Kinh tế là đề tài tạo nhiều
hiểu lầm và tranh căi nhất, chỉ v́ chính
quyền Obama với sự đồng lơa của TTDC
cố t́nh tung hỏa mù che dấu sự thật trong
một vấn đề hết sức phức tạp mà
người dân b́nh thường khó hiểu rơ giữa
một rừng thống kê.
TT Obama lănh một gia tài khủng khiếp: khủng
hoảng tài chánh và kinh tế có thể nói lớn
nhất thế kỷ. Bài ca của TT Obama: đây là
đại họa do TT Bush gây ra, may nhờ có phép
lạ Obama chứ không th́ nước Mỹ đă thành…
băi tha ma rồi.
Sự thật, phải lập lại một lần
nữa: cuộc khủng hoảng chỉ là hậu
quả tích lũy mấy chục năm của 2
quyết định mỵ dân sai lầm vĩ đại
của 2 tổng thống DC, Jimmy Carter và Bill Clinton. Năm
2008, nước tràn khỏi ly, cho dù tổng thống nào
nắm quyền cũng lănh đạn. Chẳng qua TT
Bush có “số ăn mày”, làm tổng thống không
đúng lúc. Nhưng ông cũng là tổng thống đă
lấy những biện pháp cứu chữa cần
thiết ngay trước khi TT Obama nhậm chức.
Cả trăm cuốn sách đă bàn về đề tài
này, nên t́m đọc để có thể nhận định
trong sự hiểu biết thay v́ nhắm mắt phê phán
theo phe phái. (*)
Năm 1978, TT Carter ra luật Community Reinvestment Act,
Luật Tái Đầu Tư Vào Cộng Đồng,
bắt các ngân hàng giúp phát triển cộng đồng,
thực tế là ép ngân hàng cho dân da đen mượn
tiền mua nhà nhiều hơn. Nhưng khối dân này
phần lớn không đủ tiêu chuẩn vay mượn.
Các ngân hàng bị ép phải dễ dăi hoá, đưa
đến sự ra đời của nợ dưới
tiêu chuẩn –subprime loans. TT Carter chính là cha đẻ
của nợ dưới tiêu chuẩn.
Chính sách này bị đóng băng 12 năm dưới
thời TT Reagan và TT Bush cha. Với TT Clinton từ 1993,
bộc phát mạnh lại, nhất là sau khi ông thu
hồi luật kiểm soát ngân hàng Glass-Steagall Act đă
có từ đầu thế kỷ, thả lỏng cho các
ngân hàng sát nhập vào nhau thành những đại
tập đoàn thao túng thị trường tài chánh
cả thế giới, chế ra đủ loại
nợ và công cụ tài chánh hắc ám mà chẳng ai
kiểm soát được.
Nhưng quan trọng nhất là việc chính quyền
Clinton áp lực hai tổ chức tài chánh bán công Fannie
Mae và Freddie Mac mua lại tối đa những nợ mua
nhà của ngân hàng để các ngân hàng có tiền
cấp thêm nợ nữa. Các ngân hàng không c̣n sợ
bị nợ xấu v́ có thể bán hết các nợ
lại cho hai tổ chức này, nên càng hạ thấp
tiêu chuẩn cho vay. Bao nhiêu nợ xấu, hai tổ
chức này hốt hết. Ṿng xoáy đi vào khủng
hoảng.
TT Bush con nhậm chức đầu 2001, chưa kịp làm
ǵ th́ xẩy ra vụ 9/11 đảo lộn mọi chương
tŕnh. Dù vậy, đầu 2003, bộ trưởng Tài
Chánh, John Snow, cũng ra trước quốc hội,
cảnh giác mối nguy hại của nợ mua nhà quá
nhiều, quá dễ, yêu cầu quốc hội xiết
chặt việc kiểm soát ngân hàng. Phe DC, cầm đầu
bởi nghị sĩ Chuck Schumer (New York) và dân biểu
Barney Frank (Massachusetts), la hoảng “T́nh trạng rất
tốt đẹp, Bush kiếm cớ không cho dân nghèo
mua nhà!” Từ 2003 đến 2007, TT Bush yêu cầu
quốc hội kiểm soát ngân hàng chặt lại
tổng cộng 17 lần. Khối đa số DC
biểu quyết chống không trừ một người.
