Mặt
trận tư pháp Đinh Từ Thức
|
Kiềng
ba chân Người
Việt có câu nói từ xưa: “vững như kiềng
ba chân.” Nền dân chủ Mỹ đứng
vững trên hai thế kỷ, là nhờ ba chân: Hành pháp,
Lập pháp, và Tư pháp. Ba chân đứng riêng, nhưng
liên hệ mật thiết với nhau. Nếu một chân
què, kiềng sụp. Hễ có liên hệ, là có dị
đồng. Ai cũng muốn đồng, chẳng ai
muốn dị, khiến chuyện xung đột, tranh dành
ảnh hưởng diễn ra liên tục. Mặt
trận hành pháp và lập pháp thường sôi nổi
trong các cuộc đua chính bốn năm một
lần, và cuộc đua phụ giữa kỳ. Mặt
trận tư pháp thường ít sôi nổi hơn, và
diễn ra bất kỳ lúc nào có chỗ trống. Đặc
biệt năm 2020, cả ba mặt trận sôi động
cùng thời gian, gây t́nh trạng gần như nghẹt
thở; và trên hai trăm ngàn người đă
thực sự hết thở, một phần, cũng do
vạ lây từ t́nh trạng đặc biệt này. Bài
này chỉ nói về mặt trận Tư Pháp. Thẩm
phán Amy Barrett, trong một buổi nói chuyện tại
The Federalist Society, một trong những nguồn cung
cấp dự tuyển cho Trump Hiến
Pháp Mỹ là bộ luật tối cao, quy định
việc thành lập cả ba ngành Lập Pháp, Hành Pháp,
và Tư Pháp. Ngành Tư Pháp được quy định
bởi điều III, gồm các toà án liên bang ở ba
cấp. Đứng
đầu là Tối Cao Pháp Viện (TCPV) – US Supreme
Court. Thấp hơn là các toà phúc thẩm vùng (Circuit
Courts of Appeals). Thấp nhất là các toà xử án
cấp quận (District Courts). Các thẩm phán được
quy định bởi điều III Hiến Pháp đều
do tổng thống đề cử, với sự
chấp thuận của thượng viện, nên các
thẩm phán liên bang đều được gọi
chung là Thẩm Phán Điều
3 – The Article 3 Judges. Điều này
chỉ nói về quyền hạn của Toà Tối Cao,
c̣n về nhân sự và cách tổ chức, cũng như
các toà cấp dưới, dành cho Quốc hội quy
định bằng đạo luật. Quốc
Hội Khoá 1 đă thông qua Đạo Luật Tư Pháp
1789 (Judiciary Act of 1789), có tên chính thức là “An Act to Establish the Judicial Courts of the United States” (Đạo
Luật thiết lập các Toà Án Tư Pháp của Hoa
Kỳ), do Tổng Thống George Washington kư ban hành. Tuy
đă có nhiều thay đổi trong hơn hai thế
kỷ qua, nhưng nét chính vẫn c̣n tồn tại
đến nay. (Bài
này không đề cập tới 4 toà án liên bang chuyên
biệt, như toà khiếu nại – Court of Claims; toà phúc
thẩm về cư trú và bằng sáng chế – Court of
Customs and Patent Appeals; toà thương mại quốc
tế – Court of International Trade; và toà thuế vụ –
Tax Court. Ở đây cũng không đề cập
tới hệ thống tư pháp tiểu bang). Theo
đạo luật trên, TCPV có 6 Thẩm Phán Tối Cao
(TPTC – Justice), gồm 1 Chủ Tịch (Chief Justice) và 5
Thẩm Phán Cộng Sự (Associate Justice). Trong 70 năm
đầu, con số TPTC đă thay đổi 6 lần:
1790: 6; 1807: 7; 1837: 9, 1863: 10; 1866: 7; 1869: 9. Năm 1937,
bất măn v́ nhiều dự án của ḿnh bị TCPV
phủ nhận, Tổng Thống Roosevelt đă đề
nghị Quốc Hội làm luật quy định
lại thành phần Thẩm Phán TCPV, nâng con số 9 lên
mức tối đa là 15. Theo đó, mỗi khi có
một TPTC đă tại chức 10 năm, và đạt
mức 70 tuổi rưỡi, mà không về hưu,
tổng thống được đề cử thêm
một TPTC, cho đến mức tối đa là 15.
Dự định này đă không được
Quốc Hội chấp thuận. Con
số 9 từ năm 1869 đă không thay đổi cho
đến nay. Và đang có dư
luận bàn tán, tuỳ theo kết quả cuộc
bầu cử 2020, con số này có thể được
thay đổi. Trong
cuộc tranh luận duy nhất giữa hai ứng cử
viên phó tổng thống Mike Pence (Cộng Hoà) và Kamala
Harris (Dân Chủ) vào tối 7 tháng 10, 2020, bị hỏi
nếu đắc cử, phía Dân Chủ có định
tăng thêm TPTC không, bà Harris đă tánh né, không trả
lời câu hỏi này, nói sang chuyện khác. Trong
cuộc tranh luận cuối cùng giữa hai ứng
cử viên tổng thống Trump và Biden tối 22 tháng
10, khi được hỏi về chủ trương
thay đổi thành phần TCPV, ông Biden đă nói rơ,
nếu đắc cử, ông sẽ triệu tập
một uỷ ban quốc gia, gồm các học giả
về hiến pháp từ cả hai đảng, họp
lại, nghiên cứu trong thời gian 180 ngày, sau đó
cho đề nghị sửa đổi hệ thống tư
pháp. Từ
buổi đầu lập quốc, các nhà soạn
thảo Hiến Pháp đă nh́n rơ thế đứng
của cái kiềng ba chân. Kiềng chỉ đứng
vững, khi ba chân gắn bó với nhau, nhưng mỗi
chân phải ở vị thế chống đỡ riêng.
Bất cứ hai chân nào chập một, sẽ thành
kiềng hai chân, vô dụng. V́ thế, Hiến Pháp
đă quy định cách lựa chọn nhân sự cho
ba ngành khác nhau, để có thể vừa hợp tác,
vừa kiểm soát lẫn nhau. Hành Pháp và Lập Pháp
do dân bầu, với nhiệm kỳ ngắn hạn; hai,
bốn, hay sáu năm. Thẩm phán
liên bang do tổng thống đề cử và thượng
viện chuẩn thuận, có thể tại chức
suốt đời, và không bao giờ bị giảm lương,
nhằm mục đích bảo đảm vị thế
độc lập và quyết định vô tư
của các TP. Nhưng điều này
không c̣n tồn tại, khi tổng thống và thượng
viện cấu kết với nhau, coi quyền lợi
đảng phái quan trọng hơn quyền lợi chung.
