Tập
Cận B́nh muốn ǵ? |
Chủ
tịch Trung Quốc Tập Cận B́nh muốn ǵ?
Bốn năm trước khi Donald Trump trở thành
Tổng thống, Tập đă trở thành nhà lănh
đạo Trung Quốc và tuyên bố một tầm nh́n
vĩ đại nhằm, về cơ bản, “làm Trung
Quốc vĩ đại trở lại” – kêu gọi
“đại phục hưng dân tộc Trung Quốc”. Tập
rất tin tưởng rằng ḿnh sẽ thành công trong
nỗ lực này, đến mức ông đă vi
phạm trắng trợn một nguyên tắc trọng
yếu trong cuộc sinh tồn chính trị: Không bao
giờ đặt ra một mục tiêu và một ngày
cụ thể trong cùng một câu. Trong ṿng một tháng
sau khi trở thành nhà lănh đạo Trung Quốc vào năm
2012, Tập đă đặt ra thời hạn hoàn thành
mỗi mục tiêu trong “Hai mục tiêu thế kỷ”
của ḿnh. Thứ
nhất, Trung Quốc
sẽ xây dựng một “xă hội tương đối
khá giả” (tiểu khang xă hội) bằng cách tăng
gấp đôi GDP b́nh quân đầu người năm
2010 lên 10.000 USD trước năm 2021, năm kỷ
niệm 100 năm ngày thành lập Đảng Cộng
sản Trung Quốc. Thứ
hai, nước này
sẽ trở thành một đất nước “phát
triển đầy đủ, giàu có, và quyền
lực” vào dịp kỷ niệm 100 năm thành
lập nước Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa năm
2049. Nếu Trung Quốc đạt được
mục tiêu đầu tiên – mà nước này đang
trên đà đạt được – Quỹ Tiền
tệ Quốc tế (IMF) ước tính rằng nền
kinh tế Trung Quốc sẽ lớn hơn 40% so với
nền kinh tế Mỹ (tính theo sức mua tương
đương). Nếu Trung Quốc đạt
được mục tiêu thứ hai vào năm 2049,
nền kinh tế Trung Quốc sẽ lớn gấp ba
lần nền kinh tế Mỹ. Sự
chuyển biến mạnh mẽ của Trung Quốc có
ư nghĩa ǵ đối với Hoa Kỳ và với
sự cân bằng quyền lực toàn cầu? Lư
Quang Diệu của Singapore, nhà quan sát Trung
Quốc hàng đầu của thế giới trước
khi ông qua đời năm 2015, có một câu trả
lời sắc bén về quỹ đạo ấn tượng
của Trung Quốc trong 40 năm qua: “Quy mô dịch
chuyển của Trung Quốc trong sự cân bằng toàn
cầu lớn đến mức thế giới phải
t́m một trạng thái cân bằng mới. Không thể
làm như đây chỉ là một chủ thể
lớn khác. Đây là chủ thể lớn
nhất trong lịch sử thế giới”. Phân
tích của ông Lư về t́nh h́nh ở Trung Quốc, cũng
như trên thế giới rộng hơn, đă biến
ông thành một nhà cố vấn chiến lược
được săn đón của nhiều vị
Tổng thống và Thủ tướng ở mọi châu
lục – bao gồm mọi nhà lănh đạo Hoa Kỳ
từ Richard Nixon đến Barack Obama. Ông Lư đă dành
hàng ngàn giờ tṛ chuyện trực tiếp với các
vị Chủ tịch nước, Thủ tướng,
quan chức Chính phủ, và các nhà lănh đạo đang
lên của Trung Quốc, “nước láng giềng
ở phương Bắc” của ḿnh. Các nhà lănh
đạo Trung Quốc từ Đặng Tiểu B́nh
đến Tập Cận B́nh đều gọi ông là
“sư phụ,” một từ chỉ thái độ tôn
kính cao nhất trong văn hóa Trung Hoa. Và ông Lư, người
chia sẻ với tôi những hiểu biết của ḿnh
trong một cuốn sách mà tôi là đồng tác
giả năm 2013, đă theo dơi sát sao những biến
động của Trung Quốc từ Đại
nhảy vọt và Cách mạng Văn hóa trong những năm
1960 đến sự xoay trục sang tư bản
chủ nghĩa của Đặng trong những năm
1980. Ông đă thiết lập các mối quan hệ công
tác nghiêm túc với nhiều người điều hành
Trung Quốc, trong đó có vị Chủ tịch tương
lai Tập Cận B́nh. Ông
Lư đă thấy trước thế kỷ 21 sẽ là
một “cuộc tranh giành quyền lực tối cao
