NHỮNG ĐIỀU G̀ JOHN KERRY THỰC
SỰ ĐĂ LÀM Ở VIỆT NAM? (What
John Kerry Really Did in Vietnam?) By
Jeffrey St. Clair July 26-2013 |
Lời
giới
thiệu:
John Kerry, một
nhân vật
không xa lạ
ǵ với
người
Việt
tỵ
nạn
CS, được
biết
đến
trong vai một
tên phản
chiến,
một
tên phản
lại
đồng
đội
cùng chiến
hữu
trong thời
chiến
tranh Việt
Nam, tuy là một
quân nhân nhưng
có tâm địa
gian hùng, mưu
ma chước
quỷ
hầu
đạt
được
những
tham vọng.
Mặt
khác, y c̣n được
nhiều
người
biết
trong vai tṛ một
tên chính trị
hoạt
đầu,
“con gà” của
đảng
Dân chủ
đưa
ra tranh cử
với
ông Bush để
rồi
trở
thành “Tổng
thống
Mỹ…
hụt”.
Tuy thất
bại
nhưng
ông ta không từ
bỏ
tham vọng
nên tham gia vào chính quyền
Obama trong vai tṛ Ngoại
trưởng.
Bản
dịch
bài viết
"What John Kerry Really Did in Vietnam?" của
Jeffrey St. Clair, tuy ngắn
bởi
trong phạm
vi một
tiểu
luận
nhưng
cũng cho chúng ta biết
nhiều
chuyện
lư thú xung quanh nhân vật
nhiều
tai tiếng
nầy.
Xin giới
thiệu
cùng độc
giả.
Webmaster. *
* * John
Kerry trong một
chức
vụ
hoàn toàn theo kiểu
Henry Kissinger, lượn
lờ
khắp
khu vực
Trung Đông, ép buộc
những
người
Palestine và đồng
minh của
họ
trong khu vực
cũng như
châu Âu phải
kư vào một
thỏa
ước
ḥa b́nh nhục
nhă để
phục
vụ
cho lợi
ích của
Israel và Hoa Kỳ, rất
đáng để
xem xét tiểu
sử
của
người
kiến
tạo
ḥa b́nh này, đặc
biệt
là trong những
năm tháng ngài ngoại
trưởng
khắc
tên ḿnh lên thân cây trong rừng
rậm
Đông Nam Á. Mặc
dù Kerry thể
hiện
như
là một
nhà hoạt
động
chống
chiến
tranh, hợp
đồng
dài hạn
ngắn
ngủi
ở
Vietnam và Cambodia vẫn
rất
đáng chú ư đối
với
cả
những
hành động
tàn bạo
cũng như
thiếu
sự
ăn năn về
việc
ông ta can dự
vào những
hành động
tàn bạo
mà ở
một
xă hội
có lương
tâm sẽ
bị
coi là tội
ác chiến
tranh.
– Jeffrey St. Clair.
Trong
năm cuối cấp ở Yale vào năm 1966, John Kerry
đăng nhập Hải Quân Hoa Kỳ, với việc
nhập ngũ dự định vào mùa hè sau khi ông ta
tốt nghiệp. Đă được nhận thấy
một cách rơ ràng về khát vọng chính trị, ông
ta chứng tỏ bản thân ḿnh trong vị trí hàng
đầu tại liên minh chính trị của Yale, đồng
thời nhập ngũ. Trong khi George W. Bush, học sau Kerry 2 năm, cố bán một gói cocain nặng cỡ một ounce ở Yale, (gợi nhắc lại quá khứ) Kerry vẫn chăm chú theo dơi không khí chính trị và nhận thấy xung đột giữa việc tham gia chiến tranh của bản thân và tinh thần phản chiến của đám đông, mà ông ta hy vọng một trong số đó sẽ bỏ phiếu cho ông trong một thời gian không xa.
Đó
là thời kỳ cho những quyết định quan
trọng và Kerry cân nhắc về việc gia nhập quân
ngũ và lẩn trốn trên một ḥn đảo
ở sông St Lawrence. Ông ta đă quyết định
đúng đắn khi vứt bỏ bài diễn văn
về chủ đề “cuộc sống sau tốt
nghiệp”, chọn lựa việc lên án chiến tranh
một cách cuồng nhiệt và một LBJ. Bài diễn văn
được đón nhận bởi sinh viên và một
số giáo sư. Phần lớn phụ huynh đều
kinh hoàng, nhưng bố mẹ của Kerry th́ không (Most
parents were aghast, though not Kerry’s own mother and father). Không
như Bill Clinton và George Bush, Kerry đă t́nh nguyện
nhập ngũ. Sau một năm huấn luyện ông ta
được biên chế vào chiến hạm USS Gridley,
triển khai tới Thái B́nh Dương, có vẻ như
là chở tên lửa hạt nhân. Bị xâm chiếm
bởi sự buồn bă, Kerry nhận được tin
một trong những người bạn tốt của
ông ta, cháu nội của “Black Jack” Pershing đă
bị giết ở Việt Nam. Kerry đầy tức
giận và bị kích động về việc trả
thù, theo như ông ta kể lại nhiều năm sau
đó cho người viết tiểu sử Douglas
Brinkley. (Cuốn tiểu sử được khuyến
nghị do Brinkley viết, Chuyến du hành của trách
nhiệm: John Kerry và chiến tranh Việt Nam, cung cấp
nhiều đoạn tường thuật cho các độc
giả siêng năng. Hầu hết dựa trên toàn
bộ nhật kư của Kerry và thư từ hồi
đó). Kerry
dàn xếp để được thuyên chuyển
tới đơn vị tuần tra bằng tàu cao
tốc. Chiến dịch tấn công Tết Mậu Thân
đă dẫn đến hàng loạt các chiến
dịch t́m diệt khủng khiếp của Hoa Kỳ
ở Việt Nam, bao gồm cả các chương tŕnh
ám sát như Phượng Hoàng. Một phần của
Hải Quân Hoa Kỳ cũng tham gia hành động,
đô đốc Elmo Zumwalt và người đồng
đội thân tín đại úy Roy “Latch” Hoffman đă
xây dựng “Chiến Dịch Chúa Tể Biển Khơi”,
theo đó các tàu cao tốc sẽ tuần tra các con kênh
và ḍng chảy thứ cấp trên châu thổ sông Mekong,
đặc biệt chú trọng vào các khu vực gần
biên giới Campuchia. Kế hoạch cơ bản, sau này
được nhiều cựu binh tàu cao tốc
thừa nhận, là khủng bố để nông dân
phải chống lại Mặt Trận Giải Phóng Dân
Tộc, hay c̣n gọi là Việt Cộng. Toàn bộ khu
vực, ngoại trừ một số được coi
là “những làng thân thiện”, là vùng nổ súng
tự do, có nghĩa là người Mỹ sẽ bắn
tùy thích và coi mọi người mà họ giết là
Việt Cộng. Đến
Việt Nam vào ngày 17 tháng 11 năm 1968, Kerry được
giao tuần tra quanh vịnh Cam Ranh và đă dàn xếp thành
công để được chỉ định
tiếp tục vào việc t́m diệt. Ông ta không
phải là Al Gore, b́nh yên hút cần sa, bắn bia trong
doanh trại ở Việt Nam và viết về nhà
những bài luận phê phán chiến tranh về mặt
đạo đức. “Tôi phản đối chiến
tranh hơn bao giờ hết”, Kerry nói với Brinkley vào
