Dối
Trá Trong Chính Trị Của Mỹ Norbert
Seitz TS.Đỗ Kim Thêm dịch |
13/6/1961: Kỷ niệm 50 năm ngày phổ
biến “Tài liệu Ngũ Giác Đài” về
chiến tranh Việt Nam Chính
Bộ Quốc pḥng Hoa Kỳ cũng đă sưu
tầm tài liệu của Ngũ Giác Đài về
việc công chúng Mỹ đă bị lừa dối trong
chiến tranh Việt Nam. Cho đến nay, việc
xuất bản các tài liệu này vẫn c̣n hậu
quả về niềm tin của người Mỹ đối
với chính trị. “Tên
tôi là Daniel Ellsberg. Năm 1969, tôi làm việc tại
Tập đoàn Rand với công việc nghiên cứu mà
sau này được biết đến là Tài liệu
Ngũ Giác Đài (Pentagon Papers), với 7.000 trang tối
mật mà Hoa Kỳ đưa ra các quyết định
về Việt Nam từ năm 1961 đến 1968."
Daniel Ellsberg với các phóng viên trước phiên
toà tại Los Angeles năm 1973, @ Photograph: AP Từ
năm 1969, Daniel Ellsberg đă được tuyển
dụng bởi Tập đoàn Rand, Tổ chức nghiên
cứu thân chính phủ. Cùng với các đồng
nghiệp, Ellsberg đă làm việc tổng hợp cho
một bộ sưu tập tối mật. Trọng tâm
vấn đề là chính sách thay đổi về
Việt Nam của chính phủ Hoa Kỳ trong hơn ba
thập kỷ. Từ tài liệu này mà một bộ sưu
tập tài liệu đồ sộ của Bộ
Quốc Pḥng, được gọi là Pentagon Papers
gồm có 47 tập với 7.000 trang, trong đó 3.000
trang mô tả về các sự kiện và 4.000 trang tài
liệu đính kèm, băng ghi âm của những người
liên quan trực tiếp cùng với các văn bản ghi
nhớ, điện tín và lệnh bằng văn bản
của họ. Tài liệu được phân tích
bởi 36 tác giả, kư chú viên ẩn danh của chính
phủ, các công chức, nhân viên giàu kinh nghiệm
thuộc Bộ Ngoại giao và Quốc pḥng, các sĩ
quan và cả trí thức. Daniel
Ellsberg đă thay đổi tâm hồn ḿnh sau chuyến
đi thăm Việt Nam đầy kinh hoàng, ban đầu
là một người ủng hộ trung thành cho chính sách
chiến tranh của Hoa Kỳ, ông thành một nhà
chống đối cực đoan. Cuối cùng, ông
đă quyết định thực hiện bất tuân dân
sự để khai sáng về những ǵ mà ông xem là
công chúng Mỹ bị lừa dối đáng xấu
hổ. “Đến
cuối năm 1969, tôi bắt đầu sao chép 7.000
trang tài liệu tối mật và đưa từng
phần một cho Ủy ban Đối ngoại Thượng
viện. Khi Lào và Campuchia cũng bị xâm lược,
tôi đă đưa các tài liệu cho nhật báo New
York Times vào năm 1971.” Nhật
báo New York Times là một phương tiện truyền
thông quan trọng, vài tuần sau khi chiến tranh bùng
nổ vào tháng 11 năm 1964, nhật báo đă đưa
ra lời cảnh báo rất sớm để chống
lại chính sách mới về Việt Nam của
Tổng thống Johnson: "Lại
có những thay đổi đang được
tiến hành ở Việt Nam. Nếu bây giờ một
chính sách được thực hiện, nếu
cuộc chiến tranh ở châu Á biến thành cuộc
chiến tranh của Mỹ, th́ đất nước chúng
ta có quyền biết đến có những ǵ
được cho là đă thay đổi cơ bản
trong những tháng gần đây, một chính sách
mới phải được biện minh.” Nhưng
cả nước không biết được tin ǵ.
