Đảng Dân Chủ trả thù Việt Nam Cộng Ḥa Trọng Đạt |
Giữa tháng 4-1975 miền nam Việt Nam
kiệt quệ tiếp liệu đạn dược,
Quốc hội Dân chủ Mỹ đă bác bỏ
khoản viện trợ khẩn cấp 722 triệu do TT
Ford đưa ra để giúp Việt Nam Cộng Ḥa,
quyết định đă khiến Cộng sản
Bắc Việt tiến vào Sài g̣n y như vào chỗ không
người. Biến cố lịch sử này mọi người
đều biết cả, hành động cạn
tầu ráo máng của họ đă có nguyên nhân. Có người
cho v́ trong cuộc tranh cử Tổng thống Mỹ năm
1968, ông Thiệu đă nghe lời khuyên của ứng
cử viên Nixon (Cộng Ḥa) không tham gia cuộc Ḥa
đàm Paris tháng 11-1968 khiến Dân Chủ thất
cử năm đó. (1) Xin sơ lược
vấn đề: năm 1965 Tổng thống Johnson
đưa quân ồ ạt vào bảo vệ miền nam
VN chống Cộng Sản xâm lược, tới
cuối năm quân số Mỹ lên tới gần 200,000
người. Johnson tiếp tục tăng quân cho tới
1968 tổng số đă lên tới hơn nửa
triệu. Cuộc chiến kéo dài, số lính Mỹ
chết trận tính tới năm 1968 tổng cộng trên
ba mươi ngàn khiến phong trào phản chiến lên
cao dữ dội. Tháng 3-1968 CS Hà Nội chịu thương
thuyết tại Paris sau khi thảm bại trận
Mậu Thân tết 1968, Johnson tuyên bố không ra tranh
cử nhiệm kỳ hai (tháng 11-1968) v́ biết trước
cử tri sẽ không bầu cho ông. Ḥa đàm Paris
khai mạc tháng 5-1968 giữa Mỹ và CSBV, VNCH chưa
chịu tham gia v́ chống sự hiện diện của
Mặt trận giải phóng (VC). Hai bên Mỹ-Hà Nội
đang bàn thảo về thành phần Hội nghị
dự trù chính thức khai mạc đầu tháng 11-1968
sẽ có đủ bốn bên Mỹ, VNCH, CSBV và Mặt
trận giải phóng. Trong khi ấy cuộc bầu
cử Tổng thống Mỹ đang diễn ra sôi
nổi, phó TT Humphrey đại diện đảng Dân
chủ, Nixon đại diện Cộng ḥa. Ông Thiệu
phản đối không tham dự Ḥa đàm v́ Mỹ
để phái đoàn Việt Cộng tham dự. Nixon nhân
cơ hội cử sứ giả (bà Anna Chennault, người
Hoa) sang Sài G̣n khuyến khích ông Thiệu đừng
tham gia Hội nghị, chờ Nixon thắng cử (vào
đầu tháng 11-1968) ông sẽ giúp VNCH tích cực hơn
là Dân Chủ. Kết quả
bầu cử ngày 5-11 là Nixon (Cộng ḥa) thắng
cử với 301 phiếu cử tri đoàn trên 32
tiểu bang, Humphrey được 191 phiếu trên 13
tiểu bang và DC, Wallace (ucv độc lập) được
46 phiếu, trên 5 tiểu bang, Nixon thắng cử
với tỷ lệ 56%. TT Johnson kết án ông Thiệu v́
không tham dự ḥa đàm nên Humphrey (Dân chủ)
thất cử, ông đă cho nghe lén và biết là
ứng cử viên Nixon đă âm mưu cử sứ
giả sang Sài G̣n thuyết phục ông Thiệu không
tham dự Ḥa đàm Ba Lê. GS Nguyễn Tiến Hưng
cho biết năm 1985 tại Luân Đôn ông Thiệu
kể lại rằng hồi ấy (1968) nếu Humphrey
(DC) đắc cử th́ nửa năm sau sẽ ép
miền nam VN liên Hiệp với CS để họ rút
quân, ông Thiệu đi với Nixon (CH) c̣n hy vọng hơn.