năm 2003, “mặc dù vậy chiến đấu do
bị thôi thúc bởi ḷng yêu nước. Tôi cho
rằng nếu chừng nào anh c̣n ở đó th́ anh
vẫn sẽ muốn thử làm như vậy”. Ngày
này qua ngày khác, đêm này qua đêm khác, những
chiếc tàu cao tốc rẽ sóng, xua đuổi và thường
xuyên giết hại dân làng, ngư dân và nông dân. Trong
chương tŕnh ấy, nhằm quấy rối nông dân
để buộc họ phải tuân phục, Kerry đă
tỏ ra rất sốt sắng. Một trong những
đại úy hải quân dưới quyền ông ta,
James R. Wasser, đă mô tả ông ta bằng những
từ ngữ như sau: “Kerry là một sĩ quan
cực kỳ hung hăng và tôi cũng như vậy. Tôi
thích ông ta chiến đấu với kẻ thù, ông ta
dẻo dai và gan góc – không ngần ngại phải
đổ máu cho tổ quốc”. Vào
ngày 12 tháng 12, Kerry đi tuần chuyến đầu tiên
trên những con kênh. Đă gần nửa đêm khi lính
nh́n thấy một chiếc xuồng tam bản. Các quy
tắc không yêu cầu đụng độ, cũng không
thấy rơ ai ở trên xuồng tam bản. Kerry bắn
một phát pháo sáng, ra hiệu cho lính của ông ta
thổi bay chiếc xuồng với hai khẩu súng máy và
súng trường M16. Kerry mô tả ngư dân “chạy
trốn như linh dương”. Kerry
bị một vết thương rất nhỏ ở
tay, dường như là do mảnh vỡ từ
chiếc tàu của ông ta văng ra. Vết xước
đó đă mang lại cho ông ta Trái Tim Tím đầu
tiên, một mề đay cho những người bị
thương trong chiến trận. Thực tế không có
bằng chứng nào cho thấy có bất cứ ai
bắn trả hay Kerry ở trong chiến trận, điều
đó hoàn toàn rơ ràng khi chúng ta đọc một đoạn
trong nhật kư của ông ta về cuộc hành quân
tiếp đó, được viết vào ngày 11 tháng 12
năm 1968, 9 ngày sau sự kiện mà Kerry nhận
được mề đay. “Một bầu không khí
tự măn về sự vô địch bao quanh kênh Ḷng Tàu,
bởi v́ chúng tôi vẫn chưa bị bắn, và người
Mỹ trong chiến tranh mà chưa bị bắn th́
được phép tự măn”. Ông
ta nhận được thêm hai mề đay Trái Tim Tím
nữa, cả hai cho những vết thương tương
đối nhỏ. Rơ ràng là Kerry không bao giờ quên ngày
làm nhiệm vụ mà nhờ đó nhận được
mề đay về thương tích.
Khát
khao nhiều hoạt động hơn, Kerry xin được
điều chuyển đến An Thới, mũi
cực nam Việt Nam, một trong những trung tâm mà làn
sóng giết chóc Phượng Hoàng quét qua và là nơi có
trại thẩm vấn không mấy danh tiếng đang
giam giữ khoảng 30,000 tù nhân. Nhiệm
vụ đầu tiên của Kerry trong khuôn khổ chương
tŕnh Phượng Hoàng là chuyên chở một đơn
vị biệt kích cấp tỉnh (PRU) của quân đội
miền Nam Việt Nam, được chỉ huy bởi
một gă mũ nồi xanh hoặc một viên chức
CIA. Sau khi thả hết nhóm biệt kích xuống, Kerry
đưa tàu cao tốc vào phía sau rặng đước.
Hai giờ sau đó, một pháo hiệu màu đỏ
cho họ biết là nhóm biệt kích cần “can
thiệp” khẩn cấp. Tàu của Kerry tới đón
nhóm PRU, cùng với hai tù nhân. Trưởng nhóm PRU nói
với Kerry rằng khi họ bắt cóc hai dân làng (trong
đó có một cô gái) ở trong lều, họ nh́n
thấy có 4 người trên xuồng tam bản và đă
giết chết hết ngay lập tức. Hai tù nhân
bị bắt chỉ là một phần trong lộ tŕnh
bắt bớ thông thường nhằm cung cấp các
nạn nhân cho trại thẩm vấn và tra tấn An
Thới. Những
lời kể của Kerry cho Brinkley về những điều
đă xảy ra – và xuất hiện rất nhiều
trong thời gian ngắn của ông ta ở Việt Nam
– là “sự tàn bạo ngoài ư muốn”. Trong
các nhiệm vụ vào ban ngay, tàu cao tốc được
trực thăng chiến đấu Cobra hộ tống,
họ sẽ bắn phá hai bên bờ sông và phần xác
rừng c̣n lại sau khi đă bị tàn phá bởi bom
napalm và chất độc màu da cam. “Helos quật ngă
VC [có nghĩa là bất kỳ ai đó trên mặt đất]
nhiều hơn bất cứ thứ ǵ mà chúng ta có
thể có”, Kerry nói với Brinkley, “và bất cứ cơ
hội nào mà chúng ta có họ đi cùng th́ đều
được hoan nghênh”. Một
ví dụ về hoạt động của Cobra. Vào ban
ngày, dân chúng không bị thiết quân luật. Tàu
của Kerry đi ngược ḍng kênh, với một
chiếc Cobra hộ tống phía trên đầu. Họ
bất th́nh ĺnh bắt gặp một chiếc tam
bản với vài người. Trực thăng lượn
phía trên chiếc tam bản, sau đó trút sạch đạn
súng máy vào đó, giết chết tất cả mọi
người và đánh ch́m chiếc tam bản. Kerry,
trong nhật kư của ông ta, không than văn về việc
chết chóc nhưng lại phàn nàn về việc lính
trực thăng Cobra sử dụng đạn lăng phí,
khi viên phi công trực thăng “yêu cầu cho phép
rời đi để bổ sung đạn dược,
trong một chiến dịch đă để lại chúng
tôi không được hộ tống hơn 45 phút
ở một khu vực mà sự hộ tống là
rất cần thiết”. Đêm
Giáng Sinh 1968, Kerry chỉ huy tuần tra ngược ḍng
kênh dọc theo biên giới Campuchia. Việc ngừng
bắn nhân dịp Giáng Sinh có hiệu lực. Vậy nên
“chiếc tàu cao tốc làm ǵ ở đó?” là
một câu hỏi. Họ phát hiện hai chiếc
xuồng tam bản và dồn chúng vào một làng chài
nhỏ. Tàu bị bắn vài phát đạn bắn
tỉa, (hay ít nhất là Kerry nói như vậy). Kerry ra
lệnh cho xạ thủ súng máy James Wasser bắn
yểm hộ. Trong
một đoạn ghi chép về sự ân hận, nhưng
không phải của Kerry, Wasser kể cho Brinkley nghe anh ta
đă thấy ḿnh bắn chết một ông già đang
dắt trâu. “Tôi bị ám ảnh bởi khuôn mặt
của ông già đó. Ông ấy chỉ làm công việc
nông nghiệp hàng ngày, không làm tổn hại ai. Ông
ấy bị bắn vào ngực bằng đạn súng
