DI
DÂN: NIỀM HY VỌNG VÀ NGUY CƠ CỦA HOA KỲ Đại-Dương |
Danh
xưng Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ đă hàm chứa
chủ trương chấp nhận di dân từ mọi
nguồn gốc dân tộc. Chủ
trương này đă giúp cho dân Mỹ thoát khỏi
chủ nghĩa thuộc địa của Châu Âu. Tín
đồ Tin Lành sẽ không từ Anh Quốc liều
mạng tới Châu Mỹ xa xôi và bất định v́
sự phân biệt tôn giáo của Toà thánh Vatican. Từng
đợt, từng đợt tín đồ Tin Lành, các
tù nhân ở Vương quốc Anh bị đày
tới thuộc địa của Luân Đôn ở Hoa
Kỳ mang theo tinh thần độc lập, tự
chủ đă giành lại quyền tự quyết dân
tộc đầu tiên trên thế giới. Phong
trào di dân mang lại những ư tưởng mới, ḷng
can đảm, ư chí kiên cường như một
luồng sinh khí thúc đẩy những sáng kiến
mới lạ ra đời làm thăng hoa cuộc
sống, thay đổi hệ thống chính trị
lỗi thời vốn chỉ phục vụ quyền
lợi của giai cấp thống trị. Di
dân Châu Âu chấp nhận Hiến pháp 1788 làm nền
tảng hệ thống chính trị của Hợp Chúng
Quốc Hoa Kỳ. Vừa bảo vệ nền Cộng
Hoà non trẻ, vừa mở mang bờ cơi, vừa phát
triển quốc gia, vừa tiếp nhận di dân đến
từ bất cứ ở đâu để chung lưng
đấu cật xây dựng một quốc gia đáng
sống, một xă hội đùm bọc lẫn nhau
bất chấp nguồn gốc xuất phát. Càng
phát triển, Hoa Kỳ đă mau chóng trở thành
“giấc mơ Mỹ” của nhiều người trên
khắp hành tinh kể cả giàu, nghèo, học vấn,
tôn giáo, quan điểm chính trị. Nhờ thế mà
Hoa Kỳ có một thể chế chính trị dân
chủ, tự do bền vững nhất thế giới
trong khi chế độ độc tài đủ
kiểu khó duy tŕ và phát triển. Tuy
nhiên, di dân vừa là nguồn sống vừa là gánh
nặng của quốc gia. Đối với bản thân
người di dân có thể là cơ hội thăng
tiến hiếm có, hoặc nỗi thất vọng v́
“giấc mộng kê vàng”. Đối
với các các nhà lănh đạo Hợp Chúng Quốc
Hoa Kỳ: di dân là bài toán chưa có đáp số rơ ràng
do sự rắc rối trong lĩnh vực tị nạn
và di dân bất-hợp-pháp. Lớp
di dân đầu tiên nguyện chấp nhận nơi này
làm quê hương, không muốn trở về chốn cũ
để nhận lại sự thù địch do khác
niềm tin tôn giáo, hoặc cam chịu sống dưới
chế độ quân chủ, hoặc quân chủ
lập hiến làm mất tinh thần phóng khoáng của
loài người. Di dân, nét son trong lịch sử Hợp Chúng Quốc
Hoa Kỳ Khi
nhân loại chưa bước vào giai đoạn cơ-giới-hoá,
các đợt di dân da trắng từ Châu Âu đến
Châu Mỹ bằng các cuộc hành tŕnh dài ngày trên
biển cả mênh mông để đến một
bến bờ hoang vu mà lập nghiệp. Họ phải
đối diện với thời tiết khắc
nghiệt, thổ dân và thú dữ với bàn tay
trắng và ư chí kiên cường. Họ như vết
dầu loang thuần hoá thiên nhiên, đẩy lùi
thổ dân theo kiểu vừa chiến đấu
vừa xây dựng. Tài nguyên nằm trong ḷng đất
được khai thác để phục vụ cho nhu