Cho đến ngày khủng hoảng nổ bùng tháng
10/2008 (1).
Khủng hoảng xẩy ra dưới thời Bush, nhưng
thực sự, ông không phải là tác giả của chính
sách mỵ dân cho vay ào ạt, cũng chẳng siết
chặt tín dụng lại được v́ bị
quốc hội DC khóa tay khi họ chỉ nh́n thấy
số dân nghèo mua nhà tăng vọt, bảo đảm
cái ghế dân cử của họ.
Đổ lỗi Bush tạo ra đại khủng
hoảng hay tố mấy tổng thống CH như
Reagan, Bush cha và con đă không làm ǵ để kiểm
soát bong bóng gia cư là không hiểu ǵ về câu
chuyện, hay cố t́nh viết lại lịch sử.
Phe ta khoe công của TT Obama đă chặn đứng
khủng hoảng và khôi phục kinh tế qua các
biện pháp cứu hệ thống tài chánh, cứu các
hăng xe, kích động kinh tế, v.v…
Sự thật, triệu chứng khủng hoảng
hiện rơ nét từ giữa 2008, khi Fannie Mae và Freddie Mac
ôm khoảng 5.000 tỷ nợ; lỗ 15 tỷ trong năm.
Tháng 9/2008, TT Bush bơm 200 tỷ mua cổ phiếu và
cấp tín dụng, đặt cả hai tổ chức dưới
sự giám sát –conservatorship- của chính phủ để
cứu cả hai.
TT Bush tháng 10/2008 kư luật TARP [Troubled Assets Recovery
Program], ứng ra 700 tỷ tiền mặt ra cứu
hệ thống ngân hàng. Cả trăm ngân hàng nhận
được tiền mặt để có đủ
thanh khoản giữ niềm tin của quần chúng trong
khi các biện pháp cải tổ được áp
dụng để giải quyết khối nợ
xấu. Một số lớn nợ xấu được
chính phủ mua lại. Điều đáng nói là sau này,
Nhà Nước đă thu lại đầy đủ 700
tỷ không mất xu nào mà c̣n lời v́ tiền lăi các
ngân hàng phải hoàn trả lại cho Nhà Nước.
Sau đó, cũng TT Bush khẩn cấp trích ra 17,5 tỷ
trong TARP cho hai hăng xe GM và Chrysler có tiền trả
nợ và trả lương nhân viên, khỏi khai phá
sản tháng 12/2008. Sau khi TT Obama nhậm chức th́ ông
tiếp tục cứu hai hăng xe này thật, nhưng cách
TT Obama “cứu” kỹ nghệ xe hơi là đề tài
tranh căi bất tận v́ cái giá kinh hoàng phải
trả dưới áp lực của các nghiệp đoàn
muốn TT Obama phải cứu hai hăng xe này bằng
mọi giá để giữ việc làm cho họ. Ông
“cứu” bằng cách bắt cả hai công ty khai phá
sản, xù hàng tỷ tiền nợ [nợ ngân hàng,
nợ các nhà cung cấp phụ tùng, nợ các đại
lư khiến 2.500 đại lư bán xe phá sản], xóa hàng
tỷ bạc trái phiếu và cổ phiếu khiến hàng
triệu người mất tiền đầu tư,
tiền để dành qua các quỹ hưu. Khác với
biện pháp TARP, lần này Nhà Nước mất đứt
23 tỷ, và phải bán tháo Chrysler cho Fiat, chỉ
cứu được GM. (2).
TT Obama khoe đă cải tổ luật kiểm soát ngân
hàng, sẽ không c̣n khủng hoảng kiểu 2008
nữa. Chuyện này sẽ chẳng ai kiểm chứng
được cho đến khi khủng hoảng
lần tới nổ bùng ra.
Riêng về kích cầu th́ luật kích cầu đầu
tiên được TT Bush ban hành từ tháng 2/2008
[Economic Stimulus Act of 2008], một năm trước khi TT
Obama nhậm chức.