máy M-60. Đó có thể là đêm Giáng Sinh, nhưng tôi
thực sự buồn rũ rượi sau đó…khi nh́n
ông già bị bắn gục”. Thực tế là tàu
của Kerry đă bắn vào một trong số các làng
“thân thiện”, với một đơn vị đồn
trú lính cộng ḥa miền Nam, hai trong số họ
đă bị thương. Sự
buồn bă của Wasser trái ngược với thái
độ tự cho ḿnh là đúng đắn của
Kerry trong nhật kư của ông ta về những vụ
bắn giết, thường xuyên nhằm vào lănh
thổ Campuchia. “Đôi khi chúng tôi bắn qua biên
giới khi bị kích động bởi lính bắn
tỉa hay phục kích, nhưng không có sai phạm để
bị chính quyền Campuchia lên án chính thức hay
dẫn đến các cáo buộc tấn công cũng như
vô ư giết hại thường dân. Tôi không hoài nghi
rằng đôi khi một số người vô tội
bị bắn nhầm, nhưng không phải mọi trường
hợp ở Việt Nam đều có thể coi là
thảm sát, điều này hoàn toàn là sai”. Rất
mâu thuẫn khi chúng ta không bao giờ t́m thấy trong
bất cứ nhật kư hay thư từ nào của Kerry
một ấn tượng nhỏ về sự ăn năn
hay hối tiếc – và Brinkley chắc chắn sẽ
đánh dấu chúng nếu như Kerry từng viết
những từ ngữ như vậy. Kerry không bao
giờ viết, trong sự nghiệp sau này khi là ngôi sao
tự phong của phong trào chống chiến tranh,
thậm chí ngay cả trong những lời ba hoa về
tai nạn của chiến tranh, hay như những
cựu chiến binh khác vô t́nh để lộ cảm
xúc của họ về sự kinh hoàng mà họ đă
gây ra. Không
phải là ông ta không thể gợi lên cho cử
tọa một vài đoạn khủng khiếp. Ví
dụ, vài tuần sau sự cố ở biên giới
Campuchia tàu của Kerry tiến vào sông Cửa Lớn
chảy ra vịnh Square, khi một trong số lính hét lên
về “xuồng tam bản chắn mũi tàu”. Kerry ra
lệnh cho súng máy bắn vào thuyền cá. Chiếc
xuồng tam bản dừng lại và Kerry cùng với lính
nhảy sang. Họ t́m thấy một người
phụ nữ đang ôm một đứa trẻ sơ
sinh, và cạnh cô ta là xác của một đứa
trẻ bị thủng lỗ chỗ bởi đạn súng
máy, mặt úp vào giữa những túi gạo. Kerry nói
với Brinkley rằng ông ta không muốn nh́n đứa
trẻ chết, ông ta nói, “khuôn mặt này sẽ theo tôi
suốt phần đời c̣n lại và tốt hơn
không nên biết nó cười hay nhăn nhó, là trai hay
gái”. Phương thức được Kerry ưa
chuộng luôn chỉ có một. “Nhiệm vụ
của chúng tôi”, ông ta nói với Brinkley sau đó vài
trang, “là phá hủy tất cả những cái cḥi và
xuồng tam bản mà chúng ta t́m thấy”. Trong
chiến dịch Chúa Tể Biển Khơi, Kerry chở
người Nùng trong các nhiệm vụ ám sát. Người
Nùng được trả tiền để giết chóc,
và Kerry mô tả tương phản họ một cách
thích thú với vệ binh PF của Nam Việt Nam,
gọi một cách chế giễu vệ binh là “Cream
Puffs” [một loại bánh nhân kem]. Một lần, Kerry
chở người Nùng tới một ngôi làng, ở
đó họ bắt được một ông già và
buộc ông ta phải làm máy ḍ ḿn sống, đi trước
họ một khoảng xa. Không có ḿn và người Nùng
cũng không chạm trán với kẻ thù. Nhưng đối
với với ông già th́ đó là hành tŕnh một
đi không trở lại. Người Nùng cắt
cổ ông già, moi ruột và để lại lời
cảnh báo trên xác chết.
Vâng,
đây cũng chính là Kerry, người vào năm 2004
tại đỉnh điểm cuộc nổi dậy
của người Sunni đă kêu gọi gửi thêm
40.000 lính Mỹ đến Iraq. Cách
ông ta giành được những Ngôi Sao Bạc và
Đồng Sự
kiện bất ngờ khiến cho đại úy Hải
Quân Hoa Kỳ John Kerry nhận được Ngôi Sao
Bạc, do đó biến ông ta trở thành một “người
hùng chiến tranh”, xảy ra vào ngày 28 tháng 2 năm
1969. Tàu cao tốc của ông ta chở “các chuyên gia
chất nổ” Hoa Kỳ và một số lính miền
Nam Việt Nam đi trên ḍng sông Đông Cung. Sau khi
thả người xuống, tàu của Kerry bị
tấn công bằng hỏa lực nhẹ. Kerry quay tàu
về phía phát ra tiếng súng, cập bờ và bắn
vào rừng với súng máy trên tàu. Khi
cho tàu cập bờ th́ Kerry đă không tuân thủ theo
các mệnh lệnh tiêu chuẩn vốn cấm điều
đó, bởi mặt đất thuộc về máy bay và
lính trên tàu chỉ là các cầu thủ dự bị.
Động cơ của Kerry là ǵ? Một lính trên tàu
Michael “Duke” Medeiros giải thích cho người
viết tiểu sử của Kerry, Douglas Brinkley, đó là
vấn đề về kỹ năng xác minh. “Chúng tôi
không bao giờ biết được chúng tôi có
giết được VC hay không. Khi nổ súng, ông
ấy [Kerry] muốn cập bờ và xông vào tóm lấy
kẻ thù”. Súng
máy của tàu cao tốc đă giết chết một
người Việt Nam, được coi là “du kích
VC”, và họ mang bằng chứng [không được
mô tả] về cái xác. Chiếc
tàu tiếp tục đi xuôi ḍng và tiếp tục
bị bắn một lần nữa, bằng súng phóng
đạn rốc két. Dưới đây là những
phần tường thuật có sự mâu thuẫn rơ ràng
về sự kiện, phụ thuộc vào lợi ích
của những người kể lại. Phần trích
dẫn cho Ngôi Sao Bạc của Kerry mô tả sự
kiện như sau: “Với sự kiên quyết bất
chấp an toàn của bản thân và đạn rốc két
của kẻ thù, ông ấy đă ra lệnh tấn công
kẻ thù, cập bờ chỉ cách vị trí bắn
rốc két của kẻ thù mười feet, và tự ḿnh
dẫn đội đổ bộ lên bờ đuổi
theo kẻ thù. Ngay lập tức rà soát để phát
hiện ra phần c̣n lại của kẻ thù và khu
vực tiếp tế đă bị phá hủy. Sự can
đảm phi thường và sự dũng cảm cá nhân
của Đại úy (cấp bậc thấp) Kerry trong
cuộc tấn công với một lực lượng vượt
trội về số lượng khi phải đối
mặt với hỏa lực mănh liệt là nguyên nhân
dẫn đến một nhiệm vụ rất thành công.