V́ thế, phát sinh nhu cầu cải tổ ngành tư pháp. Đất
của t́nh nhân vốn là đất cấm Mildred
và Richard Loving, 1965. Hai người thành hôn tại
Washington DC. Nhưng bị bắt bỏ tù khi về
sống tại Virginia (H́nh AP) Khi
gia đ́nh người viết tới cư ngụ
ở tiểu bang Virginia vào mùa hè 1975, một trong
những điều gây chú ư đầu tiên, nơi
đây đă có một khẩu hiệu nổi bật,
rất hấp dẫn: “VIRGINIA dành cho NGƯỜI YÊU”
(VIRGINIA is for Lovers). Cũng
có thể dịch là Virginia, đất của những
người yêu nhau, của các t́nh nhân…, Nhưng
chỉ tám năm trước đó, nếu những người
yêu nhau khác chủng tộc; một người da
trắng và một người da mầu; cả hai đều
bị bắt bỏ tù. Khẩu
hiệu trên đă được chính thức xử
dụng từ 1969, và đă được bầu là
khẩu hiệu hấp dẫn du lịch tiêu biểu
nhất trong nửa thế kỷ qua. Từ
năm 1967,
những người khác chủng tộc có thể yêu
nhau và kết hôn ở Virginia, và
từ ngày 6 tháng 10, 2014, ngay cả những người
cùng phái tính (same sex) cũng có thể yêu nhau và lấy
nhau ở đây. Nhắc
lại một vài sự kiện trong quá khứ rất
gần, có thể kiểm chứng dễ dàng, để
chứng tỏ, xă hội thay đổi không ngừng,
và luật pháp quy định sinh hoạt xă hội cũng
phải thay đổi. Nói cho dễ hiểu, khi cơ
thể một đứa trẻ lớn lên, quần áo
che thân nó đương nhiên phải thay đổi kích
thước. Những
thay đổi trong xă hội diễn ra một cách
tự nhiên, là một tiến tŕnh do ảnh hưởng
từ nhiều phía. Nhưng tạo ra luật pháp phù
hợp với sự thay đổi của xă hội, không
phải chuyện dễ. Đó là kết quả từ
những cố gắng không ngừng của mọi người
trong xă hội, từ người dân thường
tới giới trí thức, và giới hoạt động
chính trị, cả đang cầm quyền, hay đối
lập. Ở một nước độc tài và đảng
trị, luật trong tay kẻ cầm quyền, muốn
trị dân thế nào, cứ việc làm luật theo ư ḿnh;
nếu có thăm ḍ ư dân, chỉ là qua h́nh thức
lấy lệ. Nếu dân bất b́nh, chống đối,
là phạm luật, bị trừng phạt theo luật.
V́ thế, tranh đấu trên mặt trận tư pháp
ở một nước độc tài, rất khó đạt
kết quả; đ̣i thay đổi luật, bị
đồng hoá với chống lại pháp luật. Tại
các xă hội dân chủ có truyền thống thượng
tôn pháp luật, tranh đấu trên mặt trận pháp
luật, tuy không diễn ra ồn ào và gây nhiều
thiệt hại, nhưng có thể đem lại
những thành quả vô cùng lớn lao. Bởi v́, dù
tranh đấu bằng cách nào, trên mặt trận nào,
cuối cùng, được hay thua, đều quy về
một mối, do pháp luật quy định. Các nhân
vật lừng danh như Mục Sư Martin Luther King Jr.,
Dân biểu John Lewis, hay bà Rosa Park, đă bắt đầu
cuộc tranh đấu từ mặt trận đường
phố, rất vất vả khó nhọc, bị đánh
đập, vào tù ra khám nhiều lần, có khi bị ám
sát như MS King, cuối cùng, kết qủa tranh đấu
của họ được thể hiện qua các đạo
luật dân quyền, Civil Rights Act 1964, thời Tổng
Thống Johnson. Trong khi ấy, nhà tranh đấu nhân
quyền như Luật Sư Thurgood Marshall, tranh đấu
nữ quyền như Luật Sư Ruth Ginsburg, không dùng
mặt trận đường phố, mà dùng mặt
trận pháp luật. Họ không tranh đấu từ
ngọn, mà tranh đấu từ gốc, cũng đạt
được những kết quả to lớn. Trở
lại câu truyện t́nh yêu ở Virginia. Từ chỗ
da mầu không được lấy da trắng, đến
chỗ chẳng những khác chủng tộc, mà cùng phái
tính có thể kết hôn, là một bước khá dài;
một thay đổi đảo ngược. Thay đổi
này có được, là kết quả tranh đấu
trên mặt trận tư pháp. Lovings
khổ v́ yêu Tại
Thủ Đô Washington D.C., người khác chủng
tộc có thể kết hôn hợp pháp từ ngày 4 tháng
11, 1874. Nhưng tại Virginia, điều này vẫn
bị cấm cho đến gần một thế kỷ
sau, do quy định bởi luật Racial
Integrity Act 1924. Đạo
luật này quy định, dù chỉ mang một giọt
máu của tổ tiên da mầu trong huyết thống, dù
thuộc ḍng dơi ba bốn đời, da mầu đă
bạc mầu thành da trắng, cũng vẫn bị
liệt kê thuộc thành phần da mầu. Thành phần
này phải khai báo, mang giấy chứng nhận
chủng tộc. Khi kết hôn, phải xuất tŕnh
giấy chứng nhận này, mới được
cấp giấy giá thú hợp lệ. Cho
đến năm 1967, c̣n tới 16 tiểu bang, hầu
hết ở phía Nam, vẫn duy tŕ luật cấm hôn nhân
dị chủng. Bản tin chính thức về luật mới của Virginia “Bảo tồn Giá trị Chủng tộc” (H́nh Francisco Macias) Năm
1958, anh Richard Loving, 23 tuổi, thợ xây, và cô Mildred
Jeter, 17 tuổi, cả hai cùng
ở Quận Caroline, Virginia. Họ yêu nhau, nhưng không
thể lấy nhau ở đây, v́ anh da trắng,
chị da mầu. Họ vào D.C. để kết hôn ngày
2 tháng 6, 1958, rồi trở về sống ở Virginia.