ở châu Á”. Và khi Tập
leo lên ghế Chủ tịch nước năm 2012, ông
Lư đă tuyên bố với thế giới rằng
cuộc tranh giành này đang tăng tốc. Trong số
mọi nhà quan sát nước ngoài, ông Lư là người
đầu tiên nói về nhà kỹ trị phần
lớn vẫn chưa được biết đến
này, “Hăy quan sát người này”. Nhiều
chính trị gia và quan chức ở Washington vẫn đang
làm như Trung Quốc chỉ là một chủ thể
lớn khác. Tuy nhiên, ông Lư biết Tập rất rơ, và
hiểu rằng khát vọng vô biên của Trung Quốc
được thúc đẩy bởi một quyết tâm
không khoan nhượng là giành lại sự vĩ đại
trong quá khứ. Thử hỏi hầu hết các học
giả Trung Quốc xem Tập và các đồng
nghiệp của ông có nghiêm túc tin rằng Trung Quốc
sẽ thay thế Hoa Kỳ trong vai tṛ là cường
quốc thống trị ở châu Á trong tương lai
gần hay không. Họ sẽ lảng tránh câu hỏi này
bằng những mẫu câu như “Điều đó
rất phức tạp… một mặt… mặt khác…”
Khi tôi hỏi ông Lư câu này trong một cuộc gặp
ít lâu trước khi ông qua đời, đôi mắt
ông mở to nghi ngờ, như thể hỏi lại,
“Anh đang đùa à?” Ông thẳng thắn trả
lời: “Dĩ nhiên. Sao lại không? Làm sao mà họ có
thể không khát vọng trở thành số một
ở châu Á và sau này là trên thế giới?” ***** Sự
căng thẳng về mặt cấu trúc giữa
một Trung Quốc đang lên và một Hoa Kỳ đang
cai trị vốn đă trầm trọng.
Việc giảm nguy cơ xảy ra một cuộc đụng
độ thảm khốc mà cả hai bên đều
muốn tránh sẽ bắt đầu bằng một
đánh giá rơ ràng về những mục đích và phương
tiện của Bắc Kinh. Khi nhậm chức, Tập
Cận B́nh đă tuyên bố tham vọng bao quát của
ông đối với Trung Quốc bằng một câu duy
nhất: “Giấc mộng
Trung Quốc lớn nhất là đại phục hưng
dân tộc Trung Quốc”. “Trung Quốc mộng”
của ông bao gồm sự thịnh vượng và
quyền lực – tương đương với
tầm nh́n “sức mạnh cứng” của Theodore
Roosevelt về một thế kỷ Mỹ và Chính sách
Kinh tế mới (New Deal) đầy động lực
của Franklin Roosevelt. Nó nắm bắt được
khao khát mănh liệt của một tỷ người
Trung Quốc: trở nên giàu có, quyền lực, và
được tôn trọng. Tập tự tin rằng
trong cuộc đời ḿnh Trung Quốc có thể
hiện thực hóa cả ba khát vọng này bằng cách
duy tŕ phép màu kinh tế, bồi dưỡng một
thế hệ công dân ái quốc, và không cúi đầu
trước cường quốc nào khác trong các vấn
đề thế giới. Tập
sẽ “làm Trung Quốc vĩ đại trở
lại” như thế nào?
Sau khi nghiên cứu con người này, lắng nghe
lời lẽ của ông, và nói chuyện với
những người hiểu ông rơ nhất, tôi tin
rằng, với Tập điều này có nghĩa là: · Đưa
Trung Quốc trở lại thế thống trị mà nó
được hưởng ở châu Á trước khi
phương Tây xâm nhập; · Tái
thiết quyền kiểm soát đối với các vùng
lănh thổ mà Đảng Cộng sản xem là “Đại
Trung Quốc”, không chỉ bao gồm Tân Cương và
Tây Tạng ở đại lục, mà c̣n cả
Hồng Kông và Đài Loan; · Khôi
phục các phạm vi ảnh hưởng trong lịch
sử dọc biên giới và trên các vùng biển lân
cận để các nước khác trao cho ḿnh sự tôn
kính mà các cường quốc luôn đ̣i hỏi; · Giành
được sự tôn trọng của các cường
quốc khác trong các hội đồng thế giới. Ở
cốt lơi của các mục tiêu quốc gia này là
một tín ngưỡng văn minh coi Trung Quốc là
trung tâm của vũ trụ. Trong tiếng Trung, Trung
Quốc có nghĩa là Vương quốc Trung tâm.