Tôi tin là ông Thiệu nói đúng, chẳng thà theo
Cộng Ḥa c̣n hy vọng tồn tại một thời
gian. Từ đó
đảng Dân chủ thù ghét VNCH, cho rằng v́ ông
Thiệu mà họ thất bại. Tác giả Trần
Đông Phong cho biết tháng 4 năm 1975 (2) Quốc
hội Mỹ do Dân chủ kiểm soát đă cắt
bỏ hoàn toàn quân viện miền nam VN để
trả thù việc ông Thiệu 7 năm trước
(1968) đă ủng hộ Cộng ḥa và giúp Nixon
thắng cử. Ông Phong nói một số dư luận
tại Washington hồi đó nhận định như
thế, ông trích dịch cuốn A Better War của Lewis
Sorley trang 366: “….Quốc hội Mỹ đă sắp
xếp chuyện đó với một sự trả thù” Theo tôi nghĩ ông
Thiệu chỉ là Tổng thống một nước
nhược tiểu rất khó có thể gây ảnh hưởng
tới cán cân tranh cử nước Mỹ và đă
viết riêng một bài về chuyện này (3). Lư do chính
mà Dân chủ thất cử v́ đă làm hai nhiệm
kỳ (1960-68) đă lănh đạo cuộc chiến
tồi tệ, gây thiệt mạng cho hơn 30,000 lính
Mỹ, bị dân chống đối.. Cử tri bầu
cho Cộng ḥa để t́m ḥa b́nh, rút ra khỏi
cuộc chiến. Chẳng lẽ đảng Dân chủ
lại nói sở dĩ người dân không bầu cho
chúng tôi v́ họ quá chán cuộc chiến, quá chán
đảng Con Lừa … mà phải đổ thừa ông
Thiệu cho nó đỡ quê. Ngày nay năm 2017, Dân
chủ lại đổ thừa cho ông Putin đă làm
họ thất cử, cũng lại nói cho đỡ
mắc cở. Dù ông Thiệu có
gây ảnh hưởng tới cuộc tranh cử hay không
nhưng ông ta đă theo phe đối thủ Cộng ḥa
năm 1968, đă phản lại Dân chủ v́ TT Johnson
(DC) đă giúp chính phủ Thiệu-Kỳ từ 1965 cho
tới 1968 nên họ coi như ông Thiệu đă
phản bội họ. Tôi nghĩ không phải đợi
tới năm 1975 họ mới báo thù, mà ngay sau khi TT
Nixon (Cộng ḥa) nhậm chức năm 1969. Theo lời
kể của Kissinger (4) khi Nixon vào Ṭa Bạch Ốc
(1969), những người đă đưa quân can
thiệp vào VN (Dân chủ) mới đầu đứng
trung lập (giữa phản chiến và chính phủ) sau
quay ra a dua với bọn chống chiến tranh, kết
tội Nixon hiếu chiến…. Nói về
chớp thời cơ th́ Dân chủ là hạng nhất,
năm 1965 họ thăm ḍ thấy tỷ lệ ủng
hộ cuộc chiến rất cao VN vội đưa quân
ồ ạt vào, nay phong trào phản chiến rất
mạnh lại nhẩy hùa theo bọn phá hoại…cái ǵ
th́ dở nhưng mị dân th́ họ vào hạng
nhất. Trong suốt
thời kỳ chiến tranh VN Dân chủ đều
nắm Quốc hội dù Hành pháp thuộc đảng nào
(5), họ thao túng Lập pháp nhất là từ cuối
thập niên 60. Năm 1970 khi TT Nixon cho tấn công qua biên
giới Miên để phá hủy các căn cứ CSBV và
VC, đáng lư ra ông có thể quét sạch được
Cộng quân trên đất Chùa Tháp nếu không bị
Dân chủ phản chiến và truyền thông đánh phá
ngăn cản mà chỉ được phép tiến vào
đất Miên vài chục cây số. Năm sau 1971, trong cuộc hành
quân sang Lào, Quốc hội Dân chủ cấm không cho quân
Mỹ vượt qua biên giới cùng quân đội
VNCH kể cả cố vấn nên chiến dịch đă
không được thành công. Năm 1972 Quốc hội Dân
chủ chống đối chiến tranh và tỏ ra thù
hận VNCH rơ nét hơn trước, cuối tháng
11-1972, ông Nguyễn Phú Đức, phụ tá đặc
biệt ngoại vụ của TT Thiệu được
cử đi Washington để họp với Kissinger, Tướng
Haig, TT Nixon về việc kư kết Hiệp định
Paris. Trong phiên họp phía Mỹ cho biết VNCH phải
chấp thuận bản Dự thảo Hiệp định
nếu không sẽ đưa tới việc bị
Quốc hội cắt hết viện trợ (6).