Một bản Báo cáo do Robert McNamara, Bộ trưởng
Quốc pḥng Hoa Kỳ, ủy quyền, chỉ dành cho
nội bộ cơ quan sử dụng, hoặc chính xác
hơn, đó là để tuyên truyền trong nước
và lừa dối Quốc hội. Tuy nhiên, Báo cáo không
thuộc phạm vi của Đạo luật Gián điệp,
v́ nó không chứa bất kỳ một bí mật quân
sự nào. McNamara dường như không nhận ra
điều đó. Torben
Lütjen, Giáo sư Khoa học Chính trị tại Đại
học Kiel (Đức), coi đây là một đánh giá
sai lầm gây nhiều hậu quả tai hại của
vị cựu Bộ trưởng Quốc pḥng: "McNamara
tin rằng v́ bằng cách nào đó người ta có
thể xác định cách hoạch định chính sách.
Đó là mục đích của các tài liệu này, nó
không dành cho công chúng, nhưng bằng cách nào đó cho
trong nội bộ. Về sau khi nh́n lại, người
ta phải nói rằng, nếu người ta đă
biết cuộc chiến diễn ra như thế nào và
phải tiên đoán các diễn biến th́ tất
cả mọi chuyện rồi cũng sẽ đến
với công chúng bằng cách nào đó, có lẽ đó
không phải là một ư tưởng khôn ngoan để
giao cho giới chuyên môn này được thực
hiện.” Dối
trá về chiến tranh Việt Nam bùng nổ Ngay
khi bắt đầu công việc tại Ngũ Giác
Đài, Daniel Ellsberg biết được rằng tuyên
bố của Lyndon B. Johnson, người kế nhiệm
cho Kennedy, về sự bùng nổ của chiến tranh
Việt Nam chỉ là một lời nói dối: Không có
cuộc tấn công nào của các tàu tuần tra Bắc
Việt vào chiến hạm Mỹ ở Biển Đông
gần Vịnh Bắc Bộ. Tài
liệu của Ngũ Giác Đài cũng ghi nhận,
trong nhiều bối cảnh khác, hầu như là toàn
bộ chính sách về Việt Nam dựa trên sự
tự lừa dối và lừa dối. Với các tuyên
bố được dàn dựng có chủ ư, công chúng
đă bị lừa dối, ví dụ như ngụy
tạo về số lượng các binh sĩ Mỹ tham
chiến, các nạn nhân bị tổn thương
hoặc mức chính xác gây hậu quả cho đối
phương. Ban đầu việc “khoảng trống
về mức độ khả tín” dể nhận ra,
do đó, về sau nó trở thành một vực
thẳm khổng lồ. Bernd Greiner, Giám đốc Sáng
lập "Kolleg Kalter Krieg" ở Berlin và là tác
giả viết về tiểu sử của Henry Kissinger
xác nhận: "Các
tài liệu Ngũ Giác Đài là một mối liên
kết trong toàn bộ chuỗi hành động, các
biến cố, nó đă làm cho niềm tin nơi chính
phủ, tổng thống và đôi khi nơi hệ
thống chính trị và các định chế bị
lung lay nghiêm trọng. Rơ ràng là bắt đầu
với tài liệu Ngũ Giác Đài về Watergate,
về tất cả các vụ bê bối khác liên quan
đến chiến tranh Việt Nam, nhiều chính
phủ kể từ thời Harry Truman đă nói dối
công chúng về các vấn đề cơ bản trong
chính sách an ninh và đối ngoại.