Năm tuần sau, cặp vợ chồng mới đang
ngủ trên giường, bị cảnh sát đột
nhập pḥng ngủ, lúc 2 giờ sáng, ngày 11 tháng 7,
1958, rọi đèn pin vào mặt Richard, hỏi, người
phụ nữ đang ngủ với anh, là ai? Mildred đáp
“tôi là vợ của anh ấy”, đồng thời,
tay chỉ lên giấy giá thú treo trên tường.
Cảnh sát bảo chuyện này không được công
nhận, ở đây. Cả hai cùng bị bắt. Hai
vợ chồng Lovings ra toà ngày 6 tháng 1, 1959, nhận
tội đă vi phạm luật cấm hôn nhân dị
chủng (antimiscegenation) của VA. Họ bị xử
phạt mỗi người một năm tù. Để
được hưởng án treo, cả hai phải ra
khỏi Virginia ngay, và không được cùng nhau, hay cùng
lúc trở lại, trong thời gian 25 năm. Hai người
sống tại Washington D.C., nhưng họ hàng, bạn bè
vẫn sống tại Virginia. Với
cặp Richard và Mildred Loving, sông Potomac, biên giới
giữa Washington D.C. và Virginia, bỗng trở thành sông
Bến Hải của Việt Nam cùng thời.
Chỉ v́ t́nh yêu đôi lứa mà phải xa cách
họ hàng, bạn hữu. Ngày
6-11, 1963, cặp Lovings nạp đơn tại toà
tiểu bang, thỉnh cầu huỷ bản án, và bỏ
qua vụ xử, v́ lư do bản án xử họ phạm
Tu Chính Hiến Pháp 14. Gần một năm sau vẫn không
được trả lời, ngày 28-10, 1964, với
sự giúp đỡ của Liên Đoàn Tự Do Dân
Sự Mỹ (American Civil Liberties Union – ACLU), hai luật
sư t́nh nguyện là Bernard Cohen, và Philip Hirschkop đă
đại diện vợ chồng Lovings, nộp
đơn kiện tại toà liên bang, United States District
Court for the Eastern District of Virginia, yêu cầu một phiên
xử gồm nhiều thẩm phán, tuyên bố rằng
qua bản án xử phạt họ, Virginia đă trái
hiến pháp, và ra lệnh cho các viên chức chính
quyền chấm dứt buộc họ thi hành bản án. Ngày
22 tháng 1, 1965, vị thẩm phán tại toà tiểu bang
ở Caroline County là Leon M. Bazile, ra quyết định
không chấp nhận yêu cầu huỷ bản án và
vụ xử trước. Trong phán quyết này, sau khi
liệt kê án lệ cấm hôn nhân dị chủng, và
những cuộc hôn nhân như vậy tuyệt đối
phải huỷ bỏ, Thẩm Phán Bazile đă lập
lại quan điểm của ông trong vụ xử trước,
có đoạn viết rằng: “Thiên
Chúa Toàn Năng đă tạo ra các chủng tộc
trắng, đen, vàng, mă lai và đỏ, và ngài đă
đặt họ tại những lục địa khác
nhau. Và để khỏi can thiệp vào sự xếp
đặt của ngài, sẽ không có lư do cho những
cuộc hôn nhân [dị chủng] như vậy. Sự
kiện ngài phân biệt các chủng tộc chứng
tỏ ngài đă không có ư định pha trộn [ṇi
giống]” (“Almighty
God created the races white, black, yellow, malay and red, and he placed
them on separate continents. And but for the interference with his
arrangement there would be no cause for such marriages. The fact that he
separated the races shows that he did not intend for the races to mix.” (Trích
Quan điểm của thẩm Phán Leon M. Bazile – Jan. 22,
1965. Ghi chép từ bản chính, theo encyclopediavirginia.org)) Ba
tuần sau, ngày 11 tháng 2, 1965, trong một phiên xử
“en banc” (phiên xử quan
trọng, gồm nhiều thẩm phán thay v́ một người
— thường là 3 người)
ba thẩm phán toà liên bang (District Court) cho phép vụ án
được thượng tố lên TCPV tiểu bang.
Tại đây, Thẩm Phán Harry Carico, đại
diện Toà, viết quan điểm, dựa vào án
lệ từ 1883, giữ nguyên phán quyết của toà dưới,
với lư do cả hai người trong nội vụ
đều bị phạt như nhau, như vậy, không
có chuyện kỳ thị, không phạm Tu Chính 14. Tuy nhiên,
Toà nhận thấy phán quyết của toà dưới
có phần không rơ ràng, phải huỷ bỏ, và
truyền Toà Án Quận xử lại. ACLU
vẫn hỗ trợ việc thượng tố lên
Tối Cao Pháp Viện Liên Bang. Cặp Lovings không có
mặt vào hôm Toà nghe luận trạng (brief), nhưng
luật sư đại điện đă tŕnh bầy
trước Toà nguyên văn lời nhắn của
Richard Loving: “Ông Cohen, hăy tŕnh với Toà rằng tôi yêu
vợ tôi, và thật bất công về việc tôi không
thể sống với nàng tại Virginia” (Mr. Cohen, tell
the Court I love my wife, and it is unfair that I can’t live with her in
Virginia”). T́nh
yêu thắng lớn Ngày
12 tháng 6, 1967, TCPV ra phán quyết với tỉ lệ
9-0, toàn thể đồng ư lật ngược bản
án đă phạt vợ chồng Lovings v́ lư do hôn nhân
dị chủng. Đồng
thời, cũng bỏ tất cả các luật lệ
cấm hôn nhân dị chủng (anti-miscegenation), tại 16
tiểu bang, kể cả Virginia, với lư do trái
với Equal Protection Clause của
Tu Chính 14. Riêng tại Alabama, măi đến năm 2000
mới chính thức bỏ luật cấm hôn nhân
dị chủng trong hiến pháp tiểu bang. Chính
Chủ Tịch TCPV Liên Bang Earl Warren đă viết quan
điểm, thay mặt toàn thể các Thẩm Phán
Tối Cao. Trong phán quyết, ông đă nhắc lại
nguyên văn đoạn Thẩm Phán Bazile nói về
việc Thiên Chúa Toàn Năng tạo ra và đặt
để nơi chốn cho các chủng tộc khác nhau.
