Mỹ Có Thể Phong Tỏa Các Thương Vụ Của Hoa Vi Trên Khắp Thế Giới? Tác
giả: Dani Rodrik |
Lời
người dịch: Bằng các h́nh thức
gian manh hiện đại trong khuôn khổ mậu
dịch quốc tế, Trung Quốc ngang nhiên thực
hiện các hoạt động gián điệp và thao túng
các phương tiện truyền thông xă hội, nhưng
Mỹ và các nước phương Tây không liên
kết được một đối sách chung cho phù
hợp để chống Trung Quốc. Nh́n
chung, phong trào bài Hoa lan tràn khắp nơi và chuổi
cung ứng sản phẩm công nghệ của Trung
Quốc đang ngày càng suy yếu. Tính từ tháng 5/2019
cho đến nay, Mỹ đă ra lệnh cho phong tỏa
152 chi nhánh của doanh nghiệp Hoa Vi đang hoạt
động trên 21 quốc gia. Và gần đây nhất,
trong cuộc họp với khối ASEAN, Mỹ đă kêu
gọi hợp tác để phong tỏa hoạt động
của 11 doanh nghiệp Trung Quốc đang xây dựng các
công tŕnh tại Biển Đông. Các
biện pháp này của Mỹ khó khả thi cho dù các
quốc gia bị lệ thuộc kỹ thuật với
Mỹ, nhưng sản phẩm của Hoa Vi có đặc
điểm khác hẳn. Quan trọng nhất là v́
Mỹ vi phạm chủ quyền hoạt động
độc lập kinh tế của từng quốc gia và
các quyền lợi khi đối tác với Hoa Vi là khác
nhau. Do đó, các quốc gia, dù có nguy cơ an ninh
quốc gia, tùy t́nh h́nh cụ thể, không nhất
thiết phải hợp tác với Mỹ để
bài Hoa. Mỹ
không c̣n muốn nắm vai tṛ lănh đạo trong các
hợp tác quốc tế và tôn trọng tinh thần
tự do mậu dịch trong khuôn các luật lệ
của WTO. Các cường quốc phương Tây có lư
do, Mỹ từ bỏ chủ thuyết đa phương
để không c̣n tin Mỹ quyết tâm lănh đạo
một sách lược bài Hoa cho một nền mậu
dịch thế giới được công b́nh hơn và
cùng chung hưởng thịnh vượng, mà thực tâm
là trên hết bảo vệ cho nền kinh tế Mỹ. Trường
hợp của Việt Nam là thí dụ. Dù được
Mỹ hậu thuẫn chính trị để giải
quyết vấn đề tranh chấp biển Đông,
nhưng Việt Nam cũng không hợp tác để
phong tỏa Hoa Vi. Khối ASEAN cũng lâm vào t́nh
trạng tương tự; bản Tuyên Bố gần
đây tại Hà Nội cho thấy, ASEAN không ủng
hộ lập trường quyết liệt của
Mỹ. Mỹ quan tâm sâu xa về an ninh quốc gia, c̣n
ASEAN th́ không; ngược lại, Việt Nam đang
tự hào là vẹn toàn lănh thổ bên cạnh Trung
Quốc và không quan tâm khởi động tố
quyền trong tranh chấp biển Động với
Trung Quốc. Đó là sự dị biệt về
nhận thức. Vậy
Việt Nam thật sự muốn ǵ nơi Mỹ?