Trích
đoạn này, được đô đốc Admiral
Elmo Zumwalt cung cấp, dựa trên báo cáo về sự
kiện, được viết bởi John Kerry. Cái
thiếu trong phần trích dẫn của Zumwalt là
cuộc đối đầu bi kịch được
Kerry mô tả 27 năm đó, vào năm 1996, tại tâm
điểm của cuộc chiến tái cử bẩn
thỉu chống lại đại biểu phe cộng ḥa
William Weld, khi Kerry t́m cách trúng cử thượng
nghị sĩ nhiệm kỳ thứ ba. Kerry truyền
đạt cho Jonathan Carrol, viết cho dân New York, một
câu chuyện như sau: Ông ta đă đối mặt
với một Việt Cộng, đứng cách ông ta vài
feet với khẩu một khẩu B-40. “Cũng không
biết là chuyện đó bất ngờ với hắn
hay với chúng tôi”, Kerry nói với Carroll. “Điều
đó rất đơn giản. Tôi không biết
tại sao lại không phải là chúng tôi – Tôi
muốn nói rằng, ngay cả bây giờ. Hắn ta chĩa
súng vào tàu của chúng tôi. Hắn như chui ra từ
địa ngục vậy, không ai trong chúng tôi thấy
hắn cho tới khi hắn đứng trước
mặt chúng tôi, chĩa súng bắn rốc két vào chúng
tôi, và không hiểu v́ lư do ǵ, hắn không kéo c̣ súng
– hắn quay lưng và chạy. Hắn bị choáng váng
khi nh́n thấy tàu của chúng tôi ngay trước
mặt. Nếu hắn kéo c̣ súng, tất cả chúng tôi
đă chết. Tôi không nói về chuyện đó. Tôi
không nói và không thể. Câu chuyện đó thật
sự khiến tôi không bao giờ kể với ai.
Sẽ không có ai hiểu đâu”.
Hai
lính của Kerry, Medeiros và xạ thủ súng máy Tommy
Belodeau, không cho là có ǵ huyền bí khi VC không bóp c̣ súng
B-40. Người Việt Nam đă hết đạn. Anh
ta chưa kịp nạp đạn lại sau phát
bắn đầu tiên vào tàu của Kerry khi nó đi xuôi
ḍng sông. Sau
đó vào năm 1996 Belodeau mô tả toàn bộ sự
kiện cho David Warsh của tở Boston Globe. Belodeau
kể với Warsh rằng anh ta khai hỏa khẩu súng máy
M-60 vào người Việt Nam ở cự ly mười
feet sau khi họ cập bờ. Đạn súng máy
bắn trúng chân người Việt Nam, và người
đàn ông bị thương ḅ vào sau một cái
lều gần đó. Vào lúc ấy, Belodeau nói, Kerry
cầm lấy khẩu M-16, nhảy ra khỏi tàu,
tiến tới chỗ người đàn ông mà Belodeau
nói đă gần chết, và kết liễu anh ta. Khi
tờ Globe xuất bản hồi kư mà Warsh ghi theo
lời kể của Belodeau, đó là cáo buộc Kerry
về tội ác chiến tranh, chiến dịch của
Kerry nhanh chóng dẫn Madeiros tới báo chí và ông ta mô
tả người Việt Nam sau khi bị súng máy
của Belodeau bắn ngă, đă vùng dậy, tóm lấy
khẩu súng bắn rốc két và chạy theo đường
ṃn vào rừng và biến mất ở lối rẽ.
Họ chạy ṿng tới góc khuất và thấy người
Việt Nam một lần nữa chĩa súng B-40 vào
họ ở khoảng cách chỉ 10 feet. Anh ta không
bắn và Kerry bắn chết anh ta bằng khẩu súng
trường. Trên
trang web của cựu chiến binh vào đầu năm
2004 có một thư điện tử của Mike
Morrison, người cũng như Kerry nhận được
Ngôi Sao Đồng ở Việt Nam. Morrison là người
sau này viết bài diễn văn cho Lee Iacocca, đă
rất hoài nghi về chiến công của Kerry. Trong lá
thư viết cho em trai Ed, ông ta viết như sau: “Tôi
đă nghĩ từ rất lâu rằng thành tích của
Kerry là giả mạo. Chúng ta sẽ nói về điều
đó khi em ở đây. Đó hoàn toàn là bản năng
bởi v́, như em đă biết, không bất cứ người
nào giành được mà lại khoe khoang nó không
hề xấu hổ cho những lợi ích chính
trị”. “Tôi
đă ở khu vực châu thổ ngay sau khi ông ta
rời khỏi. Tôi biết rất rơ về khu vực.
Tôi biết những chiến dịch mà ông ta đă tham
gia. Tôi biết các chiến thuật và học thuyết
được áp dụng. Tôi biết về trang
thiết bị. Mặc dù tôi được chỉ
định vào CTF-116 (PBRs) nhưng tôi đă ở trong
CTF-115 (đơn vị tàu cao tốc) một thời
gian khá dài, đơn vị mà Kerry là chỉ huy”. Đây
là những vấn đề và sự nghi vấn: “(1)
Kerry chỉ mới ở đó ít hơn 4 tháng và giành
được một Ngôi Sao Đồng, một Ngôi
Sao Bạc và 3 Trái Tim Tím. Tôi chưa từng thấy
bất cứ ai trong mọi binh chủng mà tôi từng cùng
làm việc (bao gồm Đặc Nhiệm Thủy quân
Lục chiến, Sói Biển, Riverines và Lực Lượng
Tuần Tra Đường Thủy) có thể kiếm
mề đay nhanh như vậy, và với những hành
động tẻ ngắt như vậy. Tàu cao tốc
đă thực hiện những công việc đáng
được tuyên dương. Nhưng nhiệm vụ
không phải là những điều tồi tệ mà
bạn có thể vẽ ra. Họ chỉ hoạt động
dọc theo bờ biển và trên các ḍng chảy chính
(Bassac và Mekong). Những vấn đề khó khăn
trong các khu vực nóng bỏng được xử lư
bằng các PBRs nhỏ hơn và nhanh hơn. Đáng
nghi.” “(2)
Ba Trái Tim Tím mà không bị què. Mọi vết thương
đều nhỏ tới mức không phải nghỉ dưỡng
thương. May mắn đến kinh ngạc. Hay là ông
ta tự trao mề đay cho ḿnh mỗi khi ông ta va đầu
vào cửa pḥng lái tàu? Đụng độ trên tàu
phần lớn là ở cự ly gần. Bạn không
thể có những vết thương nhỏ. Ít
nhất là không thường xuyên. Không phải ba
lần liên tiếp. Sau đó ông ta dùng ba Trái Tim Tím
để yêu cầu được về nhà tám tháng
trước khi kết thúc nghĩa vụ. Đáng
nghi.” “(3)
Chi tiết về sự kiện mà ông ta nhận
được Ngôi Sao Bạc chả có nghĩa lư ǵ
cả. Đột nhiên, một quả đạn B-40
bắn về phía tàu và trượt. Charlie nhảy lên
với khẩu B-40 trong tay, xạ thủ súng máy bắn
ngă anh ta, Kerry cập bờ, nhảy xuống, bắn
hạ Charlie, và cướp được khẩu súng.
Nếu sự thật như vậy, ông ta đă làm sai
hết. (a) Thủ tục tiêu chuẩn khi bạn bị
nă rốc két là quay đuôi tàu và chạy khỏi đó.
Một khẩu B-40 có tầm bắn là 25 yard, nên
bạn giữ khoảng cách 50 yard hay giữa bạn và
bờ sông, sau đó sử dụng súng máy.
(Bạn có thấy ai bị bắn hạ bằng súng
cỡ 50 ly mà đứng dậy được không? Người
đó chắc chắn chết hoặc hấp hối.