Sau khi nêu ra những luận cứ bác bỏ quan điểm
kỳ thị, vị Chủ Tịch TCPV đi tới
kết luận sau đây: Tự
do kết hôn từ lâu đă được công
nhận như một trong những tự do quan trọng
của cá nhân, cần thiết cho việc theo đuổi
trong trật tự để mưu cầu hạnh phúc
của những người tự do. Hôn
nhân là một trong “những tự do căn bản
của con người”, là nền tảng cho chính
sự tồn tại và sống c̣n của chúng ta.
Phủ nhận tự do căn bản này trên nền
tảng không thể chống đỡ như phân
loại chủng tộc dựa trên những quy định
này, những phân loại trực tiếp phá bỏ nguyên
tắc b́nh đẳng là tâm điểm của Tu Chính
14, chắc chắn loại bỏ tất cả tự do
của người dân mà không theo đúng thủ
tục luật định. Tu Chính Án 14 đ̣i hỏi
rằng tự do lựa chọn để kết hôn không
được hạn chế bởi sự phân biệt
chủng tộc đáng ghét. Dưới Hiến Pháp
của chúng ta, tự do kết hôn, hay không kết hôn
với một người khác chủng tộc là
quyền của cá nhân, và Tiểu Bang không thể
phạm tới. (The
freedom to marry has long been recognized as one of the vital personal
rights essential to the orderly pursuit of happiness by free men. Marriage
is one of the “basic civil rights of man”, fundamental to our very
existence and survival. To deny this fundamental freedom on so unsupportable
a basis as the racial classifications embodies in these statutes,
classifications so directly subversive of the principle of equality at the
heart of the Fourteen Amendment, is surely to deprive all the State’s
citizens of liberty without due process of law. The Fourteenth Amendment
requires that the freedom of choice to marry not be restricted by invidious
racial discriminations. Under our Constitution, the freedom to marry, or not
marry, a person of another race resides with the individual, and can not be
infringed by the State) Ngày
12 tháng 6, ngày vợ chồng Lovings được
tự do yêu nhau và chung sống hợp pháp tại
Virginia, đă trở thành Loving Day hàng năm,
và được đặc biệt kỷ niệm năm
2017, vào dịp 50 năm thắng kiện.
Hiện nay, cả hai vợ chồng Lovings đều
đă yên nghỉ bên nhau tại nghĩa trang. Richard
mất năm 1975 v́ tai nạn xe hơi, Mildred không tái
giá, qua đời năm 2008. Vụ án này chỉ có
ảnh hưởng tại 16 tiểu bang, không đem
lại thay đổi trên toàn quốc, như mấy
thắng lợi của luật sư Ginsburg đă đạt
được; v́ nhiều tiểu bang đă bỏ
luật cấm hôn nhân dị chủng từ trước,
California bỏ đầu tiên. Tuy nhiên, hăy tưởng
tượng, nếu không có vụ thắng của
Lovings, biết bao nhiêu nam nữ gốc Việt sang
Mỹ từ năm 1975, đă không thể kết hôn
với người da trắng, và cư ngụ hợp
pháp tại 16 tiểu bang. Từ
cấm kỵ đến tự do
Đám
đông ăn mừng Tối Cao Pháp Viện ra phán
quyết chấp nhận hôn nhân đồng tính (same sex
marriage) tại Washington, năm 2015 (Zach Gibson/The New York
Times) Những
chuyện cấm kỵ và tự do liên quan tới hôn nhân
tại Virginia, từ hơn nửa thế kỷ trước,
ăn nhằm ǵ tới những sôi nổi đang
diễn ra hôm nay? Đó là những bằng chứng
cụ thể, cho thấy tầm quan trọng của
mặt trận tư pháp trong một xă hội dân
chủ. Có tự do hay không, dân chủ c̣n hay mất,
dễ thở hay nghẹt thở, đều bắt
nguồn từ hệ thống tư pháp. Tổng
thống chỉ cầm quyền bốn năm, hay tám năm.
Dân biểu, nghị sĩ có nhiệm kỳ hai, hay sáu năm,
mỗi lần tái ứng cử, là một lần dân có
quyền tái định đoạt vai tṛ của họ
bằng lá phiếu của ḿnh. Thẩm phán liên bang có
nhiệm kỳ suốt đời. Trump đến
rồi Trump đi, nhưng các “thẩm phán điều
3”, từ toà án Quận, toà Phúc Thẩm đến
toà Tối Cao; vẫn có thể tiếp tục giải
thích luật theo ư họ, nghĩa là theo ư hướng
Trump và đảng Cộng Hoà, thêm vài ba chục năm
nữa. Tuy họ có thể bị băi nhiệm bởi
Quốc Hội, nhưng thủ tục phiền phức,
ít khi sẩy ra. Riêng TPTC, người tại chức lâu
nhất, William Douglas, 36 năm 7 tháng, qua 7 đời
tổng thống; từ Roosevelt đến Ford, 1939-1975.
Người thế chân ông Douglas là John Stevens, cũng
tại chức 35 năm, từ 1975 tới 2010. Hai TPTC qua
đời gần đây nhất, Antonin Scalia, tại
chức 30 năm, từ 1986 đến 2016, và bà Ruth
Ginsburg, 27 năm, từ 1993, đến 2020. Và ở
tuổi 48, người mới được đề
cử vào TCPV, là Thẩm Phán Amy Barrett, có thể
tại chức tới 40 năm. Trong
ṿng ba năm rưỡi của nhiệm kỳ đầu,
Tổng Thống Trump, với
sự giúp sức tích cực của Nghị Sĩ trưởng
khối Cộng Hoà Mitch McConnell,
đă mang vào ngành tư pháp nhiều thẩm phán liên
bang nhất, so với các tổng thống trong 40 năm
qua, kể từ Tổng Thống Reagan. Theo
pewresearch, cho đến ngày 7 tháng
7, 2020, cả ba cấp trong hệ thống tư pháp liên
bang, có tất cả 792 thẩm phán đang hoạt
động trên toàn quốc, tại 1 TCPV, 13 toà Phúc
Thẩm vùng, và 91 toà án Quận. Trong
số này, ông Trump đă bổ nhiệm 194 người,
tức 24%. Gần một phần tư tổng số
thẩm phán liên bang này, cộng với thành phần
thẩm phán bảo thủ vẫn c̣n tại chức,
chẳng mấy chốc, thành phần này sẽ có đa
số, tha hồ xét xử và giải thích luật theo
quan điểm của xă hội vài thế kỷ trước.