Nhưng
làm thế nào Đông Nam Á, với những ǵ Henry
Kissinger luôn nói, một "cường quốc đứng
vào hàng thứ tư nhỏ bé" như Việt Nam
trở thành khu vực định mệnh của
Mỹ? Bernd
Greiner, chuyên gia về Mỹ, cho là: “Bởi
v́ Hoa Kỳ, trong sự tự tôn của đế
quốc, có ư kiến rằng, họ có thể thực
thi quan niệm của riêng ḿnh ở đó về
trật tự chính trị chống lại ư muốn rơ
ràng của đa số dân chúng. Thứ hai, bởi v́
họ quan niệm rằng họ có thể giành
chiến thắng trong một cuộc chiến tranh du kích
với một lực lượng quy ước, tức
là Quân đội Mỹ, hoạt động theo một
logic hoàn toàn khác. Và trong cả hai điều kiện,
hoàn toàn rơ ràng là nỗ lực này phải kết thúc
trong thảm họa. Tuy nhiên, người ta thấy
chỉ đúng sau 15 năm, vấn đề mới
trở thành thảm họa và rút ra những hậu
quả tương xứng. Bài
tiểu luận mở đường của Hannah
Arendts Vào
thời điểm đó, nhà triết học chính
trị Hannah Arendt cũng phân tích sâu rộng rằng
lợi ích của Hoa Kỳ trong một chiến
thắng quân sự không thể hướng tới
việc thắng lợi về lănh thổ hoặc
lợi thế về kinh tế, thậm chí viện
trợ hoặc hoàn thành một lời cam kết cho
một "người bạn" ở miền Nam
Việt Nam không theo cộng sản. Và "kẻ thù"
Cộng sản Bắc Việt th́ sao? Theo ư của
Arendt, "họ không có ư muốn cũng như sức
mạnh để là kẻ thù của Hoa Kỳ". Trong
bài tiểu luận "Sự thật và dối trá
trong chính trị", bà xác định rằng tài
liệu Ngũ Giác Đài không phải là về
việc phổ biến các lỗi lầm, ảo tưởng
hoặc tính toán sai lạc, mà là về che giấu không
đúng sự thật và dối trá có ư thức. Cái
gọi là "các người giải quyết vấn
đề" thuộc các cơ quan nghiên cứu đă
chiếm ưu thế trong các khảo hướng
"về các vấn đề" của chính sách
đối ngoại khi ho dựa theo các lư thuyết tṛ
chơi và phân tích hệ thống. Hannah
Arendt nói: "Cứu cánh không phải là quyền
lực hay quyền lợi. Mục tiêu mà mọi người
đều nghĩ đến là các h́nh ảnh tự
tại. Khi mọi thứ chỉ ra sự thất
bại, mục tiêu không c̣n là để tránh thất
bại nhục nhă, mà là t́m cách và phương
tiện để tránh thừa nhận và 'giử
thể diện'. Nuôi dưỡng h́nh ảnh như là
vấn đề chính trị thế giới, không
phải là chuyện chinh phục thế giới, mà là
chiến thắng trong cuộc chiến về quảng cáo
cho ư kiến của thế giới." Tài
liệu Ngũ Giác Đài cũng nói rơ các chính sách
Mỹ đă bỏ qua các báo cáo của CIA, cơ quan thông
thạo tin t́nh báo của họ như thế nào. Ví
dụ, ở Đông Nam Á, người ta đă xem thường
lư thuyết Domino về ảnh hưởng lan toả
trong khu vực của chủ nghĩa cộng sản
đối với các quốc gia láng giềng, cho là
đă lỗi thời. Tương tự như vậy,
sự đối kháng mới nổi giữa Trung
Quốc và Liên Xô đă bị che đậy với
giả định lệch lạc về chủ nghĩa
cộng sản thế giới c̣n như trong "nguyên
khối" và do đó là đánh giá sai. Mối quan
hệ phức tạp giữa các nước láng
giềng Đông Nam Á và Trung Quốc, cách đơn
giản là bỏ qua. Những
dối trá và che đậy trong chính trị của
Napoleon Bonaparte cho đến quá khứ gần đây