“Trung” ở đây không nói đến không gian
giữa các vương quốc đối địch khác,
mà là chỉ mọi vương quốc nằm giữa
trời và đất. Như ông Lư đă tóm tắt
quan điểm về thế giới được chia
sẻ bởi hàng trăm quan chức Trung Quốc t́m
đến lời khuyên của ông, họ “nhớ
lại một thế giới mà Trung Quốc thống
trị c̣n các nhà nước khác với họ chỉ
như những kẻ cầu xin trước một
đấng tối cao, như những chư hầu mang
báu vật triều cống đến Bắc Kinh”.
Trong câu chuyện này, sự trỗi dậy của phương
Tây trong những thế kỷ gần đây là một
sự bất thường lịch sử, phản ánh
sự yếu kém về mặt công nghệ và quân
sự của Trung Quốc khi phải đối mặt
với các đế quốc thống trị trong
một “thế kỷ ô nhục” từ khoảng năm
1839 đến năm 1949. Tập Cận B́nh đă
hứa với người dân của ông: Chuyện này
sẽ không c̣n nữa. Chương
tŕnh hành động của Tập nhằm khôi phục
lại vị thế vĩ đại đă mất này
là ǵ? Theo ông Lư, cố vấn chính trị của
Tập, một nhà lănh đạo đất nước
phải “vạch ra tầm nh́n tương lai cho người
dân, biến tầm nh́n đó thành các chính sách mà anh
ta phải thuyết phục được người
dân là nó đáng ủng hộ, và cuối cùng là khích
lệ họ giúp anh ta thực hiện”. Đă vạch
ra một tầm nh́n táo bạo là “Trung Quốc
mộng”, Tập đang tích cực vận động
người ủng hộ thực hiện một
nghị tŕnh hành động vô cùng tham vọng trên
bốn mặt tương quan. Là
tay lái chính của cả công cuộc này, yêu cầu
đầu tiên đối với Tập trong việc
hiện thực hóa Giấc mộng Trung Quốc là tái
chính danh hóa một Đảng Cộng sản Trung
Quốc mạnh mẽ trong vai tṛ là lực lượng
tiên phong và giám hộ của nhà nước Trung
Quốc. Ít lâu sau khi nhậm chức, Tập đă nói
với các thành viên Bộ Chính trị rằng “giành
được hay mất đi sự ủng hộ
của nhân dân là một vấn đề liên quan đến
sự sống c̣n của Đảng Cộng sản”.
Ông cũng thẳng thừng cảnh báo họ: “Tham nhũng
có thể kết liễu Đảng”. Trích Khổng
Tử, ông hứa sẽ “vi chính dĩ đức”
(cai trị bằng đức) và “tề chi dĩ h́nh”
(ổn định bằng h́nh luật). Đây không
phải là đe dọa suông. Tập đă phát động
một chiến dịch chống tham nhũng với quy mô
chưa từng có do Vương Kỳ Sơn, thân tín
của Tập, dẫn dắt. Nỗ lực này
được gọi là chiến dịch “đả
hổ diệt ruồi” do nó hứa hẹn sẽ
bắt giữ mọi quan chức tham nhũng dù đó là
“ruồi” cấp thấp hay là “hổ” cấp cao.