Nguyễn Phú Đức mang theo những điều
khoản của TT Thiệu (đ̣i CSBV phải rút
về Bắc) và nói rơ ông ta không sợ Kissinger, Tướng
Haig dọa cắt viện trợ. TT Nixon có nói với
NP Đức nếu ông Thiệu không ḥa hợp với
chính phủ Mỹ để kư Hiệp định
sẽ không xin được viện trợ. Nixon nói ông
đă được các vị Trưởng khối
tại Quốc hội như John Stennis, Barry Goldwater,
Gerald Ford.. cảnh cáo cho biết nếu VNCH không
thuận kư th́ Quốc hội sẽ ra luật chấm
dứt chiến tranh đưa ra Hạ viện với
tỷ lệ 2-1, để đổi lấy tù binh và rút
quân về nước. TT Nixon nói thật chứ không
ngoa, Quốc hội Dân chủ lúc này sẵn sàng
bức tử miền nam VN nếu ương ngạnh
với họ. Ngay từ tháng 10-1972,
khi Kissinger đưa ra bản dự thảo trong đó
Hà Nội đă chịu nhượng bộ những
điểm chính như: không đ̣i lật đổ chính
phủ Thiệu, không đ̣i liên hiệp.. nhưng
họ vẫn đóng quân tại miền Nam, không rút
về Bắc. Ông Thiệu cương quyết chống
đối bản dự thảo, Nixon mới đầu
ủng hộ VNCH sau đó bị các vị chức
sắc Quốc hội đe dọa ra luật chấm
dứt chiến tranh nếu ông Thiệu không chịu kư,
họ cảnh báo TT Nixon như vậy. Quốc hội
cho bản Hiệp định như thế là được
rồi, không được đ̣i hỏi thêm kéo dài
thời hạn kư kết. Sang tháng 12, phái
đoàn CSBV cố t́nh phá ḥa đàm, không chịu thương
thuyết nghiêm chỉnh, họ hy vọng Quốc
hội mới của Mỹ họp đầu năm (đầu
tháng 1-1973) sẽ ra luật chấm dứt chiến
tranh, cắt viện trợ miền nam VN theo yêu cầu
BV để đổi lấy tù binh, sau đó rút quân
về nước. TT Nixon đă phải dùng
sức mạnh tối đa để đưa Hà
Nội trở lại bàn hội nghị bằng 200 pháo
đài bay B-52 oanh tạc liên tực 11 ngày đêm,
dội 20 ngàn tấn bom xuống miền Bắc VN. Ông ta sợ nếu BV không trở
lại bàn hội nghị Quốc hội có thể ra
luật chấm dứt chiến tranh. Sau ngày oanh
tạc Giáng Sinh, sang tháng 1-1973 Quốc hội Dân
chủ luôn hăm dọa ra luật chấm dứt
chiến tranh nếu Hiệp định bị trở
ngại. Ngày 2-1-1973 Hạ viện Dân chủ bầu
nội bộ với tỷ lệ 154 thuận và 75
chống để cắt hết viện trợ mọi
hoạt động quân sự ở Đông dương
vừa khi rút quân về nước và lấy lại tù
binh. Hai ngày sau, Dân chủ Thượng viện bầu
nội bộ cũng thông qua Dự luật tương
tự với số phiếu 36 thuận và 12 chống.
(7) Người ta thường
nghĩ TT Nixon và Kissinger hăm dọa, bắt ép ông
Thiệu kư kết Hiệp định Paris với điều
khoản bất lợi cho VNCH (Cộng quân không phải
rút về Bắc) nhưng sự thực không phải như
vậy. Quốc hội Dân chủ đă
bắt ép Nixon phải kư sớm hiệp định
nếu không muốn bị cắt hết nguồn tài chính
quân sự cho Đông Dương. Chúng ta thấy rơ tháng
1 năm 1973 họ cương quyết hơn trong áp
lực VNCH phải chấp nhận kư một hiệp
ước bất b́nh đẳng. Tác giả, Giáo
sư Mark Clodfelter nói “Ta
không biết Quốc hội có cắt viện trợ
VNCH hay không nếu không có trận oanh tạc Giáng sinh
(cuối tháng 12-72). Nhưng sau trận oanh tạc,
Lập pháp phẫn nộ và việc cắt viện
trợ miền Nam chắc chắn sẽ xẩy ra
nếu TT Thiệu từ chối kư kết Hiệp định.