Nghĩa là, đẩy bánh xe lịch sử tiến theo
hướng lùi. Riêng thành phần TCPV, Khi bà Amy Barrett an
vị trước bầu cử, dù ông Trump thất
cử, phía bảo thủ toà này vẫn có được
đa số tuyệt đối 6-3, đủ khả năng
thay đổi sinh hoạt xă hội trong nhiều
thế hệ. Xung
đột từ đồi Capitol Công
tâm mà nói, cuộc chiến tư pháp hiện tại, không
do Tổng Thống Trump châm ng̣i. Ông và phía Cộng Hoà,
đều xử dụng nhau như phương
tiện. Ông dùng Cộng Hoà để mưu cầu danh
lợi cá nhân. Cộng Hoà, qua lănh tụ tại Thượng
Viện Mitch McConnell, xử dụng ông để trả
miếng hận Dân Chủ từ trên ba thập niên trước.
Đồng thời, chặn bước tiến quá mau
của xă hội vào đầu thế kỷ 21; do
hậu quả của cuộc cách mạng thông tin;
cố vớt vát những ǵ vẫn được coi là
“giá trị truyền thống” của một xă
hội từ vài thế kỷ trước, cùng lúc,
bảo vệ quyền lợi của giới tài
phiệt, là nguồn sống của khuynh hướng
bảo thủ. Tại cuộc điều trần
tại Uỷ Ban Tư Pháp Thượng Viện trong
tiến tŕnh chuẩn thuận bà Amy Barrett, Nghị Sĩ
Dân Chủ từ tiểu bang Rhode Island, Sheldon Whitehouse,
đă trưng bầy một bản liệt kê chữ
lớn trên khổ lớn, lấy dữ liệu từ The Washington Post, với lời ghi “A
conservative activist’s behind-the-scenes campaign to remake the
nation’s courts” tiếp theo là số tiền $250 MiLLION IN DARK MONEY
(Một nhà hoạt động bảo thủ ẩn danh
vận động làm lại các toà án toàn quốc $250
triệu đô la trong quỹ ĐEN). Theo
tường thuật của Seung Min Kim trên Washington Post,
ngày 23 tháng 10, trong cuộc họp cùng ngày tại Thượng
Viện để quyết định về thủ
tục cuối cùng trong việc chuẩn thuận
Thẩm Phán Amy Barrett vào TCPV, đă diễn ra vụ
tranh luận gắt gao giữa hai Trưởng Khối
đa số Cộng Hoà McConnell, và Trưởng Khối
thiểu số Dân Chủ Schumer. Năm
1986, Thượng Viện đă chuẩn thuận
Thẩm Phán Antonin Scalia vào TCPV, một người có
khuynh hướng cực hữu, với tỉ lệ
98-0. Năm 1993, Thượng Viện chuẩn thuận
Thẩm Phán Ruth Ginsburg, một người có khuynh hướng
cấp tiến, với tỉ lệ 96-3. Điều này
chứng tỏ, dù hai ứng viên có khuynh hướng
đối nghịch, cả hai người đều
được hầu như toàn thể Thượng
Viện, thuộc cả hai đảng chấp thuận.
Chuyện đẹp này không c̣n nữa. Trong
cuộc họp Uỷ Ban Tư Pháp Thượng Viện
hôm Thứ Năm 22 – 10, bà Barrett đă được
chấp thuận, với số phiếu của toàn
thể thành viên Cộng Hoà của uỷ ban, trong khi toàn
thể thành viên Dân Chủ tẩy chay phản đối. Trong
cuộc họp hôm Thứ Sáu, Mitch McConnell đổ
lỗi cho Dân Chủ: “Đó là một sự việc
– một sự việc lịch sử – đă do phía
Dân Chủ Thượng Viện khởi đầu trước,
gây các khó khăn hiện thời của chúng ta kể
từ 1987, và là phía khởi sự mọi cuộc leo
thang. Mọi leo thang đă khởi đầu từ phía
bên kia”. Nhưng
chính McConnell đă dàn dựng vụ leo thang đáng
kể nhất trong cuộc chiến tư pháp những năm
gần đây, khi ông đă ngăn chặn vụ đề
cử TPTC vào năm 2016 của Tổng Thống Obama, tám
tháng trước bầu cử — một việc làm
khiến phía Dân Chủ cay cú từ đó. Theo
Seung Kim, McConnell đứng quay lưng về phía Dân
Chủ, nói với phía Cộng Hoà qua ngôn ngữ
mỉa mai không b́nh thường, nhắm vào cá nhân Lănh
tụ Thiểu số thượng viện Charles Schumer
(D-N.Y.): “Tôi mong đồng nghiệp từ New York
của chúng ta hoan hỷ với những ǵ ông đă
tạo ra. Tôi hy vọng ông ấy thoả măn với
điều đă tài t́nh làm cho Thượng
Viện”. Khi
McConnell chấm dứt, Schumer đứng dậy, nói
với cả hai phía, rằng phát biểu của
McConnell là cách “ăn miếng trả miếng”, tŕnh
bầy một khía cạnh lịch sử bị bẻ
cong. Ông nói: “Phía đa số Cộng Hoà thượng
viện đang trên bờ vực thẳm tạo ra một
sai lầm lịch sử khổng lồ. Những
thiệt hại gây ra cho viện này sẽ không thể
phục hồi”. Schumer
mô tả một đảng đạo đức
giả, đă không có lư do chặn lại việc đề
cử Merrick Garland vào TCPV năm 2016, rồi bây giờ
hấp tấp chuẩn thuận Barrett, chỉ hơn
một tuần trước ngày bầu cử mà hàng
chục triệu cử tri Mỹ đă bầu rồi.