Mỹ nên xét xem sự hợp tác nào mà Việt Nam hoan
nghênh. Cuối cùng, điểm chủ yếu là Mỹ
nên đưa chính sách bài Hoa vào trong khuôn khổ điạ
chính trị quy mô hơn để tạo niềm tin
trong sự hợp tác quốc tế. ***
Chế
độ thương mại quốc tế mà chúng ta
đang có, được thể hiện trong các
luật lệ của Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO) và các hiệp định khác, nó không
phải của thế giới này. Nó được
thiết kế cho một thế giới của ô tô, thép
và dệt, không phải cho một thế giới
của dữ liệu, phần mềm và thông minh nhân
tạo. Vốn dĩ đă phải chịu áp lực
nghiêm trọng từ sự trỗi dậy của Trung
Quốc và phản ứng dữ dội chống lại
trào lưu siêu toàn cầu hóa, việc đối phó
với ba thách thức chính mà các công nghệ mới này
đặt ra là hoàn toàn không phù hợp. Đầu
tiên, đó là
vấn đề địa chính trị và an ninh
quốc gia. Các công nghệ kỹ thuật số cho phép
các cường quốc nước ngoài xâm chiếm các
mạng lưới công nghiệp, thực hiện các
hoạt động gián điệp trên không gian
mạng và thao túng các phương tiện truyền thông
xă hội. Nga đă bị cáo buộc can thiệp vào các
cuộc bầu cử ở Hoa Kỳ và các nước
phương Tây khác thông qua các trang tin tức giả
mạo và thao túng các phương tiện truyền thông
xă hội. Chính phủ Mỹ đă thẳng tay đàn
áp doanh nghiệp khổng lồ Hoa Vi của Trung
Quốc v́ lo ngại rằng mối liên hệ của
doanh nghiệp này với chính phủ Trung Quốc
khiến thiết bị viễn thông của họ thành
mối đe dọa an ninh. Thứ
hai, có những
lo ngại về quyền riêng tư của cá nhân. Các
nền tảng thuộc Internet có thể thu thập
một số lượng lớn dữ liệu về
những ǵ mọi người thực hiện trên
mạng và ngoài mạng, và một số quốc gia có
quy định chặt chẽ hơn những quốc gia
khác để điều chỉnh những ǵ họ có
thể làm với việc này. Ví dụ như Liên minh
châu Âu đă đưa ra án phạt tiền đối
với các doanh nghiệp không bảo vệ các dữ
liệu cho cư dân Liên Âu. Thứ
ba liên hệ đến kinh tế học. Các công
nghệ mới mang lại lợi thế cạnh tranh cho
các đại doanh nghiệp, nó có thể tích lũy
quyền lực thị trường to lớn trên toàn
cầu. Các nền kinh tế về quy mô và phạm vi cũng
như hiệu ứng do mạng lưới tạo ra
kết quả là có người toàn thắng và các chính
sách trọng thương cũng như các phương
sách thực hành khác của chính phủ có thể
dẫn đến việc một số doanh nghiệp có
những lợi thế không công bằng. Ví dụ, giám
sát của nhà nước đă cho phép các doanh
nghiệp Trung Quốc tích lũy lượng dữ
liệu khổng lồ, từ đó giúp họ có
thể chinh phục thị trường nhận dạng
khuôn mặt trong toàn cầu. Một
phản ứng chung cho những thách thức này là kêu
gọi sự phối hợp quốc tế và các quy
tắc toàn cầu rộng lớn hơn. Hợp tác
về lập quy xuyên qua nhiều quốc gia và các chính
sách chống cạnh tranh bất chánh có thể tạo
ra các tiêu chuẩn và cơ chế thực thi mới.
Ngay cả khi một phương sách thực sự chung
cho toàn cầu là không thể thực hiện –
chẳng hạn như v́ các nước độc tài
và dân chủ có những bất đồng sâu xa
về quyền riêng tư – th́ các nền dân chủ
vẫn có thể hợp tác với nhau và phát triển
các quy tắc chung. Lợi
ích của các quy tắc chung là rơ ràng. Nếu không có
nó, các cách thực hành như bản địa hóa các
dữ liệu, các đ̣i hỏi về cục bộ
cho kỹ thuật cloud và phân biệt đối xử
đem lợi cho các quốc gia thành nhà vô địch,
tất cả tạo ra sự kém hiệu quả kinh
tế trong phạm vi phân chia trong thị trường
quốc gia. Chúng làm giảm lợi nhuận từ thương
mại và ngăn cản các doanh nghiệp thu được
lợi ích do quy mô. Và các chính phủ phải đối
mặt với mối đe dọa thường trực
rằng các quy định của họ sẽ bị phá
hoại bởi các doanh nghiệp hoạt động
từ các hệ thống pháp lư với các quy tắc
lỏng lẻo hơn. Nhưng
trong một thế giới nơi mà các quốc gia có
những ưu đăi khác nhau, các quy tắc toàn cầu
– ngay cả khi chúng là khả thi – theo nghĩa
rộng hơn là không hiệu quả. Bất kỳ
trật tự toàn cầu nào cũng phải cân
bằng lợi ích từ thương mại (tối
đa khi các quy định được hài ḥa) đối
nghịch với lợi ích từ sự đa dạng
về các quy định (tối đa hoá khi mỗi chính
phủ quốc gia hoàn toàn tự do làm những ǵ mà
họ muốn). Nếu trào lưu siêu toàn cầu hóa
đă tỏ ra mong manh, th́ một phần là do các nhà
hoạch định chính sách đă ưu tiên cho
những lợi ích từ thương mại hơn
lợi ích của sự đa dạng về lập quy.
