống Jefferson của phe cánh tả dưới
thời Johnson, thái độ này hiện nay có thể
được t́m thấy trong cách giải thích của
phe cánh hữu nhiều hơn giữa các đại
diện theo chủ thuyết tự do cũng như trong
giới của Freedom Caucus, Đảng Tea Party. Chủ thuyết cô
lập mang nội dung hiện thực đi ngược
lại với chủ thuyết cô lập với đặc
điểm duy tâm v́ phương sách này hướng
ngoại nhiều hơn. Điểm khác biệt về
cơ bản ở đây là thuyết hiện thực
quan tâm đến việc sử dụng quyền
lực quân sự để bào vệ quyền lợi
quốc gia. Tiêu biểu cho
chủ trương này là Andrew Jackson (1829-1837), tổng
thống thứ bảy của Hoa Kỳ. Ông là hiện
thân của một tinh thần dân tộc mang màu sắc
dân túy để chống lại giới tinh hoa, hứa
hẹn một “nước
Mỹ cho người Mỹ”. Theo Jackson, Hoa Kỳ
không phải có bất cứ một nghĩa vụ
đặc biệt nào để làm cho thế giới
trở nên tốt đẹp hơn, mà nước
Mỹ phải lo an ninh xă hội và phúc lợi kinh
tế cho người Mỹ, và chủ yếu là lo cho
người da trắng. Điểm quan trọng nhất
trong việc hoạch định chính sách là chính
phủ càng ít can thiệp càng tốt và chính sách đối
ngoại phải chịu phụ thuộc vào sinh hoạt
chính trị nói chung. Hậu quả của lối suy nghĩ
này làm phát sinh các ác cảm sâu đậm đối
với các loại liên minh quốc tế. Thực ra, chủ
thuyết Jackson ủng hộ việc liên tục mở
rộng lănh thổ của Hoa Kỳ về miền
Viễn Tây và Thái B́nh Dương. Nhiều người
ủng hộ cho đây là số phận hiển nhiên (Manifest
destiny) và muốn biện minh để hợp
pháp hóa một số động lực can thiệp khi
Mỹ mở rộng biên cương. Về bản
chất, đó là về việc xây dựng một “Fortress
America” (Pháo đài Mỹ), h́nh ảnh này cũng
là luận điểm chính của Gebhard Schweigler. Chủ thuyết
Jackson đă định h́nh cho thái độ cô lập
của Mỹ trước Thế Chiến thứ hai. Nhưng
khi Donald Trump được bầu làm Tổng thống
thứ 45 của Hoa Kỳ (2017-2021), thuyết này đă
trở lại chính trường với sức mạnh
và niềm tin mới. Ngay trong chiến
dịch tranh cử năm 2016, tiềm năng của
Trump đă phát huy đến cực điểm khi ca
ngợi truyền thống Jackson. Walter Russell Mead lập
luận rằng: “Donald Trump đang đóng vai tṛ như
là người thể hiện các hy vọng về
quyền lực theo lư thuyết của Jackson”. Nói chung, có
những điểm tương đồng rơ ràng
giữa hai tổng thống, từ niềm tin nơi
một chủ trương độc đoán và dân túy
cho đến chính sách ngoại thương theo tinh
thần bảo hộ và cô lập. Gebhard Schweigler
lập luận trong năm 2008:
“Trong thời đại toàn cầu hóa, sống cô
lập trong môi trường quốc tế vừa là không
thể được cũng như không ai mong
muốn”. T́nh h́nh thay đổi
triệt để. Truyền thống tư duy theo Jackson
trỗi dậy đă gây nhiều ngạc nhiên, v́ chính
giới không c̣n xem nước Mỹ như là một
pháo đài kiên cố. Tiến tŕnh toàn
cầu hóa và chủ thuyết can thiệp quốc
tế của Mỹ trong thập niên 1970 đă gây ra
phản ứng dữ dội trong công luận, việc
cử tri đưa Donald Trump vào Nhà Trắng đánh
dấu một bước ngoặt trong việc hoạch
định chính sách đối ngoại của Mỹ. Hô hào khẩu
hiệu America
First, Trump nh́n cụ thể hơn khi coi các
hiệp định thương mại là không công
bằng, xem các liên minh quốc pḥng trong khu vực láng
giềng quan trọng hơn và những liên minh quốc
tế, nhất là khối NATO, là lỗi thời. Lập trường
quốc tế Nh́n chung, kỷ nguyên
thực thi chủ thuyết can thiệp quốc tế