Schumer nói với phía Cộng Hoà: “Quư vị không có
quyền tranh luận về nhất trí khi quư vị làm
những ǵ đang làm”.“Phía đa số đă chà
đạp lên thường t́nh, quy định,
chuẩn mực, danh dự, giá trị, bất cứ
thứ ǵ trong số này có thể trở ngại cho
tham vọng đưa một người vào toà án
để người này sẽ lấy đi những
quyền của biết bao người Mỹ”. Những
ấm ức cũ Khi
Amy Barrett c̣n là cô bé 15 tuổi, một cuộc xung đột
lịch sử đă diễn ra giữa Cộng Hoà và Dân
Chủ tại Thượng Viện, chung quanh một
ghế trống tại TCPV. Chỉ
trong ṿng một tiếng đồng hồ, sau khi
Tổng Thống Reagan loan báo vào ngày 1 tháng 7, 1987, đề
cử Thẩm Phán Phúc Thẩm Robert Bork vào TCPV, Nghị
Sĩ Dân Chủ Edward Kennedy đă gắt gao phê b́nh,
rằng: “Nước
Mỹ của Robert Bork là nơi phụ nữ buộc
phải tới những nơi phá thai trong ngơ hẻm, da
đen phải ngồi riêng ở quầy ăn trưa,
cảnh sát thô bạo có thể phá cửa vào xét nhà dân
lúc nửa đêm, học sinh không được
dậy về thuyết tiến hoá, nhà văn và
nghệ sĩ bị nhà cầm quyền kiểm
duyệt tuỳ thích, và những cánh cửa toà liên
bang đóng chặt trên ngón tay của hàng triệu người
dân, đối với họ, tư pháp – thường
là chỗ duy nhất – bảo vệ những quyền
cá nhân là tâm điểm nền dân chủ của chúng
ta”. Tại
Sao? Các
Nghị Sĩ Dân Chủ Joseph Biden, Chủ Tịch
Uỷ Ban Tư Pháp và Edward Kennedy, thảo luận trong
vụ chống Robert Bork, 1987 (John Durika/AP) Giống
các thẩm phán Leon Bazile; trong vụ Lovings của thập niên 50 thế
kỷ trước; Thẩm Phán Antonin Scalia sau đó, và
Thẩm Phán Amy Barrett bây giờ, Thẩm Phán Robert Bork
từng là người rất xuất sắc từ khi
c̣n đi học; là luật gia và giáo sư nổi
tiếng – từng là thầy của Bill và Hillary
Clinton, Jerry Brown, và John Bolton tại Yale –và cùng sùng
đạo Công Giáo. Là người đạo hạnh gương
mẫu, không có ǵ đáng chê trách về phương
diện cá nhân. Trong
lănh vực công, với chức Tổng Giám Đốc
Tư Pháp (Solicitor General – chức vụ thứ nh́ sau
Bộ Trưởng Tư Pháp – Attorney General) thời
Nixon, ông Bork đă theo lệnh Nixon, sa thải Công
Tố Viên Đặc Biệt Archibald Cox, v́ ông này đ̣i
Nixon nộp các cuốn băng thu thanh tại Bạch
Ốc trong vụ tai tiếng Watergate. Ông Bork miễn cưỡng
lầm việc này, sau khi các cấp trên của ông
đă từ chức để phản đối. Vào năm
1982, khi Tổng Thống Reagan đề cử ông vào
địa vị thẩm phán toà phúc thẩm – Court of
Appeals for the District of Columbia –, toàn thể Thượng
Viện đă chấp thuận dễ dàng. Điều này
chứng tỏ, việc ông theo lệnh Nixon sa thải ông
Cox, không là nguyên nhân chống đối của phe Dân
Chủ. Nhưng
5 năm sau, khi cũng Reagan đề nghị ông vào
TCPV, sóng gió đă nổi dậy từ đầu.
Điều này chứng tỏ, lư do ông bị chống
đối, không do những ǵ ông làm trong phạm vi cá
nhân, hoặc thuộc lănh vục hành chính, hay chính
trị, mà từ quan điểm của ông đă
thể hiện qua những phán quyết toà phúc
thẩm. Ví dụ, trong vụ Deonenburg v. Zech vào năm 1984, Thẩm
Phán Bork đă không chấp nhận quan điểm
về Quyền riêng tư –
right to privacy; một quyền đă
được TCPV căn cứ vào đó để
chấp nhận cho phá thai, trong vụ Roe v. Wade. Ông
Bork cũng không chấp nhận quyền tự do ngôn
luận đối với tư nhân, mà chỉ dành cho
chính quyền, và các đảng phái chính trị. Ông cũng
chủ trương cho các xí nghiệp lớn không
bị trói buộc bởi quá nhiều quy luật, cho
rằng điều này chỉ khiến giới tiêu
thụ phải trả gá. Không những chống phá
thai, ông Bork c̣n chống cả ngừa thai, và hôn nhân
đồng tính. Tóm
lại, về quan điểm giải thích luật, cũng
như Scalia cùng thời và Barrett bây giờ. Ông tự mô
tả thuộc phái originalism, nghĩa là giải thích
luật theo nghĩa nguyên thuỷ, khi nó được
làm ra, không cần để ư tới đà tiến
của xă hội. Chẳng hạn, ngay trong đoạn
mở đầu của Hiến Pháp Mỹ, có ba
chữ “insure domestic tranquility”, là bảo
đảm an b́nh nội bộ. Nếu giải thích theo
nghĩa rộng, một cuộc biểu t́nh ôn hoà, không
đập phá, là không phạm tới an b́nh nội
bộ. Nhưng cũng có thể nói, dù không đập
phá, nhưng cũng gây trở ngại cho những người
lưu thông, cho giới làm ăn buôn bán, thế là
phạm tới an b́nh nội bộ. Ngoài ra, chuyện
nhỏ hơn, như căi nhau trong nhà, có phạm tới
an b́nh nội bộ, có đáng để hàng xóm hay
cảnh sát can thiệp không? Chính
v́ quan điểm giải thích luật một cách
chặt chẽ, bảo thủ, Thẩm Phán Bork đă
bị hạ quá đậm trước cửa vào toà
tối cao, bằng tỉ lệ 58 chống, 42 thuận. Trong
cuộc tranh luận trước khi bỏ phiếu,
Nghị Sĩ Biden (ứng viên TT bây giờ), Chủ
Tịch Uỷ Ban Tư Pháp Thượng Viện bấy
giờ, phát biểu: “Tôi tin rằng tôi có những
quyền, bởi v́ tôi hiện hữu, bất kể chính
quyền, không phải do chính quyền. Thẩm phán Bork
tin rằng, các quyền đến từ đa số,
qua Hiến Pháp đến những cá nhân, một quan
điểm tôi phủ nhận.” (”I
believe I have rights because I exist, in spite of my government, not
because of my government. Judge Bork believes that rights flow from the
majority, through the Constitution to individuals, a notion I reject”). Sau
cuộc bỏ phiếu với đa số phủ
nhận Bork, Nghị Sĩ Biden phát biều cảm tưởng:
“Tôi thích thắng cuộc”, vụ thắng lợi này
“kém vui hơn các vụ khác, v́ chúng ta đang nói
về một người phải ngồi nhà nghe
chuyện này, một người tốt lành chỉ v́
đă có cái nh́n về Hiến Pháp không phù hợp
với thời đại 1980 và 1990” (”I enjoy winning,”
this particular victory was ”less enjoyable than others, because we are
talking about a man who had to sit home and listen to this, a fine man who
just had a view of the Constitution that is out of touch with the 1980’s
and 1990’s”). Cộng
Hoà thua đậm Dân Chủ qua vụ Robert Bork vào năm
1987, đên nỗi, tên ông Bork, đă biến thành động
từ “to bork,” có nghĩa một người
bị loại, khi được đề cử vào
một chức vị nào đó. Nhưng từ 2015, sau
khi chiếm được đa số qua vụ bầu
cử giữa kỳ năm 2014, Cộng Hoà đă
thắng liên tiếp trong việc đưa người
vào các toà liên bang, do lỗi lầm của Dân Chủ.