với Trump và Putin là chủ đề nghiên
cứu mới được công bố của Helmut König,
nhà sử học ở Aachen (Đức). Tiếp theo sau
bài tiểu luận nổi tiếng của Hannah Arendt, König
lưu ư rằng những lừa dối được
ghi lại trong tài liệu Ngũ Giác Đài không c̣n
nằm trong bảng kê thông thường của một
"chiến lược hợp lư", thường th́
chiến tranh kết thúc bằng cách chiến thắng
nhanh chóng. Nhưng trong chiến tranh Việt Nam, mọi
thứ diễn ra khác đi. "Ở
đó, chúng ta có hiện tượng là các kẻ gian
dối xây dựng các bóng ma trong thời gian dài, họ
có liên quan đến thực tế của sự
thật, quan hệ quyền lực liên quan đến
Trung Quốc và chủ nghĩa cộng sản và vấn
đề mức độ ảnh hưởng ngoại
lai đứng đằng sau cuộc nổi dậy
ở Việt Nam, nói cách khác, họ chưa nhận
thức phù hợp đến thực tế này. Và
điều gây khó chịu là, các giới chức t́nh báo
biết điều này và họ cũng chuyển
tiếp thông tin liên quan cho các giới t́nh báo khác. Trong
một thế giới đă riêng của những
người giải quyết vấn đề và
tạo ra các h́nh ảnh, các tác nhân này đă thiên
vị đến độ là họ không c̣n nhận
thức ra được thực tế nữa." Nỗi
lo sợ của Nixon trước các tài liệu mật
tiếp theo Sau
khi New York Times xuất bản được ba phần
trong tài liệu Ngũ Giác Đài, ngày 15 tháng 6 năm
1971, chính quyền Nixon đă thành công trong việc ngăn
chặn việc in thêm theo lệnh của ṭa án. Tuy nhiên,
Ṭa án Tối cao đă quyết định vào ngày 30 tháng
6 năm 1971 với tỷ lệ số phiếu là 6:3,
cho phép công bố thêm các tài liệu. Nhưng tại
sao vụ việc này lại gây ấn tượng
mạnh cho Tổng thống Nixon, mặc dù tài liệu này
chủ yếu đề cập đến chính sách sai
lầm về Việt Nam của hai người tiền
nhiệm là Kennedy và Johnson? Torben
Lütjen cho biết thêm: "Đối với Nixon, sẽ
có lựa chọn chiến lược, điều này
thực sự cho thấy là các chính phủ khác đă
thất bại như thế nào. Chúng ta đang cải
thiện. Nhưng tôi nghĩ bởi v́ thực ra
sự hoang tưởng của Nixon và chiến dịch
chống lại giới truyền thông đă bắt
đầu rất sớm. Đó là khung cảnh mà Nixon
đă nh́n thấy tất cả theo cách này, tất nhiên
cũng chống lại cá nhân Ellsberg như một
kẻ tiết lộ bí mật. Những
tài liệu Ngũ Giác Đài chỉ liên quan đến
chính quyền Kennedy và Johnson. Và một số cố
vấn của Nixon - trước hết là vị Tham mưu
trưởng của Nixon, Haldeman - đă nói: 'Chúng ta có
thể ngủ yên, những người khác lo âu, chúng
ta đang ở một vị thế tốt đẹp.
Đây là cuộc chiến của họ và không
phải là của chúng ta.'" Nhưng
Nixon lại có một nỗi sợ hăi khác. "Ông
tin rằng những người đặc biệt như
là Daniel Ellsberg, người đă ṛ rỉ các tài
liệu Ngũ Giác Đài giao cho New York Times, tin rằng
ông vẫn có thể sở hữu các tài liệu khác
buộc tội chính quyền Nixon. Và nỗi ám ảnh
cố định của Nixon gia tăng, đó là
Ellsberg hoặc các đồng sự có thể có tài
liệu về cách Nixon cố gắng ngăn chặn các
cuộc đàm phán ḥa b́nh với Bắc Việt trong
chiến dịch tranh cử năm 1968, và cách ông
muốn sử dụng để gây áp lực buộc