Nhà lănh đạo miền Nam (tức ông Thiệu) không
dám liều lĩnh như vậy, không có viện
trợ, không thể sống c̣n. Ông ta đồng ư kư
nhưng sau hạn chót của TT Nixon” (8) Nhận xét
của GS Mark Clodfelter cho thấy Dân chủ sẽ
thẳng tay trừng trị VNCH không thương
tiếc trong trường hợp ông Thiệu không
chịu kư Hiệp định (vào tháng 1-73) và ông
Thiệu là người biết rơ hơn ai hết,
mặc dù ông lớn tiếng chỉ trích Kissinger, Nixon
bắt ép miền Nam kư Hiệp định nhưng
thực ra ông không dám liều lĩnh với Quốc
hội Dân chủ. VNCH thắng trong trận tấn công
1972 mà như thua v́ Dân chủ muốn như vậy,
họ không đếm xỉa ǵ tới sự tồn
tại của miền Nam mà chỉ quan tâm đến ḥa
b́nh, lấy tù binh, rút quân về nước. Như thế ông
Thiệu phải chấp nhận một Hiệp định
bất b́nh đẳng (BV vẫn đóng quân ở
miền nam) không phải v́ sợ TT Nixon dọa chặt
đầu hay đảo chính mà là v́ biết Quôc
hội Dân chủ sẽ thẳng tay bức tử VNCH
ngay khi đó. Hơn ai hết ông Thiệu biết rơ
sự thật phũ phàng này, chẳng thà kư kết c̣n
hy vọng sống sót thêm ít năm vẫn hơn là
để người ta bóp chết ngay lúc này. Hiệp định
Paris được kư kết ngày 27-1-1973, ngay sau đó,
v́ không bị oanh tạc nên CSBV vi phạm thỏa ước,
họ vội vă chuyên chở vũ khí, nhân lực vào
nam trước mùa mưa (vào tháng 4), TT Nixon không dám
oanh tạc v́ c̣n chờ lấy tù binh vào tháng 3.
Tại Căm Bốt, Khmer đỏ được BV giúp
bao vây Nam Vang khiến Nixon phải oanh tạc mạnh
để cứu chính phủ Lon Nol (9). Kể từ sau
ngày kư Hiệp định, Quốc
hội Dân chủ thẳng tay triệt hạ VNCH ngày
càng rơ nét, họ tích cực phản đối chính sách
can thiệp của Nixon, ra tu chính án cắt ngân
khoản quân sự cuối tháng 6-1973, Tổng thống
miễn cưỡng kư thành luật có hiệu lực
từ 15-8-1973. Nội dung như sau: “Tu
chính án này xác định từ nay không c̣n ngân
khoản nào để yểm trợ trực tiếp, gián
tiếp cho các hoạt động quân sự Mỹ
tại Miên, Lào, Bắc VN, Nam VN hoặc ngoài khơi Miên,
Lào, Bắc Việt, Nam Việt và từ sau ngày 15-8
sẽ không có ngân khoản nào khác của bất
cứ Điều luật nào dành cho những mục
đích này”. Tu chính án trên coi
như đă bức tử VNCH và cả Đông Dương
từ giữa năm 1973 v́ Hành pháp Mỹ sẽ không có
ngân khoản oanh tạc yểm trợ quân đội
đồng minh. Như ta đă thấy, với hỏa
lực, nhân lực yếu hơn CSBV, miền nam VN
vẫn phải dựa vào B-52 của Mỹ. TT Nixon nói
đạo luật này đă khiến ông bất lực
không bảo vệ được Hiệp định
tại VN và cho phép Hà Nội xâm chiếm VNCH thoải mái. Về điểm
này Giáo sư Robert F. Turner
nói “Tôi
xin nhắc lại cho quư vị trẻ biết sau khi
bị bỏ bom tơi bời, Hà Nội vội vă
trở lại đàm phán tại Paris. Và mọi
chuyện sẽ êm xuôi nếu chúng ta dùng máy bay B52
để trấn giữ hiệp định. Nhưng
quốc hội với áp lực của “Phong trào Ḥa B́nh”
đă thông qua dự luật vào tháng Năm 1973. Sẽ
là bất hợp pháp nếu Tổng Thống sử
dụng bất cứ đồng nào trong công quỹ cho
cuộc chiến tại Việt Nam, Lào và Cambodia. Làm như
vậy, Quốc hội đă chuyển thắng thành
bại. Quốc hội phản bội lời cam kết
lịch sử của Hoa Kỳ là bảo vệ các nước