Vào 2013, tuy Dân Chủ đa số, nhưng vẫn
bị khối thiểu số do McConnell lănh đạo,
dùng thủ tục “nói dai” – filibuster, ngăn không cho biểu quyết
chấp thuận các thẩm phán liên bang, do Obama đề
cử. Muốn vượt qua filibuster, cần ít
nhất 60 phiếu. Dân Chủ chỉ có đa số quá
bán, không đủ 60 phiếu. Muốn thoát bế
tắc này, Trưởng Khối Dân Chủ Harry Reid
đă chủ trương thay đổi, bỏ rào
cản filibuster, chỉ cần đa số thường
khi chấp thuận thẩm phán liên bang. Nhờ đó,
Dân Chủ cử chót lọt một số người. Nhưng
lợi bất cập hại. Chỉ hơn một năm
sau, từ đầu 2015, Cộng Hoà có đa số,
trong hai năm cuối của nhiệm kỳ 2, bao nhiêu
người do Obama đề cử, đều bị ngâm.
Cũng thời gian này, Trump ra ứng cử tổng
thống, hứa với Cộng Hoà, sẵn sàng làm
đầy chỗ trống tại các toà liên bang.
Hồi 12 giờ 38 phút chiều, ngày 26 tháng 6 năm
2015, Trump tweeted nguyên văn: “If I win the presidency, judicial appointments
will do the right thing unlike Bush’s appointee John Roberts on
Obamacare” (Nếu tôi thắng chức
tổng thống, những chọn lựa tư pháp
sẽ làm đúng, không giống như John Roberts do Bush
chọn đă làm với Obamacare) (Chủ Tịch TCPV John Roberts do Bush đề
cử đă bỏ lá phiếu quyết định
giữ lại Obamacare). Năm
1993, tuy cả hai vợ chồng đều hoạt động
trong ngành luật, sau khi nhậm chức tổng
thống, Bill Clinton phải mất gần ba tháng mới
kiếm ra bà Ruth Ginsburg. C̣n Trump, là người kinh doanh
nhà đất và ṣng bạc, ngay khi c̣n là ứng
cử viên năm 2016, đă công bố một danh sách các
dự tuyển vào TCPV. Và trước khi bà Ginsburg qua
đời, Trump đă công bố một danh sách tới
40 người thay thế. Bà Barrett là người hàng
đầu trong danh sách này. Bà không phải là “người
của Trump”. Cũng như hai người trước
đó đă được Trump đưa vào TCPV, là
Neil Gorsuch và Brett Kavanaugh, đều là những người
tương đối c̣n trẻ, để có thể
tại chức ba bốn thập niên, đều là
những luật gia xuất sắc, đă được
tổ chức Federalist Society chú ư, kết nạp, và
chuẩn bị chu đáo từ khi c̣n đi học. Ngoài
việc không chấp thuận các thẩm phán liên bang
cấp dưới từ đầu 2015, McConnell chặn
cả thẩm phán tối cao do Obama đề nghị
từ đầu năm 2016. Sau khi TPTC Antonin Scalia từ
trần ngày 13 tháng 2, 2016, Obama đă đề cử người
thay thế, là Merrick Garland, một thẩm phán lỗi
lạc tại Court of Appeals for the
District of Columbia Circuit, phục vụ cùng toà
với nhiều người đă từ đây vào
TCPV. Nhưng bị McConnell chặn ngay từ đầu,
không điều trần, không biểu quyết, không có
lư do bất thường như đại dịch
Covid-19, mà chỉ v́ một lư do, là năm có bầu
cử tổng thống, phải đợi quyền
đề cử cho người thắng cuộc.
Nghị Sĩ Mitch McConnell đă nói ngay trong ngày Thẩm
Phán Scalia từ trần, rằng: “Dân Mỹ cần
phải có tiếng nói trong việc chọn Thẩm Phán
Tối Cao kế tiếp của ḿnh. V́ thế, chỗ
trống này không nên có người ngồi cho đến
khi chúng ta có một Tổng Thống mới” (The American people should have voice in the selection of their
next Supreme Court Justice. Therefore this vacancy should not have filled
until we have a new President). Nhờ vụ ngăn
chặn này, một trong những việc làm đầu
tiên của Tổng Thống Trump, là cử Thẩm Phán
Neil Gorsuch vào TCPV. Đồng thời, Trump cũng có cơ
hội đề cử hàng loạt thẩm phán vào các
toà cấp dưới, lấp đầy những
chỗ trống đă bị McConnell chặn lại trong
năm cuối của Obama. Nói
lời, không thèm giữ lời! Hơn bốn năm
sau, trong khi loan báo tin Thẩm Phán Ginsburg từ trần,
chỉ 6 tuần trước ngày bầu cử năm
2020, Nghị Sĩ Mitch McConnell cho biết, người
thay thế bà Ginsburg do Tổng Thống Trump đề
cử sẽ được Thượng Viện
tiến hành thủ tục chuẩn thuận. Đồng
thời, ông Trump, vào ngày 23 tháng 9, tweeted cho mọi người
biết rằng, theo ông nghĩ, kết quả bầu
cử có thể được quyết định
tại TCPV. Nên ông nghĩ, điều rất quan
trọng là TCPV có đủ 9 thẩm phán. (I think this will end up in the Supreme Court. I think it’s very
important that we have nine justices). Nên nhớ,
cuộc bầu cử năm 2000, George W. Bush, tuy
được ít phiếu cử tri đại chúng hơn
đối thủ Al Gore, đă được TCPV
xử cho thắng cử, với tỉ lệ 5-4. McConnell
nói trong phiên họp Thượng Viện hôm Chủ
Nhật 25-10: “Thượng Viện đang làm đúng.