Khẩu B-40 không có đạn. Thế nên chả có lư
do ǵ đuổi theo anh ta (trừ khi bạn biết
rằng anh ta không c̣n nguy hiểm – chỉ là ném ḿnh vào
đâu đó trong cơn hấp hối, và bạn
muốn có hành động gan dạ trong báo cáo
chiến sự). Và chúng tôi không bắn người
bị thương. Chúng tôi cũng có luật cấm
việc đó.”
“Một
số thứ rất khả nghi” “Câu
chuyện có ư nghĩa đối với tôi là của
Belodeau. Đó là ba khẩu súng đầy uy lực máy
trên tàu và một người Việt Nam ở cự ly
gần trên mặt đất và Belodeau nói khẩu súng
máy của ông ta đă hạ mục tiêu. Ngay cả khi
chiến binh Việt Nam vùng dậy một cách kỳ
diệu và chạy xuôi theo đường ṃn, th́
lần thứ hai bắn anh ta vào một phần nào
đó ở chân. Dường như tàu đă sử
dụng súng máy lần nữa, làm rơ những Kerry
kể về việc họ làm, ngày này qua ngày khác,
đêm này qua đêm khác?” Ngôi
Sao Đồng của Kerry vào ngày 13-3-1969, hai tuần sau
câu chuyện khiến ông ta nhận được Ngôi
Sao Bạc được Kerry coi phần cuối cùng
trong cuộc chiến đấu. Nó đem lại cho ông
ta Ngôi Sao Đồng và Trái Tim Tím thứ ba, điều
đó có nghĩa là ông ta có quyền yêu cầu
được thuyên chuyển khỏi Việt Nam. Kerry
nhận được Ngôi Sao Đồng nhờ
việc kéo một đại úy khác ra khỏi mặt nước
sau khi tàu cao tốc của người đó va phải
ḿn. Vụ nổ ḿnh đó hất Kerry văng vào vách
ngăn trên tàu, làm thâm tím tay của ông ta. Đó
được coi là một vết thương, có nghĩa
là Trái Tim Tím thứ ba. Sau đó, giữa làn đạn
súng trường, Kerry điều khiển tàu tới
chỗ đại úy Rassman và lôi ông ấy lên bong. Cả
hai con tàu thực hiện hai nhiệm vụ khác nhau,
chở Lính Mũ Nồi Xanh, Đặc Nhiệm Hải
Quân và sát thủ người Nùng tới một ngôi làng.
Một lần nữa họ lại nhầm lẫn
tấn công vào làng thân thiện, ở đó họ khai
hỏa vào nhóm lính miền nam Việt Nam đang
thẩm vấn một nhóm phụ nữ và trẻ em
xếp hàng dọc theo một bức tường. Khi
đám mũ nồi xanh và đặc nhiệm hải quân
khai hỏa, lính miền nam Việt Nam nhảy qua bức
tường và để lại ít nhất mười
phụ nữ và trẻ em bị giết. Khi đó, trái
với mệnh lệnh, Kerry đă rời tàu, đứng
cùng với đám người Nùng và ra lệnh
bằng lời nói, “bắn và thổi bay những
thứ đó đi”. Một người Nùng ném
lựu đạn vào chiếc lều chất đầy
những bao gạo. Kerry bị gạo rơi vào đầu
và một mẩu kim loại găm vào mông, vết thương
nặng nhất mà ông ta nhận được ở
Việt Nam. Với
ba Trái Tim Tím, Ngôi Sao Bạc và Ngôi Sao Đồng, Kerry
sẽ được thuyên chuyển sang làm trợ lư
riêng cho một sĩ quan cấp cao ở Boston, New York hay
Washington DC. Ông ta quyết định chọn New York
để làm việc cho đô đốc Walter F. Schlech
ở New York. Vào tháng giêng năm 1970 ông ta xin được
giải ngũ. Theo như ông ta viết, ông ta quyết
định tham gia phong trào phản chiến nhưng trong
khuôn khổ hệ thống và cố gắng giành
một ghế trong quốc hội của quận. Zumwalt:
“Thành tích của Kerry sẽ ám ảnh ông ta”
Một
cựu trợ lư bộ trưởng bộ quốc pḥng
và giáo sư trường ngoại giao Fletcher, W. Scott
Thompson, nhắc lại một đoạn đối
thoại với đô đốc Elmo R. Zumwalt Jr. mà trong
đó có sự khác biệt rơ ràng với hồi kư
của Kerry về cuộc tranh luận: “Vị chỉ
huy huyền thoại và xuất sắc của các
chiến dịch hải quân, đô đốc Elmo
Zumwalt, nói với tôi – 30 năm trước khi ông
ấy vẫn là CNO [chỉ huy hải quân ở Việt
Nam] trong thời kỳ ông ấy chỉ huy lực lượng
hải quân Hoa Kỳ ở Việt Nam, mối bận
tậm lớn nhất của ông ấy trong vai tṛ CNO, là
anh chàng Kerry trẻ tuổi đă gây ra hàng mớ các
vấn đề lớn cho bản thân và các chỉ huy
cấp cao, bằng cách giết hại rất nhiều
thường dân và theo đuổi các mục tiêu phi quân
sự khác. “Chúng
tôi đă phải mặc áo người điên cho anh
ta để kiểm soát được anh ta”, đô
đốc nói. “Bud” Zumwalt có lư khi ông ấy đánh
giá Kerry có tham vọng lớn – nhưng cam đoan
rằng sự nghiệp ở Việt Nam sẽ ám
ảnh ông ta nếu ông ta đạt đến tầm
quốc gia.” By
Jeffrey St. Clair What
John Kerry Really Did in Vietnam? By
Jeffrey St. Clair July
26-2013 With
John Kerry currently in full Henry Kissinger regalia, parading around the
Middle East, brow-beating the Palestinians and their allies in the region
and Europe into signing onto a deeply flawed peace accord that primarily
serves Israeli and American interests, it may prove a useful exercise to
inspect the curriculum
vitae of this
putative peace-maker, especially during those formative years when the
Secretary of State first carved out his name in the jungles of Southeast
Asia. Though Kerry has a reputation as an anti-war activist, his brief
tenure in Vietnam and Cambodia was notable both for acts of casual savagery
and his striking lack of contrition for his own participation in atrocities
that in a rational society might easily be classified as war crimes. – JSC In
his senior year at Yale in 1966 John Kerry enlisted in the US Navy, with his
actual induction scheduled for the summer, after his graduation. Already
notorious among his contemporaries for his political ambition, he’d
maneuvered himself into the top slot at the Yale political union, while also
winning admission to Skull and Bones. While
George W. Bush, two years behind Kerry, was seeking commercial opportunity
at Yale by selling ounce bags of cocaine, (so one contemporary has recalled)
Kerry was keeping a vigilant eye on the political temperature and duly noted
a contradiction between his personal commitment to go to war and the growing
antiwar sentiment among the masses, some of whom he hoped would vote for him
at a not too distant time. It
was a season for important decisions and Kerry pondered his options amid the
delights of a Skull and Bones retreat on an island in the St Lawrence River.
He duly decided to junk his speech on the theme of “life after
graduation” and opted for a fiery denunciation of the war and of an LBJ.
The speech was well received by the students and some professors. Most
parents were aghast, though not Kerry’s own mother and father. Unlike
Bill Clinton and George Bush, Kerry duly presented himself for military
service. After a year’s training he was assigned to the USS Gridley,
deployed to the Pacific, probably carrying nuclear missiles. Beset by
boredom, Kerry received the news that once of his best friends, Dickie
Pershing, grandson of “Black Jack” Pershing had been killed in Vietnam.