Dưới quyền Vương, 18 tổ đặc
nhiệm đứng đầu là các tổ trưởng
đáng tin cậy trực tiếp báo cáo với
Tập. Từ năm 2012, đă có hơn 900.000 đảng
viên bị kỷ luật và 42.000 đảng viên bị
khai trừ và truy tố tại các ṭa h́nh sự. Trong
đó có 170 “hổ” cấp cao, gồm hàng chục sĩ
quan cao cấp, 18 ủy viên và nguyên ủy viên của
Ủy ban Trung ương gồm 150 người, và
thậm chí cả nguyên ủy viên của Ủy ban Thường
vụ. Và
đối lập với glasnost của
Gorbachev – cởi mở với các tư tưởng
– Tập đ̣i hỏi phải tuân thủ ư thức
hệ, thắt chặt kiểm soát các cuộc thảo
luận chính trị. Đồng thời, Tập cũng
t́m cách củng cố sự tập trung của Đảng
trong nền quản trị Trung Quốc. Đặng t́m
cách tách Đảng khỏi Chính phủ, và tăng cường
hệ thống quan liêu của nhà nước so với
Đảng. Tập lại thẳng thừng bác bỏ
ư tưởng đó. Ít lâu sau khi Tập nắm
quyền, một bài xă luận trên Nhân dân
nhật báo đă thể hiện rơ lập trường
của ông: “Ch́a khóa để vận hành mọi
thứ ở Trung Quốc một cách trơn tru và
hiện thực hóa Giấc mộng Trung Quốc là
nằm ở Đảng”. Thứ
hai, Tập phải
tiếp tục làm Trung Quốc giàu có trở lại. Ông
biết rằng sự ủng hộ của người
dân Trung Quốc đối với Đảng Cộng
sản chủ yếu vẫn phụ thuộc vào khả
năng đem lại những mức tăng trưởng
kinh tế mà không đất nước nào khác đạt
được. Nhưng tiếp tục hiệu quả
kinh tế phi thường của Trung Quốc sẽ
đ̣i hỏi duy tŕ một hành động đầy
rủi ro. Tập rất cảnh giác với cái bẫy
thu nhập trung b́nh mà nhiều nước đang phát
triển vấp phải khi tiền lương tăng làm
giảm lợi thế cạnh tranh của họ trong ngành
chế tạo, và lời hứa không chút mơ hồ
của ông là duy tŕ tăng trưởng 6,5% một năm
đến năm 2021 sẽ đ̣i hỏi cái mà một
số người đă mô tả là “duy tŕ cái không
thể duy tŕ được”. Tuy
nhiên, có một sự nhất trí chung về việc
Trung Quốc phải làm ǵ để tiếp tục tăng
trưởng ở tốc độ đó trong nhiều
năm tới. Các yếu tố then chốt được
nêu ra trong kế hoạch năm năm gần đây
nhất của Trung Quốc, bao gồm: đẩy nhanh
quá tŕnh chuyển đổi sang nhu cầu được
thúc đẩy bằng tiêu dùng trong nước; tái
cấu trúc hoặc đóng cửa các doanh nghiệp nhà
nước kém hiệu quả; tăng cường cơ
sở khoa học và công nghệ để nâng cao đổi
mới; thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp
ở Trung Quốc; và tránh các mức nợ không
bền vững. Với
phạm vi và tham vọng của kế hoạch của
Tập, hầu hết các nhà kinh tế và nhiều nhà
đầu tư phương Tây đều e rằng ông
khó mà đạt được. Nhưng nhiều nhà
kinh tế và nhà đầu tư trong số đó đă
mất tiền khi không đặt cửa cho Trung
Quốc trong 30 năm qua. Như cựu Chủ tịch
Hội đồng Cố vấn Kinh tế của
Tổng thống Reagan Martin Feldstein đă nói, “Không
phải chính sách nào trong số này cũng phải thành
công… Nếu có đủ chính sách đủ thành công,
tăng trưởng 6,5% trong vài năm tới có lẽ
sẽ không nằm ngoài tầm với”. Thứ
ba,
Tập phải làm Trung Quốc tự hào trở
lại. Tăng trưởng kinh tế không thôi chưa
đủ. Ngay cả khi các cải cách thị trường
của Đặng đă mở rộng mức tăng
trưởng kinh tế nhanh chóng sau năm 1989, Đảng
cũng phải vật lộn để chứng minh lư
do tồn tại của ḿnh khi chủ nghĩa cộng
sản chỉ c̣n là danh nghĩa. Vậy th́ tại sao
người Trung Quốc lại nên cho phép Đảng
cai trị ḿnh? Câu trả lời: Đảng là một
ư thức được làm mới về bản