Sai lầm này không nên lặp lại với các công
nghệ mới. Thật
ra, các nguyên tắc hướng dẫn suy nghĩ
của chúng ta về công nghệ mới không khác ǵ các
nguyên tắc dành cho các lĩnh vực truyền
thống. Các quốc gia có thể đưa ra các tiêu
chuẩn quy định riêng và xác định các yêu
cầu an ninh quốc gia của riêng ḿnh. Họ có
thể làm những ǵ được yêu cầu để
bảo vệ các tiêu chuẩn này và an ninh quốc gia
của họ, bao gồm thông qua các hạn chế thương
mại và đầu tư. Nhưng họ không có
quyền quốc tế hóa các tiêu chuẩn của ḿnh
và cố gắng áp đặt các quy định
của họ lên các quốc gia khác. Hăy
xét đến các nguyên tắc này sẽ áp dụng như
thế nào đối với Hoa Vi. Chính phủ Mỹ
đă ngăn chặn Hoa Vi mua lại các doanh nghiệp
Mỹ, hạn chế hoạt động tại Mỹ,
khởi động các thủ tục pháp lư chống
lại giới lănh đạo cấp cao của họ,
gây sức ép buộc các chính phủ nước ngoài
không làm việc với Hoa Vi và gần đây nhất là
cấm các doanh nghiệp Mỹ bán các chip cho chuỗi
cung ứng của Hoa Vi bất cứ nơi nào trên
thế giới. Có
rất ít bằng chứng cho thấy là Hoa Vi đă thay
mặt cho chính phủ Trung Quốc tham gia công việc gián
điệp. Nhưng điều đó không có nghĩa là
Hoa Vi sẽ không làm như vậy trong tương lai. Các
chuyên gia kỹ thuật phương Tây đă kiểm
tra mă số của Hoa Vi và đă không loại trừ
khả năng này. Sự thiếu trong sáng trong các
hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp
ở Trung Quốc có thể làm che khuất các mối
liên hệ của Hoa Vi với chính phủ Trung Quốc. Trong
những trường hợp này, lư do an ninh quốc gia
để cho Hoa Kỳ – hoặc bất kỳ quốc
gia nào khác – hạn chế hoạt động của
Hoa Vi trong phạm vi biên giới của ḿnh là lập
luận chính đáng. Các quốc gia khác, kể cả
Trung Quốc, không có khả năng xét lại quyết
định này. Tuy
nhiên, lệnh cấm xuất khẩu đối với
các doanh nghiệp Hoa Kỳ khó được biện
minh v́ lư do an ninh quốc gia hơn là lệnh cấm
đối với các hoạt động của Hoa Vi
tại Hoa Kỳ. Nếu các hoạt động của
Hoa Vi ở các quốc gia thứ ba gây ra rủi ro an ninh
cho các quốc gia đó, th́ chính phủ của họ có
thẩm quyền nhất để đánh giá các
rủi ro và quyết định xem việc ngừng
hợp tác hoạt động có phù hợp không. Hơn
nữa, lệnh cấm của Hoa Kỳ phải đối
mặt với hậu quả kinh tế nghiêm trọng
đối với quốc gia khác. Nó tạo ra những
tác động bất lợi đáng kể cho các doanh
nghiệp viễn thông quốc gia như BT, Deutsche Telekom,
Swisscom và những doanh nghiệp khác tại không dưới
170 quốc gia dựa vào bộ dụng cụ và
phần cứng của Hoa Vi. Có lẽ bị ảnh hưởng
nặng nề nhất là các quốc gia nghèo ở châu
Phi, họ đang phụ thuộc quá nhiều vào
thiết bị rẻ hơn của doanh nghiệp. Tóm
lại, Mỹ có tự do để đóng cửa
thị trường của ḿnh đối với Hoa Vi.
Nhưng các nỗ lực của Hoa Kỳ nhằm
quốc tế hóa cuộc áp đặt các biện pháp
trong nước của họ là thiếu tính hợp pháp. Vụ
việc của Hoa Vi báo hiệu về một thế
giới trong đó các vấn đề an ninh quốc
gia, quyền riêng tư và kinh tế sẽ tương tác
theo những cách phức tạp. Quản trị toàn
cầu và chủ nghĩa đa phương thường
sẽ thất bại, v́ cả lư do tốt và xấu.
Điều tốt nhất mà chúng ta có thể mong đợi
là một sự chắp vá về quy định,
dựa trên các quy tắc cơ bản rơ ràng giúp
ủy quyền cho các quốc gia theo đuổi lợi
ích quốc gia cốt lơi của họ mà không xuất
khẩu vấn đề của họ cho người
khác. Hoặc là chúng ta tự phác hoạ sự chắp
vá này, hoặc chúng ta sẽ kết thúc với một
phiên bản lộn xộn, kém hiệu quả và nguy
hiểm hơn. ______ Dani
Rodrik: Giáo sư Kinh tế Chính trị Quốc tế
tại trường John F. Kennedy Khoa học Công
quyền, thuộc Đại học Harvard. Ông
c̣n là tác giả sách “Straight
Talk on Trade: Ideas for a Sane World Economy“. *
Người dịch đặt tựa đề cho
bản dịch |