Tổng thống Johnson không đạt được
thỏa thuận ngừng bắn trước cuộc
bầu cử tháng 11 năm 1968." Hơn
nữa, Nixon sợ rằng một cái ǵ đó khác
sẽ được đưa ra ánh sáng, cụ
thể là vụ ném bom bí mật tại Campuchia. Ông
đă ra lệnh ném bom, nhưng che giấu báo chí, và
trong một số trường hợp, ngay trong nội các
của chính ḿnh. Bernd
Greiner cho biết: "V́ vậy, Nixon cũng tin rằng
Daniel Ellsberg và những người khác cũng có
thể công bố tài liệu này tại một số
thời điểm trong tương lai gần. Bất
cứ ai đưa ra tài liệu Ngũ Giác Đài cho công
chúng cũng có khả năng thực hiện được
bước thứ hai. Điều đó sẽ khiến
Nixon dễ bị tổn thương." Đó
là lư do tại sao Nixon dựa vào những người
được gọi là "thợ sửa ống nước",
họ phải đảm bảo chận các lỗ
hổng trong bộ máy chính phủ để bảo
mật và không để bất kỳ tài liệu nào
khác thoát ra được thế giới bên ngoài. Khi
đội đặc công can thiệp bí mật này
được tuyển dụng, những người
trộm trong văn pḥng bầu cử của Đảng
Dân chủ, được cho là người kích
hoạt cho vụ Watergate. Richard
Nixon cảm thấy ḿnh đă đạt đến
mức không thoái lui được, như về sau các
băng ghi âm của Toà Bạch Ốc công bố có ghi
chép: "Tôi
không quan tâm vấn đề được thực
hiện như thế nào, nhưng hăy làm những ǵ
cần phải làm để lấp cho các chổ
hở ṛ rỉ. Nixon ngăn chặn việc tiếp
tục công bố các tài liệu trái phép. Tôi không
muốn nghe tại sao việc đó là không thể. Chính
phủ không thể tồn tại, không thể hoạt
động nếu tất cả mỗi người
muốn làm và có thể tiết lộ tài liệu, như
họ có thể nghĩ ra. Tôi không muốn bào chữa,
tôi muốn kết quả. Tôi muốn nó được
thực hiện bằng bất cứ giá nào." "Vào
thời điểm đó, người ta cố t́m cách
thâm nhập vào văn pḥng bác sĩ tâm lư trị
liệu của Daniel Ellsberg để lấy hồ sơ
bịnh lư, để có thể chống phá Ellsberg trong
công luận. Nhưng tôi cũng cho rằng tất
cả sự vô đạo đức của chính
phủ và cả vụ Watergate có thể đă xảy
ra mà không cần có vụ tài liệu Ngũ Giác Đài." Bất
chấp hậu quả tai hại của tài liệu Ngũ
Giác Đài, chiến tranh Việt Nam đă có thể kéo
dài thêm một năm rưỡi nữa cho đến
khi cái gọi là "Hiệp định chấm dứt
chiến tranh và tái lập ḥa b́nh ở Việt Nam"
được kư kết tại Paris vào ngày 27 tháng 1 năm
1973. Cuối
cùng, Bắc Việt đă quyết định chiến
đấu bằng cách quân sự có lợi cho họ,
không phải chính quyền Nixon với các vụ đánh
bom lan rộng tàn khốc và các cuộc tấn công
tội phạm trong nước. Hoàn toàn bị ràng
buộc trong vụ Watergate, bị Quốc hội kết
án và chạy thoát trước khi có thủ tục
truất phế, Richard Milhous Nixon, hay như người
ta c̣n gọi ông là "Tricky Dick”, đă từ
chức Tổng thống thứ 37 của Hoa Kỳ vào
ngày 8 tháng 8 năm 1974. "Chào
buổi tối. Tôi sẽ từ chức Tổng
thống Hoa Kỳ vào ngày mai." Các
vụ bê bối về tài liệu Ngũ Giác Đài và
sự thâm nhập vào Watergate đă gây ra hậu
quả đáng kể cho mối quan hệ trong tương
lai giữa nhà nước, chính trị và truyền thông.