Kerry seethed with rage and yearned, as he put it years later to his
biographer Douglas Brinkley, for vengeance. (Brinkley’s highly admiring
biography, A Tour of Duty: John Kerry and the Vietnam War, offers many
telling vignettes to an assiduous reader. It’s based almost entirely on
Kerry’s diaries and letters of the time.) Kerry
engineered reassignment to the Swift boat patrol. In Vietnam the Tet
Offensive had prompted a terrible series of search and destroy missions by
the US, plus the assassination program known as Phoenix. As part of the US
Navy’s slice of the action, Admiral Elmo Zumwalt and his sidekick Captain
Roy “Latch” Hoffman had devised “Operation Sea Lords”, in which the
Swift boats would patrol the canals and secondary streams of the Mekong
Delta, with particular emphasis on the areas near the Cambodian border. The
basic plan, explicitly acknowledged by many Swift boat veterans, was to
terrorize the peasants into turning against the National Liberation Front,
aka Viet Cong. The entire area, except for certain designated “friendly
villages”, was a free fire zone, meaning the Americans could shoot at will
and count anyone they killed as VC. Arriving
in Vietnam on November 17, 1968, Kerry chafed at patrols around Cam Ranh Bay
and pushed successfully for assignment to the forward, killing patrols. He
was no Al Gore, peaceably smoking dope and shooting hoops on his Army base
in Vietnam and writing home fierce moral critiques of the war. “I was more
opposed to the war than ever”, Kerry told Brinkley in 2003, “yet more
compelled by patriotism to fight it. I guess until you’re in it, you still
want to try it.” Day
after day, night after night, the Swift boats plied the waters, harassing
and often killing villagers, fishermen and farmers. In this program, aimed
at intimidating the peasants into submission, Kerry was notoriously zealous.
One of his fellow lieutenants, James R. Wasser, described him admiringly in
these words: “Kerry was an extremely aggressive officer and so was I. I
liked that he took the fight to the enemy, that he was tough and gutsy–not
afraid to spill blood for his country.” On
December 2, Kerry went on his first patrol up one of the canals. It was near
midnight when the crew caught sight of a sampan. Rules of engagement
required no challenge, no effort to see who was on board the sampan. Kerry
sent up a flare, signal for his crew to start blazing away with the boat’s
two machineguns and M16 rifles. Kerry described the fishermen “running
away like gazelles”. Kerry
sustained a very minor wound to his arm, probably caused by debris from his
own boat’s salvoes. The scratch earned him his first Purple Heart, a medal
awarded for those wounded in combat. Actually there’s no evidence that
anyone had fired back, or that Kerry had been in combat, as becomes obvious
when we read an entry from his diary about a subsequent excursion, written
on December 11, 1968, nine days after the incident that got Kerry his medal.
“A cocky air of invincibility accompanied us up the Long Tau shipping
channel, because we hadn’t been shot at yet, and Americans at war who
haven’t been shot at are allowed to be cocky.” He
received two more Purple Hearts, both for relatively minor wounds. Indeed
Kerry never missed a day of duty for any of the medal-earning wounds. Craving
more action, Kerry got himself deployed to An Thoi, at Vietnam’s southern
tip, one of the centers for the lethal Phoenix sweeps and the location of a
infamous interrogation camp which held as many as 30,000 prisoners. Kerry’s
first mission as part of the Phoenix program was to ferry a Provincial
Reconnaissance Unit of South Vietnamese soldiers, which would have been led
by either a Green Beret or CIA officer. After off-loading the unit Kerry hid
his Swift boat in a mangrove backwater. Two hours later a red flare told
them that the PRU wanted an emergency “extraction”. Kerry’s boat
picked up the PRU team, plus two prisoners. The leader of the PRU team told
Kerry that while they were kidnapping the two villagers (one of them a young
woman) from their hut, they’d seen four people in a sampan and promptly
killed them. The two prisoners were “body-snatched” as part of a regular
schedule of such seizures in the victims would be taken to An Thoi for
interrogation and torture. Kerry’s
term to Brinkley for such outings–and there were many in his brief time in
Vietnam–is “accidental atrocities”. On
daylight missions the Swift boats were accompanied by Cobra Attack
helicopters that would strafe the river banks and the skeletal forest
ravaged by napalm and Agent Orange. “Helos upset the VC [sic, meaning
anyone on the ground] more than anything else that we had to offer”, Kerry
tells Brinkley, “and any chance we had to have them with us was more than
welcome.” An
example of these Cobras in action. It’s daylight, so the population is not
under curfew. Kerry’s boat is working its way up a canal, with a Cobra
above it. They encounter a sampan with several people in it. The helicopter
hovers right above the sampan, then empties its machineguns into it, killing
everyone and sinking the sampan. Kerry, in his war diary, doesn’t lament
the deaths but does deplore the senselessness of the Cobra’s crew in using
all of its ammunition, since the chopper pilot “requested permission to
leave in order to rearm, an operation that left us uncovered for more than
45 minutes in an area where cover was essential”. Christmas
Eve, 1968, finds Kerry leading a patrol up a canal along the Cambodian
border. The Christmas ceasefire has just come into effect. So what the boat
was doing there is a question in and of itself. They spot two sampans and
chase them to a small fishing village. The boat takes some sniper fire, (or
at least Kerry says it did). Kerry orders his machine-gunner, James Wasser,
to open up a barrage. At
last a note of contrition, but not from Kerry. Wasser describes to Brinkley
how he saw that he’d killed an old man leading a water buffalo. “I’m
haunted by that old man’s face. He was just doing his daily farming,
hurting nobody. He got hit in the chest with an M-60 machinegun round. It
may have been Christmas Eve, but I was real somber after that… to see the
old man blown away sticks with you.” It turned out that Kerry’s boat had
shot up one of the few “friendly” villages, with a garrison of South
Vietnamese ARV soldiers, two of whom were wounded. Contrast
Wasser’s sad reflections with Kerry’s self-righteous account in his
diary of such salvoes, often aimed into Cambodian territory. “On occasion
we had shot towards the border when provoked by sniper or ambush, but
without fail this led to a formal reprimand by the Cambodian government and
accusations of civilian slaughters and random killings by American
‘aggressors’. I have no doubt that on occasion some innocents were hit
by bullets that were aimed in self-defense at the enemy, but of all the
cases in Vietnam that could be labeled massacres, this was certainly the
most spurious.” It’s
very striking how we never find, in any of Kerry’s diaries or letters, the
slightest expression of contrition or remorse–and Brinkley would surely
have highlighted them had Kerry ever written such words. Nor did Kerry, in
his later career as a self-promoting star of the antiwar movement, ever go
beyond generalized verbiage about accidents of war, even as many vets were
baring their souls about the horrors they had perpetrated. It’s
not that he couldn’t have summoned up for his audiences back then some
awful episodes. For example, a few weeks after the incident on the Cambodian
border Kerry’s boat was heading up the Cua Lon River toward Square bay,
when one of the crew yelled “sampan off port bow”. Kerry ordered the
machineguns to fire on the fishing boat. The sampan stopped and Kerry and
his crew boarded it. They found a woman holding an infant, and near her the
body of her young child riddled with machine gun bullets, lying face down
among bags of rice. Kerry tells Brinkley he refused to look at the dead
child, saying, “the face would stay with me for the rest of my life and it
was better not to know whether it was a smile or grimace or whether it was a
girl or boy”. Kerry’s preferred mode is the usual one. “Our orders”,
he tells Brinkley a few pages later, “were to destroy all the hooches and
sampans we could find.” As