không Cộng sản tại Đông Dương” (10) Quốc hội Dân chủ
liên tiếp ngay sau đó ra những quyết định
thù nghịch miền nam, họ cắt giảm viện
trợ quân sự xương tủy với VNCH mỗi
năm khoảng 50%: Từ 2,1 tỷ tài khóa 1973 xuống
c̣n một tỷ tài khóa 1974 và xuống c̣n 700 triệu
tài khoá 1975 (11). Họ lư luận theo kiểu đạo
đức giả nếu tiếp tục viện trợ
quân sự, ông Thiệu sẽ vẫn gây chiến tranh. Tháng 8-1974, TT Nixon
từ chức v́ vụ Watergate, phó TT Ford lên thay. Miền Nam ngày càng
suy yếu rơ rệt, 35% xe tăng, 50% thiết giáp, máy
bay thiếu cơ phận thay thế phải nằm
ụ. Hỏa lực giảm từ 60% tới 70% , tháng
3 -1975 đạn chỉ c̣n đủ xử dụng
trong một tháng, tháng 4 chỉ c̣n đủ cho xài
khoảng hai tuần (12). Đảng Dân chủ trả
thù miền nam VN bằng lối giết người không
dao đă khiến cho bao nhiêu đồng minh của
họ ngă gục trước họng súng, hỏa
lực vũ băo của quân thù. T́nh h́nh quân
sự tháng 4-1975 của miền nam vô cùng bi đát, Tướng
Weyand và Kissinger đề nghị TT Ford ra Quốc
hội xin khoản viện trợ khẩn cấp 722
triệu cho VNCH, lúc này Dân chủ nắm
đại đa số 67% Hạ viện và 60% Thượng
viện, họ chống chiến tranh VN kịch liệt,
đối với họ giờ là lúc phục thù. Ngày 10-4-1975
TT Ford ra Quốc hội xin viện trợ cho VN, có hai
dân biểu Dân Chủ Moffet và
Miller bỏ ra khỏi pḥng họp. Ngày 18-4-1975,
quân viện khẩn cấp 722 triệu bị Quốc
hội bác, họ lư luận số ngân khoản này cũng
chỉ kéo dài chiến tranh gây thêm tang tóc. TT Ford xin
viện trợ nhân đạo để cứu người
tỵ nạn khi CS đang xâm chiếm miền Nam,
nhiều vị thuộc Dân chủ chống mạnh,
đài VOA hồi đó cho biết Thượng
nghị sĩ Joe Biden đă để lại câu nói
bất hủ “cương quyết không cho một tên
tỵ nạn VN nào vào Mỹ” sau này trong cuộc
tranh cử TT năm 2008, cử tri VN hỏi ông về
lời tuyên bố này th́ ông chối ngay. Trong khoảng
thời gian này Kissinger tiên đoán: “Chúng
ta đang đối diện với tấn thảm
kịch vĩ đại, trong đó có chuyện liên
quan tới uy tín, tới danh dự của Hoa Kỳ,
tới cái mà các dân tộc khác trên thế giới
sẽ nh́n chúng ta như thế nào” (13) Tướng Weyand cũng đă phát
biểu “Uy
tín lâu dài của Hoa Kỳ trên thế giới đang
phụ thuộc vào nỗ lực thiện chí của ta
cố gắng làm hơn là thành công hay thất bại
trong lúc này, nếu ta không nỗ lực, uy tín của
ta như một đồng minh sẽ bị tiêu tan, có
lẽ sẽ kéo dài qua hết đời này sang đời
khác”.(14) Hoặc “Uy tín của Hoa Kỳ với tư cách
một đồng minh đang có nguy cơ bị mất
tại Việt Nam. Để giữ uy tín ấy chúng ta
phải cố gắng tối đa trợ giúp miền
nam VN” (15) Hành động
thù ghét VNCH của Quốc hội Dân chủ ít
nhiều cũng khiến đất nước họ
phải trả giá: tại Đông nam Á ngày nay nhiều
nước đồng minh của Mỹ đă có khuynh
hướng ngả về Trung Cộng như Thái Lan, Phi
Luật Tân, Mă Lai, Miên, Lào… người ta không c̣n dám
tin tưởng vào sự bảo vệ của một
siêu cường thất tín. Xưa th́ họ báo
oán miền nam VN, kết án ông Thiệu giúp đảng
Cộng Ḥa thắng cử, nay lại kết
án Putin giúp Donald Trump thắng cử và ra biện pháp
trừng trị Nga …họ xóa sổ VNCH th́ dễ nhưng