cầu hàng ngày của di dân. Những trận đánh
dữ dội và tàn bạo giữa thổ dân và Mễ
Tây Cơ với chính quyền non trẻ của Hoa
Kỳ đă mang lại một vùng đất hoang sơ,
rộng lớn để khai thác. Dân
số trẻ trung với tinh thần “dám nghĩ, dám làm”
của di dân da trắng, đa số từ Châu Âu
tới đă xây dựng một quốc gia vượt
trội hơn các mô h́nh từng có trên quả địa
cầu. Khi đó, di dân da màu và thổ dân chỉ
chiếm một tỷ lệ khiêm tốn tại Hợp
Chúng Quốc Hoa Kỳ. Kỳ
thị chủng tộc, giai cấp ở Hoa Kỳ vào
thời đó ít gay gắt, độc ác hơn các nơi
khác trên quả địa cầu v́ di dân hiểu rơ
rằng họ từng là nạn nhân của kỳ
thị. Người
da đen đến Hoa Kỳ thuộc phương
diện buôn bán nô lệ thời đó xảy ra
khắp thế giới với tỷ lệ không đáng
kể nên chẳng đóng góp ǵ nhiều cho tiến tŕnh
phát triển và lớn mạnh của Hợp Chúng
Quốc Hoa Kỳ. Những sắc dân da màu khác cũng
tương tự như người da đen trong xă
hội mà da trắng chiếm đa số tuyệt đối.
Phải công tâm thừa nhận nạn kỳ thị
chủng tộc tại Hoa Kỳ ít hơn so với các
nước khác vào cùng thời điểm. Chế
độ nô lệ bị xoá bỏ trên toàn lănh
thổ Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ khi Tu chính án
số 13 của Hiến pháp ra đời năm 1865. Những
người di dân coi nơi nhập cư như chọn
lựa suốt đời nên dồn nỗ lực
cống hiến sức lực, trí tuệ để xây
dựng quốc gia hùng cường mà họ không có
điều kiện thực thi ở nơi chôn nhau
cắt rốn. Họ sẽ không bao giờ trở
về chốn cũ để sống trong cảnh
phập phồng, bất định. Tiến
sĩ Ozlem Tureci và Tiến sĩ Ugur Sahin tốt
nghiệp tại Đức, hậu duệ của di dân
từ Thổ Nhĩ Kỳ, đă nên vợ chồng cùng
nhau nghiên cứu công nghệ mRNA. Công
ty đầu tiên của họ, Ganymed Pharmaceuticals, chuyên
về kháng thể đơn ḍng (mRNA) giúp cơ thể
chống lại bệnh ung thư được bán
với giá 1.7 tỷ USD. Công
ty thứ hai, BioNTech chế tạo vắc xin ung thư.
Khi nghe tin về một căn bệnh lạ lây lan
ở Vũ Hán, cặp vợ chồng này quyết định
xử dụng công nghệ mRNA cùng với 600 nhân viên
để bào chế vắc xin đă được Công
ty Dược phẩm khổng lồ của Mỹ,
Pfizer tài trợ. Sau 80 ngày đă có vắc xin chống
SARS-CoV-2 với hiệu quả trên 90%. Hiện tại, Công
ty của họ được lượng giá 26 tỷ
USD. (Viết theo Times of London). Tiến
sĩ Kariko Katalin cùng chồng và con gái sang Mỹ định
cư năm 1985 đă chịu nhiều khó khăn v́ ít
ai tin vào công nghệ mRNA cho tới năm 1998 mới
nhận được khoảng tài trợ 100,000USD. Năm
2013, Công ty Moderna của Gia Nă Đại và Công ty
BioNTech có trụ sở tại Mỹ đă thuê Katalin làm
chuyên gia cao cấp mRNA. Khi Đại dịch Virus Vũ
Hán bùng nổ, hai công ty đó đă áp dụng ư tưởng
của Katalin để sản xuất Vắc xin
chống SARS-CoV-2. Năm
1978, Đinh đồng phụng Việt (Đinh