của Mỹ đă minh chứng là thành công. Việc
Hoa Kỳ tham gia Thế chiến thứ hai vào tháng 12 năm
1941 đánh dấu chủ thuyết cô lập từ nay
kết thúc và Hoa Kỳ đă thực sự vươn
ḿnh trỗi dậy là một cường quốc trên
chính trường hậu chiến. Chủ thuyết
quốc tế theo tinh thần hiện thực tỏ ra
hữu ích đặc biệt trong bối cảnh phát
triển này. Alexander Hamilton, Bộ trưởng Tài chính
đầu tiên của Hoa Kỳ (1789-1795) và là đối
thủ của Thomas Jefferson làm đại diện chính
cho trào lưu mới này. Trái ngược
với luận thuyết của Jefferson, Hamilton coi
việc duy tŕ và mở rộng lợi ích kinh tế là
ưu tiên hàng đầu trong chiều hướng phát
triển của Mỹ. Để đạt
được lư tưởng này, Mỹ cần
phải có một sức mạnh quân đội tương
đương với sức mạnh kinh tế, v́ trong
trường hợp quyền lợi kinh tế Mỹ
nguy khốn, quân đội Mỹ phải biết cách
bảo vệ. Truyền thống này đề cao các
nguyên tắc tự do hải hành và tự do thương
mại quốc tế. V́ quyền lợi này là vô cùng
thiết thực, nên luận thuyết này được
công luận ủng hộ nhiệt t́nh. “Battleship
America” (Chiến hạm Mỹ), là h́nh ảnh
tượng trưng cho sức mạnh vĩ đại
của nước Mỹ và ư thức về sứ
mệnh cao cả của người Mỹ mà Gebhard
Schweigler dẫn chứng. Học thuyết
Monroe bắt nguồn từ James Monroe (1817-1825), tổng
thống thứ năm của Mỹ, ông được
coi là người tiên phong quyết định cho chính
sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong thế
kỷ 20. Chiến tranh
Lạnh với các cuộc xung đột ở Hàn
Quốc và Việt Nam, cũng như chính sách ngăn
chặn đối với Liên Xô và Khối hiệp
ước Warsaw có thể được xem như là
một cách thể hiện truyền thống của
Hamilton. Các can thiệp của Mỹ sau khi kết thúc
cuộc xung đột Đông-Tây, Iraq năm 1991, Somalia
năm 1996 và Nam Tư cũ năm 1999 cũng đi theo
chiều hướng suy luận này. Tuy nhiên, những
can thiệp cũng như cuộc chiến Afghanistan năm
2001 và Iraq năm 2003 cho thấy Mỹ cũng đă
gặp phải những cạm bẫy. Thực ra, các mô h́nh
lư tưởng này khó nhận ra qua dạng thuần túy
trong thực tế, ngay cả khi trường phái duy tâm
cố biện minh nhằm hợp pháp hóa cho các can
thiệp nhân đạo. Lập luận
của Gebhard Schweigler rất thuyết phục khi cho là
cuối cùng, để giải quyết các cuộc xung
đột, Mỹ phải tham gia chiến đấu
bằng các biện pháp quân sự có ư thức. Do đó,
sự can thiệp ít có lư do duy tâm hơn. Nhưng Walter Russell
Mead nhận xét khác hơn khi cho là trong các nhiệm
kỳ của Bill Clinton (1993-2001), George W. Bush (2001-2009) và
Barack Obama (2009-2017) có một cuộc xung đột
giữa một bên theo truyền thống của Hamilton,
Jackson và Jefferson và một bên theo truyền thống
của Wilson. Cho đến nay, cuộc tranh luận
học thuật này vẫn c̣n kéo dài. Chủ trương
can thiệp quốc tế theo tinh thần duy tâm có
lẽ được thể hiện rơ nét nhất qua
Tổng thống Woodrow Wilson (1913-1921), vị tổng
thống mở đường cho Hoa Kỳ tham gia trong
Thế chiến thứ nhất năm 1917. Nổi
tiếng khi tuyên bố “Thế
giới phải được an toàn để xây
dựng cho nền dân chủ”, Wilson
c̣n gây ảnh hưởng quyết định đến
việc thành lập Hội Quốc Liên. Điểm chính
trong chủ thuyết Wilson là bảo vệ và mở
rộng nền dân chủ bằng các biện pháp ḥa b́nh.
Khi mô h́nh dân chủ thu hút được công luận,
nó sẽ đóng một vai tṛ công cụ của chính
giới trong việc thực thi quyền lực mềm.