sắc dân tộc có thể được đón
nhận rộng răi một cách tự hào trong số
một tỷ người Trung Quốc. Trong
khi Cách mạng Văn hóa của Mao cố gắng xóa
bỏ quá khứ cổ xưa của Trung Quốc và
thay thế nó bằng “con người xă hội
chủ nghĩa mới” của chủ nghĩa cộng
sản, Tập lại ngày càng thể hiện Đảng
như là lực lượng kế thừa và kế
vị một đế chế Trung Quốc 5.000 năm
tuổi chỉ bị hạ bệ bởi phương Tây
cướp bóc. Câu “vật vong quốc sỉ”
(chớ quên sự ô nhục của đất nước)
đă trở thành một câu thần chú dung dưỡng
t́nh cảm ái quốc dựa trên tư tưởng ḿnh
là nạn nhân và thấm đẫm một đ̣i
hỏi phải báo thù. Như cựu Giám đốc văn
pḥng Bắc Kinh của tờ Financial Times Geoff
Dyer đă giải thích, “Đảng Cộng sản
phải đối mặt với một mối đe
dọa đang nóng dần lên đối với tính chính
danh của ḿnh kể từ khi từ bỏ Marx để
theo thị trường”. Do đó Đảng đă
gợi lên những sự ô nhục của quá khứ dưới
bàn tay Nhật Bản và phương Tây “để
tạo ra một ư thức đoàn kết vốn đă
vụn vỡ, và để xác định một
bản sắc Trung Quốc về cơ bản là mâu
thuẫn với tính hiện đại của Mỹ”. Cách
tiếp cận này đang có hiệu quả. Trong
những năm 1990, khi nhiều trí thức phương
Tây ăn mừng “sự
kết thúc của lịch sử” với
chiến thắng rơ ràng của các nền dân chủ
dựa trên thị trường, nhiều nhà quan sát
đă tin rằng Trung Quốc cũng đang trên
đường tiến tới một chính phủ dân
chủ. Ngày nay, rất ít người ở Trung
Quốc cho rằng các quyền tự do chính trị quan
trọng hơn việc giành lại vị thế
quốc tế và niềm tự hào dân tộc của
Trung Quốc. Như ông Lư đă nói rơ, “Nếu anh tin
là sẽ có một cuộc cách mạng đ̣i dân
chủ ở Trung Quốc th́ anh sai rồi. Các sinh viên
Thiên An Môn giờ ở đâu?” Ông trả lời
thẳng thừng: “Họ đă lỗi thời. Người
Trung Quốc muốn một Trung Quốc phục hưng”. Cuối
cùng, Tập đă cam kết làm Trung Quốc mạnh
mẽ trở lại. Ông tin rằng một quân đội
“có khả năng chiến đấu và chiến
thắng các cuộc chiến” là tối quan trọng
đối với việc hiện thực hóa mọi thành
tố khác trong Giấc mộng Trung Quốc. “Để
đạt được công cuộc đại
phục hưng dân tộc Trung Quốc”, ông nói, “chúng
ta phải đảm bảo sự thống nhất
giữa một đất nước thịnh vượng
và một quân đội hùng mạnh”. Dù mọi cường
quốc đều xây dựng các đội quân
mạnh, “Giấc mộng Quân đội Hùng
mạnh” này là đặc biệt quan trọng đối
với Trung Quốc khi nó t́m cách vượt qua nỗi
ô nhục dưới tay các cường quốc nước
ngoài. Bất
chấp mọi thách thức khác trong nghị tŕnh
của ḿnh, Tập đang cùng lúc tái tổ chức và
tái thiết các lực lượng vũ trang của
Trung Quốc theo cách mà chuyên gia hàng đầu của
Nga về quân đội Trung Quốc Andrei Kokoshin gọi
là “chưa từng có về quy mô và chiều sâu”. Ông
đă xử lư nạn đút lót trong quân đội và
cải tổ tổ chức vốn tập trung vào
nội địa của nó để tập trung vào các
chiến dịch hợp đồng tác chiến
chống lại các kẻ thù bên ngoài. Việc
xáo trộn bộ máy quan liêu như vậy thường
không phải là một sự kiện lạ lùng. Nhưng
trong trường hợp của Tập nó đă
nhấn mạnh cam kết hết sức nghiêm túc
của Bắc Kinh là xây dựng một quân đội
hiện đại có thể đương đầu
và đánh bại mọi đối thủ – nhất là
Mỹ. Dù các nhà hoạch định quân sự của
Trung Quốc không dự tính một cuộc chiến
tranh, cuộc chiến mà họ đang chuẩn bị