part of Operation Sea Lords, Kerry would ferry Nung tribesmen on
assassination missions. The Nung were paid by the kill, and Kerry contrasts
them favorably to the South Vietnamese PF guardsmen, derisively terming the
latter “Cream Puffs”. On one occasion, Kerry ferried Nung to a village
where they seized an old man and forced him to act as a human mine detector,
walking ahead of them along the trail. There were no mines and the Nung
encountered no enemy. But for the old man it was a one-way trip. The Nung
slit his throat, disemboweled him and left a warning note on his body. When
Kerry was awarded his Silver Star he had it pinned on by Admiral Elmo
Zumwalt and at the ceremony had the opportunity to meet Commander Adrian
Lonsdale, the operational commander of Seas Lords. Kerry seized the chance
to criticize the conduct of the war: “It’s not that the men are afraid
or chicken to go into the rivers”, he says he told Lonsdale. “It’s not
that they’re not willing to risk their lives, or that they don’t agree
with the principle of what’s being done over here. It’s just that they
want to have a fair chance to do something that brings results and what
they’re doing now isn’t bringing them anything. If we were to have some
support, something that would guarantee that we were gaining something, but
for a country with all the power that we have, we’re making men fight in a
fashion that defies reason…. What we need, Sir, are some troops to sweep
through the areas and secure them after we leave; otherwise we’re just
going to be shot to hell after we go through, and there’ll be nothing
gained.” Yes,
this is the same Kerry who, in 2004 during the height of the Sunni uprising,
called for 40,000 more US troops to deployed to Iraq. How
He Won His Silver And Bronze Stars The
incident that won US Navy lieutenant John Kerry his Silver Star, thus
lofting him to the useful status of “war hero”, occurred on February 28,
1969. His Swift boat was ferrying US “explosives experts” and some South
Vietnamese soldiers up the Dong Cung River. After dropping them off,
Kerry’s boat came under small arms fire. Kerry turned the boat toward the
source of the shots, beached the boat and opened up at the forest with the
boat’s machine guns. By
beaching the boat Kerry was disobeying standard orders forbidding this on
the grounds that it made the craft and its crew a sitting duck. Kerry’s
motive? As crew member Michael “Duke” Medeiros explained it to Kerry’s
biographer, Douglas Brinkley, it was a matter of verifying kills. “We
never knew whether we killed any VC or not. When fired upon, he [Kerry]
wanted to beach the boat and go get the enemy.” The
boat’s machine-guns had in fact killed a Vietnamese, described as “a VC
guerilla”, and they took evidence [undescribed] from the body. The
boat continued downstream and was fired on once more, by a rocket-propelled
grenade launcher. Here’s where accounts of the event diverge markedly,
depending on the interests of the various narrators. The citation for
Kerry’s Silver Star describes the event this way: “With utter disregard
for his own safety and the enemy rockets, he again ordered a charge on the
enemy, beached his boat only ten feet from the VC rocket position, and
personally led a landing party ashore in pursuit of the enemy. Upon sweeping
the area an immediate search uncovered an enemy rest and supply area which
was destroyed. The extraordinary daring and personal courage of Lieutenant
(junior grade) KERRY in attacking the n numerically superior force in the
face of intense fire were responsible for the highly successful mission.” This
citation, issued by Admiral Elmo Zumwalt, was based on the incident report,
written by John Kerry. Missing from the Zumwalt version was a dramatic
confrontation described by Kerry 27 years later in 1996, in the heat of a
nasty re-election fight against Republican William Weld, when Kerry was
seeking a third senate term. Kerry imparted to Jonathan Carroll, writing for
the New Yorker, a story going as follows: he had faced down a Viet Cong
standing a few feet from him with a B-40 rocket launcher; “It was either
going to be him or it was going to be us”, Kerry told Carroll. “It was
that simple. I don’t know why it wasn’t us–I mean, to this day. He had
a rocket pointed right at our boat. He stood up out of that hole, and none
of us saw him until he was standing in front of us, aiming a rocket right at
us, and, for whatever reason, he didn’t pull the trigger–he turned and
ran. He was shocked to see our boat right in front him. If he’d pulled the
trigger, we’d all be dead. I just won’t talk about all of it. I don’t
and I can’t. The things that probably really turn me I’ve never told
anybody. Nobody would understand.” (He
may not have wanted to talk but he certainly liked to screen. The first time
Kerry took Hollywood star Dana Delaney to his home in the Eighties she says
his big move was showing her video clips taken of him in the Navy when he
was in Vietnam. She never went out with him again. (As he prepared to make
his grand entry to the Democratic convention in Boston, stories circulated
that Kerry had reenacted his skirmishes, filming them with an 8mm camera for
later political use.) Two
of Kerry’s crew members, Medeiros and machine-gunner Tommy Belodeau, found
no mystery in why the VC soldier didn’t fire his B-40 RPG launcher. The
Vietnamese was effectively unarmed. He hadn’t reloaded the RPGafter the
first shot at Kerry’s boat as it headed down the river. Later
that year of 1996 Belodeau described the full scope of the incident to the Boston
Globe’s David Warsh. Belodeau told Warsh that he opened with his
M-60 machine gun on the Vietnamese man at a range of ten feet after they’d
beached the boat. The machine gun bullets caught the Vietnamese in the legs,
and the wounded man crawled behind a nearby hooch. At this point, Belodeau
said, Kerry had seized an M-16 rifle, jumped out of the boat, gone up to the
man who Belodeau says was near death, and finished him off. When
the Globe published Warsh’s account of Belodeau’s
recollection, essentially accusing Kerry of a war crime, the Kerry campaign
quickly led Madeiros to the press and he described how the Vietnamese,
felled by Belodeau’s machine-gun fire, got up, grabbed the rocket launcher
and ran off down a trail through the forest and a disappeared around a bend.
As Kerry set off after him, Medeiros followed. They came round the corner to
find the Vietnamese once again pointing the RPG at them ten feet away. He
didn’t fire and Kerry shot him dead with his rifle. Circulating
around veterans’ websites in early February of 2004 was an email written
by Mike Morrison who, like Kerry, won a bronze star won in Vietnam. Morrison
who later went on to write speeches for Lee Iacocca, was highly suspicious
of Kerry’s claims to martial glory. In a letter to his brother Ed he wrote
as follows: “I’ve
long thought that John Kerry’s war record was phony. We talked about it
when you were here. It’s mainly been instinct because, as you know, nobody
who claims to have seen the action he does would so shamelessly flaunt it
for political gain. “I
was in the Delta shortly after he left. I know that area well. I know the
operations he was involved in well. I know the tactics and the doctrine
used. I know the equipment. Although I was attached to CTF-116 (PBRs) I
spent a fair amount of time with CTF-115 (swift boats), Kerry’s command. “Here
are my problems and suspicions: “(1)
Kerry was in-country less than four months and collected, a Bronze Star, a
Silver Star and three Purple Hearts. I never heard of anybody with any
outfit I worked with (including SEAL One, the Sea Wolves, Riverines and the
River Patrol Force) collecting that much hardware so fast, and for such
pedestrian actions. The Swifts did a commendable job. But that duty wasn’t
the worst you could draw. They operated only along the coast and in the
major rivers (Bassac and Mekong). The rough stuff in the hot areas was
mainly handled by the smaller, faster PBRs. Fishy. “(2)
Three Purple Hearts but no limp. All injuries so minor that no time lost
from duty. Amazing luck. Or he was putting himself in for medals every time
he bumped his head on the wheel house hatch? Combat on the boats was almost
always at close range. You didn’t have minor wounds. At least not often.