Biện pháp kích cầu này chưa đủ, TT Obama
đưa ra luật kích cầu mới (American Recovery and
Reinvestment Act of 2009), tổng cộng 800 tỷ. Ông rao bán
luật mới: thất nghiệp khi đó đang ở
mức nguy hiểm 6%, chấp nhận kế hoạch kích
cầu của ông th́ thất nghiệp sẽ giảm
ngay xuống mức b́nh thường 4%-5%, không phê
chuẩn th́ thất nghiệp sẽ tăng lên mức
nguy hiểm 8% ngay. Lưỡng viện quốc hội do
DC kiểm soát, mau mắn tuân lệnh, không có một
phiếu nào của CH hết.
Khác với luật kích cầu của TT Bush dựa trên
giảm thuế để dân có tiền mua sắm để
kích động lại kinh tế, luật của TT Obama
theo đúng sách vở cấp tiến neo-keynesian, tung
tiền thuế của dân cho hàng ngàn dự án chi tiêu
đủ loại của Nhà Nước, lặt
vặt, phần nhiều chẳng có tác động ǵ
quan trọng, kiểu như… trồng hoa trong nhà tù (!)
và một số lớn đi vào foodstamps, trợ
cấp an sinh, medicaid, và triển hạn trợ cấp
thất nghiệp. Chẳng bao nhiêu tiền được
tung vào khu vực sản xuất, khiến không giảm
thất nghiệp được mà lại đẻ ra
phong trào Tea Party chống việc lấy tiền thuế
nuôi dân suốt ngày nằm nhà nướng hăm-bơ-ghơ,
uống bia, coi football, hay… đẻ con.
Luật được thông qua, nhưng trái với
lời rao hàng của TT Obama, chưa đầy nửa năm
sau, thất nghiệp vọt lên… 10%. TT Obama bẻn
lẻn thú nhận “no shovel-ready big projects”, tức là
không có dự án lớn nào sẵn sàng để
thực hiện. Dù vậy, 800 tỷ cũng mau chóng
được tiêu sạch.
Tỷ lệ thất nghiệp măi cho đến cuối
2014 mới bắt đầu giảm xuống rất
chậm cho tới 4,6% tháng 11/2016 (với gần 8
triệu người thất nghiệp), vẫn cao hơn
mức thất nghiệp của TT Bush trước
khủng hoảng là 4,4% tháng 7/2007 (3). Tức là sau 8 năm,
vẫn chưa phục hồi hoàn toàn.
Hai tỷ lệ thất nghiệp nêu trên của TT Obama
và TT Bush có vẻ bằng nhau, nhưng thật ra không so
sánh với nhau được. Khi TT Obama nhậm
chức, có 80 T (triệu) người nằm ngoài
thị trường lao động, tức là không tính
trong tỷ lệ thất nghiệp. Tháng 11/2016, có
tới 95 T, tức là có thêm 15 T người đă
bị loại khỏi thị trường lao động
(4). Trong 95 T đó, đại khái có 40 T về hưu,
15 T sinh viên, 5 T linh tinh (quân nhân, tù nhân, người
bệnh,…), c̣n lại 35 T thất nghiệp quá lâu.
Nếu kể cả số người thất
nghiệp quá lâu này th́ tỷ lệ thất nghiệp
thực thụ là 9,3% chứ không c̣n là 4,6% nữa, theo
đài truyền h́nh CNBC [phe ta đấy] (5).
Ở đây, cũng phải nói thêm là số người
bị loại ra khỏi thống kê lao động c̣n
được tăng cường bởi số người
về hưu non và sinh viên tiếp tục đi học
không gia nhập thị trường lao động
được v́ không t́m được việc làm.
Theo Newsweek [cũng phe ta đấy], nếu kể
tất cả th́ tỷ lệ thất nghiệp thực
thụ là 12,1% cuối 2016, một kỷ lục khác
rất xa với cái 4,6% mà TT Obama khoe (6). Tỷ lệ dân
số có việc làm là 62%, thấp nhất kể
từ thời TT Carter cách đây hơn 40 năm.
TT Obama khoe là ông đă tạo được 14 T
việc làm. Đâu là sự thật? Đây là
những con số chính thức:
- Tháng 2/2009 (TT Obama nhậm chức): 134 T người có
việc.
- Tháng 12/2009 (thất nghiệp cao nhất): 130 T người
có việc, tức là mới có thêm 4 T người
mất việc từ ngày TT Obama nhậm chức.
- Tháng 9/2016 (thống kê mới nhất): 144 T người
có việc.