lại đặt Trung Quốc vào thế cạnh tranh
với Mỹ trên biển. Tập đă tăng cường
các lực lượng hải quân, không quân, và tên
lửa của Quân Giải phóng Nhân dân vốn hết
sức quan trọng đối với việc kiểm soát
các vùng biển, trong khi cắt giảm 300.000 lính bộ
và giảm sự thống trị truyền thống
của các lực lượng trên đất liền
trong quân đội. Trong
khi đó, các chiến lược gia quân sự của
Trung Quốc đang chuẩn bị cho xung đột trên
biển bằng một chiến lược “tiền
duyên pḥng ngự” (forward defense) dựa trên việc
kiểm soát các vùng biển gần Trung Quốc nằm
trong “chuỗi đảo thứ nhất”, chạy
từ Nhật Bản, qua Đài Loan, đến
Philippines và Biển Đông. Bằng cách triển khai các
năng lực quân sự chống tiếp
cận/chống xâm nhập (A2/AD) đe dọa đến
các tàu sân bay và các tàu chủ lực khác của Hoa
Kỳ, Trung Quốc đă liên tục đẩy Hải
quân Hoa Kỳ ra khỏi các vùng biển lân cận
của ḿnh pḥng khi có xung đột. Một nghiên
cứu đáng tin cậy của tổ chức RAND năm
2015 cho thấy rằng đến cuối năm 2017 Trung
Quốc sẽ có “lợi thế” hoặc “tương
đối ngang hàng” trong sáu trên chín lĩnh vực năng
lực quân sự truyền thống vốn rất quan
trọng trong một cuộc đối đầu ở
Đài Loan, và bốn trên chín lĩnh vực trong
một cuộc tranh chấp trên Biển Đông. Nghiên
cứu này kết luận rằng trong ṿng từ 5 đến
15 năm tới, “châu Á sẽ chứng kiến một
đường ranh giới dần dần rút lui của
sự thống trị của Hoa Kỳ”. Trong
lúc từ từ ép Mỹ ra khỏi các vùng biển này,
Trung Quốc cũng kéo các nước Đông Nam Á vào
quỹ đạo kinh tế của ḿnh, cũng như
cả Nhật Bản và Úc. Đến nay nó đă thành
công mà không phải chiến đấu. Nhưng nếu
phải chiến đấu, Tập muốn Trung Quốc
thắng. ***** Liệu
Tập có thành công trong việc đưa Trung Quốc
phát triển đủ mạnh để thay thế
Mỹ trong vai tṛ là nền kinh tế hàng đầu
thế giới và chủ thể quyền lực
nhất ở Tây Thái B́nh Dương hay không? Ông có
thể làm Trung Quốc vĩ đại trở lại
hay không? Hiển nhiên là mọi chuyện có thể
diễn biến xấu đi theo rất nhiều cách, và
những tham vọng phi thường này đă khiến
hầu hết các nhà quan sát hoài nghi. Nhưng khi
được hỏi, Lư Quang Diệu đă đánh giá
tỷ lệ thành công là bốn trên năm. Cả ông Lư
lẫn tôi đều đặt cửa cho Tập. Như
ông Lư nói, “ư thức về số phận được
gợi lại [của Trung Quốc] là một sức
mạnh vượt trội”. Nhưng
nhiều người Mỹ vẫn c̣n phủ nhận ư
nghĩa của sự chuyển ḿnh từ một nước
nông nghiệp lạc hậu sang “chủ thể lớn
nhất trong lịch sử thế giới” của Trung
Quốc với Hoa Kỳ. Khi
một Trung Quốc đang lên nhanh chóng thách thức
sự thống trị quen thuộc của Hoa Kỳ, hai
nước có nguy cơ rơi vào một cái bẫy
chết người được xác định
lần đầu bởi sử gia Hy Lạp cổ đại
Thucydides. Viết về một cuộc chiến đă tàn
phá hai thành bang hàng đầu của Hy Lạp cổ
đại cách đây hai thiên niên kỷ rưỡi, ông
giải thích: “Chính sự trỗi dậy của Athens
và nỗi sợ điều này sẽ lan đến
Sparta đă làm cuộc chiến này trở nên không
thể tránh khỏi”. Năm
2015, tờ The Atlantic cho đăng bài “Bẫy
Thucydides: Hoa Kỳ và Trung Quốc đang đâm đầu
vào chiến tranh?” Trong tiểu luận này tôi
lập luận rằng ẩn dụ lịch sử này
cung cấp những ống kính tốt nhất để
làm sáng tỏ mối quan hệ giữa Trung Quốc và
Mỹ ngày nay. Kể từ đó, khái niệm này đă
khơi mào một cuộc tranh luận đáng kể.