Chúng ta đang tiến tới trong cuộc tuyển
chọn này, và thưa các bạn đồng viện, vào
tối mai, chúng ta sẽ có một thành viên mới cho
TCPV”. McConnell c̣n nói thêm rằng: “Rất nhiều
điều chúng ta đă thực hiện trong bốn năm
qua sớm hay muộn sẽ bị xoá bỏ v́ cuộc
bầu cử sắp tới. Những điều ấy
không thể làm ǵ được trong thời gian lâu
nữa”. Ngay
trước giờ bỏ phiếu vào Thứ Hai 26 –
10, ông Schumer c̣n nặng lời chỉ trích phía Cộng
Ḥa: “Người dân Mỹ sẽ không bao giờ quên
việc làm mất tin tưởng trắng trợn này.
Họ sẽ không bao giờ quên việc các ông đă
bất kể tiếng nói của họ, của
những người đang đứng xếp hàng
để bỏ phiếu theo lựa chọn của
họ, không phải lựa chọn của các ông”.
Mitch McConnell đáp lại rằng: “Lư do chúng tôi có
thể làm như chúng tôi đă làm năm 2016, 2018 và
2020 v́ chúng tôi đă có đa số”. Lời qua
tiếng lại măi, rồi cũng đến lúc bỏ
phiếu, thể hiện t́nh trạng chia rẽ chưa
từng có trong lịch sử chuẩn thuận người
vào TCPV. Thượng
Viện đă chấp thuận bà Amy Coney Barrett trở
thành Thẩm Phán TCPV, thay thế bà Ruth Bader Ginsburg,
với 52 phiếu thuận và 48 phiếu chống
(Washington Post) Đám
cưới chạy tang Sau
đúng một tháng sóng gió từ khi được
đề cử, và cả cuối tuần tranh căi
gắt gao giữa hai họ Dân chủ và Cộng Ḥa,
cuối cùng, Thượng Viện đă bỏ phiếu
chấp thuận bà Amy Coney Barrett (ACB), trở thành
Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện thứ 115 trong
lịch sử 231 năm của toà án cao nhất này, vào
lúc hơn 8 giờ tối ngày 26 tháng 10, chỉ một
tuần trước cuộc bầu cử ngày 3-11, 2020.
Và mọi việc đều diễn ra hối hả, làm
lấy được, như trong một đám cưới
chạy tang. Một lễ tuyên thệ cho tân giai nhân
đă diễn ra chỉ một giờ sau, tại vườn
hồng Bạch Ốc ngay trong đêm, với vị
chủ tŕ là TPTC Clarence Thomas, khách tham dự đeo
khẩu trang, thay cho khăn tang. Đây là lễ tuyên
thệ trung thành với Hiến Pháp. Lễ tuyên thệ
giữ lề luật TCPV sẽ diễn ra ngày hôm sau, do
Chủ Tịch John Roberts chủ tŕ tại TCPV. ACB
tuyên thệ nhậm chức (The Washington Post) Trong
lời phát biểu ngắn sau khi tuyên thệ, Tân
Thẩm Phán nói: “Một thẩm phán tuyên dương
sự độc lập của ḿnh không phải
chỉ từ Quốc Hội và Tổng Thống, nhưng
cũng từ những quan điểm riêng tư mà lúc
thường có khả năng lay chuyển họ.” Phát
biểu này có vẻ khác với quan điểm của
vị thẩm phán trong vụ án Lovings,
quan niệm rằng Chúa đă tạo ra những
chủng tộc khác mầu da, cho ở tại các
lục địa khác nhau, và không nên cho họ pha
giống qua hôn nhân. Sẽ
không có thời kỳ trăng mật, rất nhiều công
việc hệ trọng đang đợi cô dâu mới.
Việc đầu tiên là ngày 10 tháng 11 tới, Barrett
sẽ phải tham dự quyết định về
số phận của Obamacare, c̣n gọi tắt là ACA
(Affordable Care Act), cái thứ là b́nh phong che chở
bệnh nhân nghèo, nhưng Tổng Thống Trump ghét cay
ghét đắng, ông hứa loại bỏ từ khi c̣n
tranh cử hơn bốn năm trước, mà đến
nay vẫn chưa làm được. Trong thời gian sát
hạch, cô dâu ACB đă tránh trả lời trực
tiếp mọi câu hỏi hắc búa, khiến Nghị Sĩ
Edward Markey (D-Mass.) đă cả quyết: “Chúng ta có
thể có ACA hoạc ACB, nhưng không thể có cả
hai”. Bây giờ, ACB phải quyết định về
số phận của ACA, không thể tránh né thử thách
này nữa. Và tất nhiên, cũng không tránh khỏi
những vụ kiện rắc rối liên hệ tới
cuộc bầu cử tuần tới. Ấy là chưa
kể tới những chuyện quan trọng khác, như
phá thai, ngừa thai, hôn nhân đồng tính, bảo
vệ môi sinh, quyền bầu cử, tiền tranh
cử, bảo vệ người tiêu thụ, người
làm việc… Với
Amy Coney Barrett, phe bảo thủ từ địa vị
thiểu số 3 hay 4 chống 5, nay đă thành đa
số 6 đè 3, một tỉ lệ như chỉ có
trong mơ. Muốn biết vai tṛ TPTC quan trọng
thế nào, chỉ cần nhớ lại cuộc bầu
cử hai chục năm trước. Ông George W. Bush
đă đắc cử nhờ một quyết định
của TCPV với tỉ lệ 5-4. Trong 5 phiếu đa
số này, một phiếu là của TPTC Clarence Thomas, người
duy nhất do ông Bush cha đề cử. Ông Bush cha
mất một nhiệm kỳ, nhưng nhờ lá
phiếu của người do ông đề cử vào
TCPV, con ông có hai nhiệm kỳ. Mất một
được hai! Cựu
công tố liên bang James D. Zirin có nhận xét đáng chú
ư về đa số bảo thủ mới tại TCPV,
ông viết trên The Hill hôm 26 tháng 10: “Chúng ta có
thể trên đường tới chỗ có một
tổng thống không được bầu theo ư chí
của dân, nhưng bởi các thẩm phán không
được dân bầu.” (We
may be on the road to having a president who is not elected by the will of
the people, but by unelected judges). |