- Kết số thuần từ thất nghiệp thấp
nhất đến thất nghiệp cao nhất: 144 –
130 = 14 T việc được “tạo” ra (đây là
cách tính của TT Obama).
- Kết số thuần tính theo nhiệm kỳ: 144 –
134 = 10 T việc được “tạo” ra từ ngày
TT Obama nhậm chức.
- Số việc bị mất trong khủng hoảng, sau
đó có lại: 9 T (7)
- Số việc làm “mới” thực sự
“tạo” ra dưới 2 nhiệm kỳ Obama: 10 - 9 = 1
T.
Tính theo cách tương tự th́ TT Bush tạo ra hơn
8 T việc nhưng mất 7 T (3 T trong khủng hoảng dot.com
năm 2001 do TT Clinton để lại, và 4 T trong
khủng hoảng gia cư), tức là thực sự cũng
đă tạo ra có 1 T việc làm mới.
Tức là TT Bush và TT Obama, mỗi người thực
sự chỉ tạo được 1 T việc làm
mới. TT Clinton may mắn không gặp khủng
hoảng, tạo được gần 23 T việc trong
2 nhiệm kỳ của ông. (8)
Nhưng cuộc phục hồi của TT Obama với 10 T
người có việc lại, theo New York Times (vẫn
phe ta), lại được đánh dấu bằng
kỷ lục số người t́m được
việc làm với mức lương thấp hơn (9),
và kỷ lục số người làm việc bán
thời không có quyền lợi nghỉ hè hay bảo
hiểm y tế. Tỷ lệ thất nghiệp U-6,
tức là tỷ lệ kể cả những người
chỉ kiếm được việc bán thời đă
giảm từ cao điểm khủng hoảng 17% năm
2009 xuống 9,5% tháng 10/2016, nhưng vẫn cao hơn
mức trước khủng hoảng của TT Bush là
7,9%. (10)
Một đặc điểm nữa: số việc làm
trong khu vực chế xuất [manufacturing sector] động
cơ quan trọng nhất của kinh tế, khi TT Obama
nhậm chức là 12,4 T, đến tháng 11/2016 là 12,3 T.
Giảm 100.000 trong 8 năm (11). Tức là 10 T việc TT
Obama “tạo” ra hay phục hồi lại, phần
lớn nằm trong khu vực công chức [public sector - không
chế toạ ǵ] và dịch vụ [service sector -
kiểu nhà hàng McDonald, cũng chẳng sản xuất ǵ,
mà lại trả lương tối thiểu].
Khó ai có thể chối căi, kinh tế Mỹ đang
chuyển hướng mạnh v́ những tiến bộ
khoa học, khiến máy móc và computer càng ngày càng thay
thế con người, cũng như khuynh hướng
toàn cầu hoá đă chuyển jobs qua những xứ
chậm tiến, đưa đến t́nh trạng
thất nghiệp cao ở Mỹ. Hiểu vậy, nhưng
vấn đề đặt ra là chính quyền Obama
đă làm ǵ để đối phó với t́nh
trạng này? Nhiều kinh tế gia đă kêu gọi Nhà
Nước giúp thiên hạ chuyển ngành, học
nghề mới,... hay giảm thuế giúp tạo cơ
sở kinh doanh mới tại Mỹ, hay ngăn cản các
công ty di chuyển ra ngoài nước.
Chính quyền Obama đă làm ǵ? Mắc tranh căi những
chuyện phải đạo chính trị như xây
cầu tiêu cho dân chuyển giới.
TT Obama quá tệ? Không hẳn. Sự thật là phục
hồi hay tăng trưởng kinh tế, thất
nghiệp, chưa bao giờ là ưu tư của TT Obama
bất kể ông tuyên bố chuyện ǵ. Nói như
Mỹ, ông không... care!
TT Obama quan niệm khủng hoảng kinh tế hay
thất nghiệp cao chỉ là những hiện tượng
chu kỳ, đến rồi đi. Do đó, ưu tiên
của ông trong hai năm đầu là làm sao thông qua
được thành quả để đời là
Obamacare, v́ ông sợ đến bầu cử năm
2010, CH có thể chiếm lại đa số tại
quốc hội và ông sẽ mất cơ hội ngàn năm
một thuở để thông qua Obamacare. Ở đây,
TT Obama tính toán rất chính xác. Năm 2010, CH chiếm
đa số tại Hạ Viện đúng như ông lo
sợ.