Họ đă gây ra một cuộc khủng hoảng uy tín
mà từ đó cho đến ngày nay đất nước
chưa thực sự phục hồi. Bernd
Greiner, nhà viết tiểu sử Kissinger nói: "Kể
từ đó, niềm tin vào các định chế đă
rơi tự do. trong tất cả các cuộc thăm ḍ
dư luận, tổ chức duy nhất vẫn
được xếp loại đáng được
tin cậy cao độ là quân đội. Sự ngờ
vực này không c̣n dừng lại ở Ṭa án Tối
cao." Một
chính phủ trong một nền dân chủ tự do
lừa dối cử tri và quốc hội một cách có
hệ thống, đó không c̣n là một cảm giác
thời sự. Chuyện đáng tiếc là, trong
thời đại đầy tin tức giả mạo,
điều này có vẻ gần như thuộc về t́nh
trạng b́nh thường. Jessica Gienow-Hecht, một nhà
sử học tại Viện Nghiên cứu Bắc Mỹ
John F. Kennedy tại Freie Universität Berlin, đồng ư: Chúng
ta cũng đă quen với nhiều thứ ở Hoa
Kỳ, các vấn đề rùng ben, gian lận bầu
cử, Watergate, Iran-Contra, Monika Lewinsky, v.v. Năm 1971, cơ
quan hành pháp, tức là cơ quan của tổng
thống, vẫn được coi là một cơ quan
liêm chính, có nghĩa là tổng thống là những người
về mặt đạo đức trung thực hơn
người Mỹ trung b́nh và do đó cũng là người
truyền cảm hứng cho dân chúng.” Trong
thế kỷ 20, Phủ Tổng thống Hoa Kỳ đă
rơi vào t́nh trạng căng thẳng. Các kỳ
vọng đạo đức của công chúng là
rất cao, nhưng mặt khác, dường như
những yêu cầu này không thể đáp ứng
một cách thẳng thắn về mặt đạo
đức mà không có t́m cách lừa dối quốc
hội và dân chúng. "Theo
ư nghĩa này, ngay cả trong năm 1971 không phải là
một bước ngoặt, một chuyển điểm.
Nhưng dưới áp lực của một t́nh
huống dù sao cũng đă nóng, đó là điểm mà
sự căng thẳng này trở nên khá rơ ràng. Và nó
trắng trợn đến nỗi mà sự đồng
thuận trong Phủ Tổng thống gần như tan
vỡ. V́ vậy, tài liệu Ngũ Giác Đài trong năm
1971, việc công bố cùng với vụ bê bối
Watergate, thực sự làm thu hẹp và biểu tượng
của chúng không c̣n có thể nào hơn thế
được. Bởi v́ nó đánh dấu thời
điểm mà công chúng Mỹ nhận ra rằng
tổng thống của họ không phải là người
tốt cũng không phải là người vô tội, cũng
không phải là một dân tộc vô tội. Nhưng
tài liệu Ngũ Giác Đài đă chạm tới
một khía cạnh có hậu quả quan trọng khác.
Daniel Ellsberg, người được tha bổng vào
tháng 5 năm 1973, đă dẫn đến câu chuyện
điều tra về việc những người trong
cuộc xé rào tố cáo, nó đă dẫn đến
những tiết lộ giật gân hơn nữa về
vụ WikiLeaks của Julian Assange và các ấn phẩm
của Edward Snowden. Những người "tiết
lộ tin ṛ rĩ" không c̣n được coi là
kẻ phản quốc, mà là những người khai sáng
đáng nghênh đón. Hành vi can đảm của Daniel
Ellsberg trong các việc này là mẫu mực.
Ellsberg,h́nh mới nhất @ Alberto E Rodríguez/Getty
Images "Ellsberg
là một nhà báo điều tra rất tài năng và can
đảm, h́nh ảnh của một phóng viên khách quan
và không thân chính quyền. Việc làm này gây ấn tượng
lâu dài và truyền nhiều cảm hứng. Ngày nay, có
nhiều giải thưởng dành cho thể loại báo
chí điều tra ở Mỹ tôn vinh ông. Đây là
về sự tự tin của một Đệ Tứ
Quyền trong nhà nước, một h́nh ảnh nghề
nghiệp có liên quan nhiều đến công việc
trinh thám, khai sáng và thậm chí với một cơ quan
giám sát. |