Thoạt đầu, giới truyền giáo đă có
những phản ứng mạnh và về sau cũng có
những xung đột triền miên giữa chủ
thuyết Wilson với các truyền thống khác. Chiến
tranh Lạnh kết thúc và sự phân hoá trong xă hội
Mỹ Không phải
ngẫu nhiên mà các chính sách đối ngoại của
các cựu tổng thống Clinton, Bush Jr. và Obama không
thể được xếp vào loại mô h́nh duy
nhất nào, mà là thể hiện tổng hợp về
một cuộc xung đột giữa các truyền
thống khác nhau. Có nhiều lư do để giải thích. Một mặt, trước
đó, Mỹ đạt được sự đồng
thuận lưỡng đảng trong nhiều thập niên.
Arthur Vandenburg (1928-1951) Thượng nghị sĩ Đảng
Cộng ḥa, lập luận rằng: “Chính
trị thuộc đảng phái phải dừng lại
ở biên giới quốc gia“, có nghĩa là,
các tranh chấp chính trị quốc nội không
được gây ảnh hưởng đến chính sách
đối ngoại. Hoa Kỳ phải nói với thế
giới bên ngoài bằng một lập trường duy
nhất và mạnh mẽ. Lập luận này tác động
tích cực trong sinh hoạt quốc hội và tạo uy
thế quốc tế cho Mỹ lớn mạnh. Nhưng t́nh h́nh
quốc tế thay đổi. Sau khi Chiến tranh
Lạnh kết thúc, nhà nước Liên Xô và Khối liên
minh Warsaw biến mất. Khi hai kẻ thù quan trọng không
c̣n, Hoa Kỳ mở ra được một khả năng
mới trong tương lai và t́m ra các khái niệm
tốt nhất cho chính sách đối ngoại, cụ
thể là trong hoàn cảnh bất chiến tự nhiên
thành, vị thế cạnh tranh của Mỹ chỉ c̣n
là tương kế tựu kế. Cuối cùng, Mỹ
là sẽ trung tâm quyền lực độc nhất
trong một trật tự thế giới mới. Mặt khác,
thực tế khác hẳn với mọi suy đoán.
Từ năm 1993 cho đến nay, mức độ phân
hoá chính trị và xă hội của Hoa Kỳ đă lên
đến đỉnh điểm. V́ hai đảng không
thể đạt được thỏa thuận
về cơ bản trong nội t́nh, nên ảnh hưởng
nghiêm trọng đến sự rối loạn chức
năng trong sinh hoạt công quyền. Dĩ nhiên, các
rạn nứt này tác động tiêu cực đến
chính sách đối ngoại. Một trong số
những thí dụ thể hiện rơ nhất là việc
kết ước quốc tế. Việc Mỹ kư
kết chỉ có hiệu lực khi Thượng
viện chấp thuận với đa số 2/3 số
phiếu. Luật thủ tục chấp thuận này
được coi là tiêu chuẩn kim bản vị
của các nỗ lực nghiêm túc về ngoại giao và
làm cho Mỹ gây được niềm tin trong cộng
đồng quốc tế. Tuy nhiên, những năm
gần đây cho thấy việc thông qua các điều
ước quốc tế trở thành các tṛ chơi
trong các tranh chấp chính trị và ư thức hệ
của hai đảng. Hậu quả tác hại này làm
cho nhiều sáng kiến về kết ước không c̣n
được thông qua Thượng viện, v́ chính
giới hoạch định đo lường được
nguy cơ thất bại quá cao. Cuối cùng, uy tín
quốc tế của Hoa Kỳ sút giảm nghiêm
trọng. Thành
tựu ngoại giao của Joe Biden Trong hai năm đầu
nhiệm kỳ, Joe Biden muốn đưa nước
Mỹ trở lại t́nh trạng b́nh thường và gây
uy tín sau nhiệm kỳ tổng thống đầy
biến động của Trump, bằng cách cố
thực hiện các cải cách mang tính đột phá. Với khẩu
hiệu “Nước Mỹ đă trở lại”, Joe
Biden đă thể hiện chủ trương hồi
sinh chủ thuyết đa phương và hợp tác khu
vực. Mỹ tham gia trở lại hiệp định
khí hậu Paris, hợp tác với Tổ chức Y
tế Thế giới, thực hiện các hội
nghị thượng đỉnh đa quốc gia,
tạo điều kiện cho các cuộc đàm phán
để giải quyết các cuộc khủng hoảng