Khi ông chú tâm vào kinh tế, th́ ưu tiên của ông không
phải là phục hồi và tăng trưởng kinh
tế lại, mà là tái phân phối lợi tức, vay
tiền tứ tung để ban phát lại với
chủ đích giảm cách biệt lợi tức, nâng
đỡ các thành phần lợi tức thấp.
Kết quả khá rơ nét với 4 kỷ lục:
1. kỷ lục công nợ trong 7 năm: tăng từ
10.000 tỷ lên gần gấp đôi, 19.000 tỷ;
2. kỷ lục thâm thủng ngân sách: tổng cộng
7.100 tỷ trong 7 năm đầu của TT Obama, so
với 1.700 tỷ thâm thủng trong 7 năm đầu
của TT Bush. (12)
3. kỷ lục số người sống nhờ
trợ cấp dưới h́nh thức này hay khác, 153 T,
một nửa dân Mỹ; (13)
4. kỷ lục số người lănh phiếu thực
phẩm foodstamp, 51 T, cứ 6 người dân th́ 1 người
sống nhờ foodstamps. (13)
Nếu định nghiă kinh tế thành công là kinh
tế trói dân nghèo vào trợ cấp để
được tái đắc cử th́ TT Obama là
một thiên tài. Nếu định nghiă kinh tế thành
công là làm cho dân giàu, tự lực cánh sinh, th́ TT Obama
là một đại hoạ.
Các chuyên gia kinh tế ghi nhận khủng hoảng kinh
tế chấm dứt tháng 6/2009. Từ đó đến
nay, kinh tế đă từ từ phục hồi
lại. Nhưng TT Obama đă là tổng thống duy
nhất trong lịch sử cận đại chủ tŕ
một nền kinh tế chưa bao giờ biết tăng
trưởng 3% là ǵ. Không ai có thể nói kinh tế chưa
phục hồi, nhưng phục hồi kinh tế
của TT Obama, theo CNN [vẫn phe ta đấy] là
cuộc phục hồi tốn kém, chậm và yếu
nhất lịch sử Mỹ. (14)
Phe ta thường khua chiêng trống về sự tăng
vọt của các chỉ số chứng khoán như
một thành công của chính sách kinh tế Obama. Chỉ
số Dow Jones ở khoảng 8.000 điểm khi TT Obama
nhậm chức, hiện nay đă xấp xỉ 20.000. Quá
tốt? Ta thử nh́n kỹ hơn.
Áp dụng châm ngôn của cựu Chánh Văn Pḥng
của TT Obama, Rahm Emanuel, “không nên để mất cơ
hội do khủng hoảng tạo ra”, các công ty Mỹ
lợi dụng khủng hoảng kinh tế năm 2008-09,
sa thải hàng triệu nhân công, tinh giản hoá, cơ
giới hoá và điện toán hoá tối đa, rồi
thuê lại một phần nhân viên nhưng bán thời
hay với mức lương thấp hơn. Kết
quả là tiết kiệm được tiền lương,
tức là mục chi tiêu lớn nhất, và lời to.
Thế là trị giá cổ phiếu tăng vọt.
Chứng khoán tăng như vậy ai hưởng
lợi? Lợi cho tài phiệt hay dân lao động
cả đời chưa biết được cái
cổ phiếu h́nh thù như thế nào? Nhà đầu
tư tỷ phú Warren Buffett trong năm 2016 thấy gia tài
ḿnh tăng thêm 12 tỷ, hay mỗi tháng một tỷ.
Quư độc giả thấy lương ḿnh tăng
mỗi tháng bao nhiêu khi Dow Jones tăng ào ào mấy năm
qua? Vài ngàn ông tài phiệt làm giàu to trên lưng cả
triệu công nhân bị mất job: chính sách kinh tế
đó tốt hay xấu? Hăy hỏi đám thợ
thuyền đă bầu cho Trump tại sao họ không
mừng khi thấy Dow Jones nhẩy vọt?
Nhiều người cho rằng chứng khoán tăng, công
ty có thêm vốn, sẽ đầu tư mở hăng xưởng,
tạo công ăn việc làm. Nền tảng của kinh
tế tư bản? Quá tốt? Không hẳn. Ông Buffett
mở bao nhiêu hăng, mướn thêm bao nhiêu nhân viên?