Not three times in a row. Then he used the three Purple Hearts to request a
trip home eight months before the end of his tour. Fishy. “(3)
The details of the event for which he was given the Silver Star make no
sense at all. Supposedly, a B-40 (rocket propelled grenade) was fired at the
boat and missed. Charlie jumps up with the launcher in his hand, the bow
gunner knocks him down with the twin .50 (caliber machine guns), Kerry
beaches the boat, jumps off, shoots Charlie, and retrieves the launcher. If
true, he did everything wrong. (a) Standard procedure when you took rocket
fire was to put your stern to the action and go (away) balls to the wall. A
B-40 has the ballistic integrity of a Frisbee after about 25 yards, so you
put 50 yards or so between you and the beach and begin raking it with your
.50′s. ( Did you ever see anybody get knocked down with a .50 caliber
round and get up? The guy was dead or dying. The rocket launcher was empty.
There was no reason to go after him (except if you knew he was no danger to
you–just flopping around in the dust during his last few seconds on earth,
and you wanted some derring-do in your after-action report). And we didn’t
shoot wounded people. We had rules against that, too. “Kerry
got off the boat. This was a major breach of standing procedures. Nobody on
a boat crew ever got off a boat in a hot area. EVER! The reason was simple.
If you had somebody on the beach your boat was defenseless. It couldn’t
run and it couldn’t return fire. It was stupid and it put his crew in
danger. He should have been relieved and reprimanded. I never heard of any
boat crewman ever leaving a boat during or after a firefight. “Something
is very fishy.” The
account that makes sense to me is Belodeau’s. There were three
high-powered machine guns on the boat and one Vietnamese at close range on
the land and Belodeau says his machinegun knocked him down. Even if the
Vietnamese fighter miraculously got up and started running away down that
trail, is it likely that the two would have pursued him down an unknown path
on foot. Wouldn’t be more likely that the boat would have used its
machineguns again, blazing away as on Kerry’s own account they did, day
and day and night after night? Kerry’s
Bronze Star On March 13, 1969, two weeks after the episode that yielded the
Silver Star Kerry saw his last slice of action. It got him his bronze star
and his third Purple Heart, which meant he could file a request to be
transferred out of Vietnam. Kerry
earned the bronze star by pulling another lieutenant out of the water after
the latter’s Swift boat had hit a mine. That same mine’s detonation
caused enough wake to throw Kerry against a bulkhead, bruising his arm. This
was classed as a wound, which meant the third Purple Heart. Then, amid rifle
fire, Kerry maneuvered his boat toward Lieutenant Rassman and hoisted him
onto the deck. Both
boats had been on yet another mission ferrying Green Berets, US Navy SEALs
and Nung assassins to a village. Once again they had mistakenly targeted a
friendly village, where they opened fire on South Vietnamese troops who were
interrogating a group of women and children lined up against a wall. When
the Green Berets and SEALs opened fire, the South Vietnamese soldiers jumped
the wall and at least ten of the women and children were killed. Meanwhile,
against orders, Kerry had again left his boat and attached himself to the
Nung and was, by his own words, “shooting and blowing things up”. One of
the Nung threw a grenade into a hut that turned out to be filled with sacks
of rice. Kerry got grains of rice and some bits of metal debris embedded in
his ass, the most severe wounds he sustained in Vietnam. With
three Purple Hearts, the Silver and Bronze stars, Kerry now applied for
reassignment as a personal aide to a senior officer in either Boston, New
York or Washington DC. He ended up in New York working for Admiral Walter F.
Schlech in New York. In January 1970 he applied for early discharge to run
for office. As he put it, he’d decided not to join the antiwar movement
but work within the system and try and win a seat in Congress from the Third
District in Massachusetts. Zumwalt:
“Kerry’s Record Will Haunt Him” A
former assistant secretary of defense and Fletcher School of Diplomacy
professor, W. Scott Thompson, recalled a conversation with the late Admiral
Elmo R. Zumwalt Jr. that clearly had a slightly different take on Kerry’s
recollection of their discussions: “[T]he fabled and distinguished chief
of naval operations, Admiral Elmo Zumwalt, told me –30 years ago when he
was still CNO [chief naval officer in Vietnam] that during his own command
of U.S. naval forces in Vietnam, just prior to his anointment as CNO, young
Kerry had created great problems for him and the other top brass, by killing
so many non-combatant civilians and going after other non-military targets. “We
had virtually to straitjacket him to keep him under control”, the admiral
said. “Bud” Zumwalt got it right when he assessed Kerry as having large
ambitions –but promised that his career in Vietnam would haunt him if he
were ever on the national stage.” Jeffrey
St. Clair This
essay is adapted from a chapter in Dime’s
Worth of Difference: Beyond the Lesser Evil.
Jeffrey
St. Clair
is the author of Been
Brown So Long It Looked Like Green to Me: the Politics of Nature, Grand
Theft Pentagon and Born
Under a Bad Sky. His latest book is Hopeless:
Barack Obama and the Politics of Illusion. Jeffrey
St. Clair (born
1959 in Indianapolis,
Indiana) is an investigative
journalist, writer and editor. He was the co-editor, with Alexander
Cockburn (who died in 2012), of the political newsletter CounterPunch,then
he became the editor of CounterPunch since Alexander's passing. Jeffrey was
a contributing editor to the monthly magazine In
These Times. He has also written for The
Washington Post, San
Francisco Examiner, The
Nation and The
Progressive. His reporting focuses on the politics of nature and the
military-industrial complex. St.
Clair attended the American
University in Washington,
D.C., majoring in English and history. He has worked as an
environmental organizer and writer for Friends
of the Earth, Clean
Water Action Project, and the Hoosier
Environmental Council. In
1990, he moved to Oregon to
edit the influential environmental magazine Forest
Watch. In 1994, he joined journalists Alexander Cockburn and Ken
Silverstein on CounterPunch. He co-edited CounterPunch
from 1999 to 2012 with Alexander Cockburn. From 2012 to the present, Jeffrey
is the editor-in-chief. In
1998, he published his first book, with Cockburn, Whiteout: the CIA, Drugs
and the Press, a history of the CIA's
ties to drug gangs from World
War II to the Mujahideen and Nicaraguan
Contras. This was followed by A Field Guide to Environmental Bad Guys
(with James Ridgeway),and with Alexander Cockburn, Five Days that Shook the
World: Seattle and Beyond, Al Gore: a User's Manual. Jeffrey wrote the
books, Been Brown So Long It Looked Like Green to Me: the Politics of
Nature, Grand Theft Pentagon, and Born Under a Bad Sky: Notes from the Dark
Side of the Earth. His new book,Bernie and the Sandernistas: Field Notes
from a Failed Revolution, is available in print and as an ebook. In
October 2000 just before the US presidential election, St. Clair wrote in
CounterPunch, "Is there a more palpable sign of the neo-liberals'
mounting desperation than that they are now warning progressives and
Leftists that a vote for Ralph
Nader is the surest way to elect George
W. Bush? This is a malicious game of threat of inflation, where Bush (a
pathetic moron who resembles no one so much as our greatest president, Gerald
Ford) is puffed up into Midland,
Texas' own version of Saddam
Hussein. It's a cynical ploy; yet, millions have fallen for it,
trembling out of fear." (From Wikipedia,
the free encyclopedia) |