khu vực và ủng hộ các giá trị dân chủ. Đối với
Châu Âu, Mỹ thể hiện các yếu tố thực
tế của truyền thống Hamilton, mà cụ thể
là tăng cường mối quan hệ kinh tế và an
ninh. Ngoài ra, lư tưởng của Wilson được
thực thi khi Mỹ rơ ràng nhấn mạnh đến các
giá trị dân chủ để tạo tinh thần đoàn
kết trong các quốc gia phương Tây. Đồng
thời, Mỹ cũng kêu gọi người dân trong nước
phải tập trung vào việc xây dựng sức
mạnh quốc gia và bảo vệ nền dân chủ
đang lâm nguy. Dù điều
chỉnh được các chính sách của Trump đối
với Trung Quốc, nhưng Biden mất thanh danh sau
việc quân đội Mỹ triệt thoái vụng
về tại Afghanistan. Từ tháng 2 năm 2022, việc
Nga xâm lược Ukraine là một nguy cơ mới, bên
cạnh các vấn đề bảo vệ an ninh cho
Đài Loan và Biển Đông vẫn c̣n tồn tại. Triển
vọng Sau cuộc bầu
cử giữa nhiệm kỳ tổng thống vào tháng
11 năm 2022, khó khăn hiện nay cho Hoa Kỳ trong
việc định h́nh một chính sách ngoại giao phù
hợp càng chồng chất. Kể từ năm
2023, Tổng thống Joe Biden phải làm việc với
hai đa số khác nhau trong hai viện của Quốc
hội. Trong khi đảng Cộng ḥa chiếm đa
số tại Hạ viện, Đảng Dân chủ có
đa số suưt soát tại Thượng viện (51/49).
Phải đối phó với những hậu quả này,
liệu Joe Biden có thể thành công cho đến
cuối nhiệm kỳ hay không, tương lai thật
khó lường đoán. Joe Biden đang
cố gắng dung hợp cả hai truyền thống, nhưng
khó có được sự ủng hộ đa số
Quốc hội trong mọi vấn đề. Một
chủ thuyết duy tâm hay hiện thực không thể
giải quyết vấn đề bảo vệ Đài
Loan hay ủng hộ Ukraine. Việc Mỹ sẽ can
thiệp quân sự tại Đài Loan hoàn toàn có
những hậu quả khác biệt với chiến tranh
đang tiếp diễn tại Ukraine. Có lẽ các
giải pháp trong tương lai sẽ tuỳ thuộc vào
từng quyền lợi hiện thực nhiều hơn
là nguyên tắc duy tâm phổ quát. Các đại
diện của đảng Cộng ḥa theo truyền
thống hướng nội của Jackson vẫn c̣n
ảnh hưởng rất mạnh trong chính trường
và công luận Mỹ. Chính giới Mỹ không c̣n lư tưởng
quốc tế đủ cao cả để hy sinh người
lính Mỹ cuối cùng, nhằm bảo vệ Đài
Loan hay Nhật Bản. Người dân Mỹ lo âu cho t́nh
trạng lạm phát ngày càng gia tăng khi chiến tranh
Ukraine c̣n kéo dài. Các thành quả
của phe theo Trump trong cuộc bầu cử giữa
kỳ vào tháng 11 năm 2022 là một chứng minh. Khi
Trump chưa từ bỏ các ư tưởng trở
lại Nhà Trắng, c̣n nhiều thách thức khác mà Joe
Biden phải đương đầu. Tài liệu tham
khảo: Mead, Walter Russell
(2017): The Jacksonian Revolt. American Populism and the Liberal Order, in:
Foreign Affairs No. 2 (2017), S. 2-7. Schweigler, Gebhard
(2008): Außenpolitik (Länderbericht USA. Geschichte, Politik, Wirtschaft,
Gesellschaft, Kultur), in: Lösche, Peter/Loeffelholz, Hans Dietrich von
(Hrsg.), Länderbericht USA. Geschichte, Politik, Wirtschaft, Gesellschaft,
Kultur, 5. aktual. und neu bearbeitete Auflage, Bonn, S. 341-470. Sirakov, David, 2022, Die
USA zwischen Internationalismus und Isolationismus ____________ Bài liên quan: Áp dụng thuyết hiện thực trong chính sách đối ngoại — Chiến lược đại cường mới của Mỹ — Mỹ cần hợp tác với Nhật, Ấn độ, Úc và Châu Âu để chống Trung Quốc |