Việt) vượt biển với gia đ́nh lúc 10
tuổi, định cư ở Oregon, tốt nghiệp
ưu hạng Tiến sĩ Luật học năm 1993
ở Harvard. Ngày 30/05/2001được bổ nhiệm vào
chức Phó Chưởng lư Luật pháp, Phụ tá cho
Tổng chưởng lư John Ashcroft. Sau vụ khủng
bố 911, Đinh Việt nhận nhiệm vụ
soạn thảo Dự luật Yêu nước (Patriot Act)
được Tổng thống George W. Bush kư thành
Luật vào 26/10/2001. Tháng 5, 2003, Ông trở về trường
cũ dạy Luật mà không tham quyền cố vị. Nữ
Khoa học gia Dương Nguyệt Ánh di tản năm
1975 tốt nghiệp ở Hoa Kỳ chuyên bào chế
thuốc đẩy cho các đại bác trên chiến
hạm và hoả tiễn trên phi cơ nên mệnh danh
“khoa học gia hoả tiễn”. Tháng 8-2001, Dương
Nguyệt Ánh cầm đầu 100 khoa học gia, kỹ
sư, cán sự đă chế 11 trái “bom áp nhiệt”
trong ṿng 67 ngày để tiêu diệt bọn khủng
bố trốn trong các hang động ở A Phú Hăn. Các
di dân này đă nhận Hoa Kỳ làm quê hương nên
sẵn sàng cống hiến tài năng làm rạng
rỡ cho vùng đất quyết chọn làm nơi
ăn đời ở kiếp cố định nên “ăn
cây nào rào cây đó”, “ăn quả nhớ kẻ
trồng cây”. Di dân: những gánh nặng cho Hoa Kỳ Hoa
Kỳ có chương tŕnh di dân hàng năm theo nhiều
diện khác nhau tương ứng với ngân sách
quốc gia. Nhưng, di dân bất-hợp-pháp là một
gánh nặng quá sức mà mỗi Chính quyền phải
khó khăn đối phó. Đạo
luật Kiểm soát và Cải cách Di dân năm 1986
của Tổng thống Ronald Reagan nhằm ân xá 3
triệu cư dân bất-hợp-pháp và buộc giới
chủ nhân phải chứng minh t́nh trạng di trú
của công nhân. Nhưng, t́nh trạng di dân vẫn chưa
bao giờ giải quyết dứt khoát với bất
cứ vị Tổng thống Mỹ nào v́ chưa có hàng
rào biên giới để kiểm soát mọi hoạt
động xuất nhập. T́nh trạng kiểm soát
lỏng lẻo ở biên giới phía Nam tạo điều
kiện cho nhiều vụ “khủng hoảng di dân
bất-hợp-pháp” và gia tăng việc buôn bán ma tuư
và băng đảng hoành hành. Di
dân hợp pháp hoặc bất-hợp-pháp trở thành gánh
nặng cho ngân sách quốc gia và người đóng
thuế mà đa số là da trắng. Di
dân ở Hoa Kỳ có hai loại chính: (1) Chọn nơi
này làm nơi cư trú vĩnh viễn nên tự giác tuân
hành luật pháp, góp sức xây dựng Hợp Chúng
Quốc Hoa Kỳ thành chốn an cư lạc nghiệp.
(2) Coi Hoa Kỳ như con gà đẻ trứng vàng để
hưởng thụ trong cảnh an nhàn nên thích mọi
thứ đều “free” mà không cần mất chút
sức lực nào cả. Luật
pháp bị bẻ cong khi đề cập tới vấn
đề di dân, ít khi nào tạo được sự
đồng thuận của cư dân, đặt
biệt đối với người đóng thuế. Hệ
thống y tế quốc gia cũng tốn nhiều
tiền cho di dân các loại. Tóm
lại, quan điểm về di dân cần xét trên quan
điểm lợi ích quốc gia dân tộc thay v́
lợi ích cá nhân có thể cân bằng, b́nh đẳng
và trung thực hơn chăng? Đại-Dương |