Zero! Một ví dụ khác: Apple. Giá cổ phiếu Apple là
khoảng 25 đô năm 2008. Giá mới nhất hơn
100 đô, tăng gấp 4 lần. Apple mở bao nhiêu hăng
xưởng, mướn thêm bao nhiêu người? Cũng
zero! Apple tích luỹ hơn 250 tỷ tiền mặt,
để hết ở ngoài nước, lập hăng
lắp iPhone tại Trung Cộng, chỉ giúp cho kinh
tế TC chứ không phải kinh tế Mỹ. Tại
sao? V́ TT Obama suốt ngày đe dọa tăng thuế các
đại công ty.
Ở đây có điểm đáng nói nữa. Chỉ
số cổ phiếu tăng vọt làm giàu cho các đại
gia Wall Street. Đối chiếu với những kỷ
lục dân sống nhờ trợ cấp, ta thấy hai
khối dân tăng vọt: khối giàu nhất và
khối nghèo nhất: tức là khoảng cách giàu nghèo
ngày càng lớn rộng thêm dưới chính sách kinh
tế của TT Obama.
Các quan thái giám CNN mới đây tung hô Hoàng Đế
Obama đă để lại một gia tài tuyệt
vời cho TT Trump khi kinh tế đă tăng trưởng
tới 3,2% trong quư 3 năm nay. Hơn 9.000 tỷ công
nợ, 7.000 tỷ bội chi ngân sách, và 2.000 tỷ
tiền bơm vào kinh tế qua chính sách dễ dăi
tiền (Quantitative Easing – QE), mà chỉ đẻ ra
được 3% tăng trưởng sau 8 năm? Vác dao
mổ trâu đập được con nhặng rồi
đấm ngực khoe công?
Thật ra, cái gia tài huy hoàng mà TT Obama để lại
cho TT Trump chính là 19.000 tỷ công nợ và 7.000 tỷ thâm
thủng ngân sách mà TT Trump sẽ không giải quyết
được cho dù làm 5 nhiệm kỳ. Chưa kể
một nửa dân Mỹ lệ thuộc trợ cấp.
(01/01/17)
(*) Muốn biết rơ câu chuyện khủng hoảng gia
cư, đọc Reckless Endangerment – Gretchen Morgenson (Chuyên
gia tài chánh của New York Times)
(1) https://www.youtube.com/watch?v=cMnSp4qEXNM
(2) http://www.politifact.com/truth-o-meter/article/2012/sep/06/did-obama-save-us-automobile-industry/
(Politifact)
(3) http://data.bls.gov/timeseries/LNS14000000
(4) http://data.bls.gov/timeseries/LNS15000000
(5) https://www.yahoo.com/finance/news/many-them-doing-95-million-175823008.html
(6) http://www.newsweek.com/big-lie-rosy-unemployment-rate-489897
http://www.forbes.com/sites/louisefron/2014/08/20/tackling-the-real-unemployment-rate-12-6/#2509875b1e12
(7) https://www.google.com.vn/webhp?sourceid=chrome-instant&ion=1&espv=2&ie=UTF
8#q=how+many+jobs+were+lost+in+the+great+recession
(8) https://en.wikipedia.org/wiki/Jobs_created_during_U.S._presidential_terms
(9) http://www.nytimes.com/2014/04/28/business/economy/recovery-has-created-far-more-low-wage-jobs-than-better-paid-ones.html
(10) http://www.macrotrends.net/1377/u6-unemployment-rate
(11) http://data.bls.gov/timeseries/CES3000000001
(12) http://federal-budget.insidegov.com
(13) http://www.cnsnews.com/commentary/terence-p-jeffrey/354-percent-109631000-welfare
(thống kê năm 2012, từ đó đến nay
chỉ tăng chứ không giảm)
(14) http://money.cnn.com/2016/10/05/news/economy/us-recovery-slowest-since-wwii/index.html?iid=EL
Vũ Linh
(Tác giả chân thành xin lỗi v́ bài viết có
nhiều số quá và cũng dài, khó đọc, nhưng
cần thiết để độc giả tham khảo
hay kiểm chứng một đề tài quan trọng)
|