Thay v́ đối mặt với bằng chứng và suy
nghĩ về những điều chỉnh không
thoải mái nhưng cần thiết mà cả hai bên có
thể phải thực hiện, các nhà hoạch định
chính sách và các vị nguyên thủ đă dựng
một con bù nh́n rơm quanh tuyên bố của Thucydides
về sự “không thể tránh khỏi” và châm
lửa – cho rằng cuộc chiến giữa Washington và
Bắc Kinh là không định trước. Tại
cuộc gặp cấp cao năm 2015, Tổng thống
Barack Obama và Chủ tịch Tập Cận B́nh đă
thảo luận chi tiết về cái bẫy này. Obama
nhấn mạnh rằng bất chấp căng thẳng
cấu trúc mà sự trỗi dậy của Trung Quốc
gây ra, “hai nước vẫn có khả năng quản
lư những bất đồng”. Đồng thời,
họ cũng thừa nhận rằng, theo lời
của Tập, “nếu liên tục phạm phải
những sai lầm tính toán chiến lược th́ các
nước lớn có thể sẽ tự tạo ra
những cái bẫy như vậy cho chính ḿnh”. Tôi
đồng ư: Cuộc chiến giữa Mỹ và Trung
Quốc không phải là không thể tránh khỏi.
Quả thật, Thucydides cũng sẽ đồng ư
rằng cuộc chiến giữa Athens và Sparta cũng
thế. Đặt vào bối cảnh, rơ ràng tuyên
bố của ông về sự không thể tránh khỏi
của cuộc chiến ấy là cường điệu:
cường điệu v́ mục đích nhấn
mạnh. Ư chính của cái bẫy Thucydides không phải
là niềm tin vào số mệnh định sẵn hay thái
độ bi quan. Thay vào đó, nó đưa chúng ta ra
khỏi những tiêu đề báo chí và luận điệu
của chế độ để nhận ra sự căng
thẳng cấu trúc vô cùng lớn mà Bắc Kinh và
Washington phải quản lư để xây dựng
được một mối quan hệ ḥa b́nh. Liệu
cuộc đụng độ sắp tới giữa hai
cường quốc này có dẫn đến chiến
tranh hay không? Liệu Tổng thống Trump và Chủ
tịch Tập, hoặc những người kế
nhiệm họ, có giẫm vào vết xe đổ đầy
bi kịch của các nhà lănh đạo của Athens và
Sparta hay của Anh và Đức hay không? Liệu họ
có t́m được một cách tránh được
chiến tranh hiệu quả như Anh và Mỹ đă làm
cách đây một thế kỷ, hay như Mỹ và Liên
Xô đă làm trong bốn thập niên Chiến tranh
Lạnh hay không? Rơ ràng là không ai biết được.
Tuy nhiên, chúng ta có thể chắc chắn rằng động
lực mà Thucydides đă xác định trước
đây sẽ c̣n tăng cường trong những năm
tới. Phủ
nhận cái bẫy Thucydides sẽ không làm nó bớt
thực tế hơn. Thừa nhận nó cũng không có
nghĩa là phải chấp nhận bất cứ
chuyện ǵ xảy ra. V́ các thế hệ trong tương
lai, chúng ta có trách nhiệm trước mắt là
phải đối mặt với một trong những
khuynh hướng tàn bạo nhất của lịch
sử và sau đó làm mọi thứ chúng ta có thể
để tạo nên kỳ tích. Graham
Allison Tram Nguyen & Nguyễn Huy Hoàng biên
dịch (*) Graham Allison là Giám đốc Trung tâm Belfer về Khoa học và Quan hệ Quốc tế và Giáo sư ngành quản trị công tại Trường Quản lư Nhà nước John F. Kennedy thuộc Đại học Harvard. Bài viết này được chuyển thể từ cuốn sách mới xuất bản của ông, Destined for War: Can America and China Escape Thucydides’s Trap? (Houghton Mifflin Harcourt, 2017). |