chỉ đánh Nga bằng vơ mồm. Năm 1964, khi
thấy thăm ḍ đại đa số người dân
(78%, 85%) ủng hộ cuộc chiến VN (16) đảng
Con Lừa vội đem đại binh đổ bộ
vào ngay. Bốn năm sau (1969) khi thấy phong trào
chống đối lên mạnh họ vội hùa theo
bọn phản chiến đánh phá Chính phủ đối
lập cật lực ngay từ năm 1969, 70… Nhưng nay
chiến lược mị dân kiếm phiếu đă hoàn
toàn sụp đổ, sự thảm bại của Con
Lừa trong cuộc tranh cử 2016 vừa qua cho thấy
gió đă đổi chiều. Từ nhiều
thập niên trước, đảng Con Lừa
được truyền thông (quyền lực thứ tư)
yểm trợ hết ḿnh và có phương tiện
mạnh để trấn áp đối phương,
tiếc thay truyền thông cũng vừa hết thời
oanh liệt. Nay internet, mạng xă hội Facebook,
Tweeter…. ngày càng bành trướng khiến truyền thông
mất dần địa vị độc tôn. Năm
1968 sau trận Mậu Thân, Walter
Cronkite giám đốc chương tŕnh CBS sang VN
về chỉ phán một câu chỉ trích cuộc
chiến thất bại thế là phong trào phản
chiến bùng lên dữ đội đưa Đông Dương
tới chỗ sụp đổ tan tành năm 1975. Trước đây,
năm 2008 truyền thông có thể đưa một người
da mầu không ai biết tới như ứng cử viên
Obama lên làm Tổng thống, đánh bại cả hai nhà
chính trị da trắng tiếng tăm như Hillary
Clinton, John McCain. Nay gió đă đổi
chiều, mặc dù 90% TV, báo, đài… tập trung
hỏa lực yểm trợ tối đa cho đảng
Con Lừa năm 2016 nhưng thay v́ chiến thắng vinh
quang chỉ là thất bại ê chề. .. Nhà Phật
gọi là vô thường…chẳng có ǵ là thường
c̣n. … Trọng
Đạt ------- (1) Chuyện này
đă được GS Nguyễn Tiến Hưng kể
lại trong Chương Một của cuốn "Khi
Đồng Minh Tháo Chạy" năm 2005 và năm sau
2006 ông Trần Đông Phong cũng bàn kỹ về
đề tài này trong cuốn "Việt Nam Cộng Ḥa,
10 Ngày Cuối Cùng" (từ trang 41 tới trang 69) (2) VNCH, 10 Ngày
Cuối Cùng trang 41, 42 (3) Ông Thiệu và
cuộc tranh cử Tổng thống Mỹ tháng 11- 1968 (4) White House Years,
Chương VIII, trang 227 (5) Composition of
Congress, by Political Party, 1855–2017: 1961, Hạ
viện DC 60%, Thượng viện DC 64%, năm 1968,
Hạ Viện DC 56%, Thượng viện DC 57%, 1972
Hạ viện DC 55%, Thượng viện DC 57% (6) Larry Berman: No
Peace, No Honor.. trang 198, 200. (7) Nixon: No More VN
trang 169, 170; Larry Berman: No Peace No Honor trang 221 (8) Mark Clodfelter:
The Limits of Air Power trang 200 (9) Richard Nixon: No
More Vietnams trang 175-180 (10) Trích trong bài
Hậu Quả Của Việc Hoa Kỳ Bỏ Rơi
Đông Dương của GS Robert F. Turner (bản
dịch đăng trên nhiều trang mạng) (11) Nixon: No More
Vietnams trang 185-186, Henry Kissinger: Years of Renewal trang 471 (12) Nixon: No more
Vietnams trang 187, Cao Văn Viên: Những Ngày Cuối VNCH
trang 82, 83, 91, 92, Phillip B. Davidson: Vietnam At War , The History
1946-1975 trang 748 (13) Walter Isaacson:
Kissinger a Biography trang 641,642 (14) Walter Isaacson:
Kissinger a Biography trang 640,641 (15) Larry Berman: No
Peace No Honor, Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam trang 266. (16) Karnow: Vietnam a
History trang 390; Answer.com, domino theory
|