Hậu quả của cuộc chiến tranh xâm lược
Ukraine của Nga đối
với Ba Lan Tác
giả: Piotr Arak Đỗ Kim Thêm, dịch |
Tóm
tắt: Là một lân bang, Ba Lan đang gánh chịu
những ảnh hưởng nặng nề trong cuộc
chiến tranh xâm lược của Nga tại Ukraine.
Cuộc xung đột vũ trang đă tác động
đến từng người dân Ba Lan, một phần
v́ sự hiện diện của người tị
nạn ở Ba Lan. Do Belarus hỗ trợ, sự xâm lược
của Nga tại Ukraine ngoài ra cũng có tác động
đến toàn cầu và cả nền kinh tế Ba Lan.
Các hậu quả của chiến tranh đă thể
hiện rơ trong các chỉ số lạm phát, tâm lư xă
hội, thị trường lao động, khí đốt
và dầu mỏ. Trong năm
nay, do hậu quả của cuộc gây chiến của
Nga tại Ukraine, mức tăng trưởng kinh tế
Ba Lan có thể thấp hơn khoảng 3,5% tổng
sản phẩm quốc nội (GDP), đặc biệt là
cuộc chiến dẫn đến sự suy yếu
đáng kể các hoạt động trong khu vực
sử dụng đồng euro. Vào tháng 12 năm 2021,
Viện Kinh tế Ba Lan (Polski Instytut Ekonomiczny – PIE)
dự đoán là GDP sẽ tăng lên 4,3%. Hiện nay, không
thể ước tính đầy đủ và chính xác
về tác động kinh tế và tài chính của
cuộc chiến Ukraine đối với nền kinh
tế Ba Lan. Do cuộc chiến c̣n đang tiếp
diễn, các hậu quả này sẽ chịu những
rủi ro cực kỳ bất thường, ngoài ra cũng
c̣n kèm theo sự bất trắc về hậu quả
của chính sách Zero-Covid của Trung Quốc và các
hạn chế nghiêm trọng liên quan đến đại
dịch, hiện đang ảnh hưởng ngày càng
nhiều trong các khu vực công nghiệp của Trung
Quốc. Theo các
nghiên cứu của PIE và Ngân hàng Kinh
tế Quốc gia (Bank Gospodarstwa Krajowego – BGK)
vào tháng 3 năm 2022, cuộc chiến Ukraine là mối
đe dọa đối với các hoạt động
kinh tế của 42% các doanh nghiệp được
khảo sát. 54% các doanh nghiệp trong lĩnh vực
vận tải, giao hàng và hậu cần bày tỏ
mối quan tâm nhất. Cũng trong lĩnh vực xây
dựng, 42% các doanh nghiệp cho thấy các rủi ro
nghiêm trọng hoặc rất cao đối với các
hoạt động của họ. Nỗi lo sợ
của các doanh nghiệp Ba Lan đă được nh́n
thấy trước khi Nga bắt đầu xâm lược,
nhưng hiện nay thậm chí trở nên rơ ràng hơn.
Cuộc chiến Ukraine cũng gây rất nhiều
bất ổn giữa các doanh nghiệp có liên quan đến
t́nh h́nh kinh tế, 3/4 các doanh nghiệp tin rằng đây
là một trở ngại rơ ràng cho kinh doanh. Hậu
quả rơ ràng nhất của cuộc chiến đối
với nền kinh tế Ba Lan là các nguồn năng lượng
ngày càng đắt đỏ, đáng chú ư là việc
tăng giá tại các trạm xăng. Nếu giá hàng
nguyên liệu tăng cao kéo dài trong một thời gian,
sức mua của hộ gia đ́nh sẽ bị ảnh
hưởng đáng kể, điều này sẽ
dẫn đến sự suy giảm mức tăng trưởng
kinh tế trong năm nay. Mặt
khác, có dự kiến là ḍng người tị nạn
từ Ukraine sẽ làm tăng các chi phí về tiêu dùng.
Chi phí bảo trợ cho một triệu người
đến Ba Lan sẽ lên tới hơn 20 tỷ Zlotys
mỗi năm, tức là khoảng 1% GDP. Tuy nhiên, mức
chi tiêu có thể dao động, v́ một số người
tị nạn sẽ chuyển đến các nước
Tây Âu (bao gồm Đức, Tây Ban Nha và Ư) và một
số trở về Ukraine. Do
mức xuất khẩu sang Ukraine và Nga giảm đi, nên
tác động trước mắt đối với
nền kinh tế Ba Lan được ước tính là
vừa phải, v́ tỷ lệ của các quốc gia này
trong mức xuất khẩu của Ba Lan chiếm không
cao quá đặc biệt. Năm 2021, con số này
chỉ là 2-3%. Sự gián đoạn nghiêm trọng có
thể xảy ra là do t́nh trạng hỗn loạn trong lĩnh
vực nhập khẩu, v́ Ba Lan vẫn phụ thuộc
nặng nề vào nguyên liệu năng lượng
của Nga. Chính sách
tài sách nới lỏng hơn liên quan đến
chiến tranh có thể tạo thuận lợi cho
việc tăng trưởng kinh tế Ba Lan. Chi phí ngày
càng tăng cho việc trợ giúp người tị
nạn và vũ khí có thể mang lại một sự
thúc đẩy tích cực cho nền kinh tế, mặc
dù nó không quá nhiều đến mức là sẽ bù
đắp đầy đủ cho các ảnh hưởng
tiêu cực trong hoạt động kinh tế. Đồng
thời, chiến tranh có thể là một cơ hội
lớn lao để đạt được nhanh hơn
một thỏa hiệp với các định chế
của châu Âu về lĩnh vực nhà nước pháp
quyền (*). Việc đề ra hiệu lực của
kế hoạch phát triển quốc gia do chính phủ Ba
Lan đệ tŕnh (mà các quỹ tài trợ cho kế
hoạch này hiện nay đang bị Ủy ban Liên Âu
phong toả) sẽ là một tín hiệu rất tích
cực không chỉ cho nền kinh tế, mà c̣n cho các
thị trường tài chính. Do các biện pháp hành chính
tiên khởi cần thiết trong việc phân bổ cho
Ba Lan, nên ảnh hưởng thực sự của các
nguồn lực tài chính khả dụng theo khuôn khổ
của kế hoạch phát triển đất nước
đối với nền kinh tế sẽ thể
hiện vào cuối năm 2022 và đầu năm 2023. Dựa
theo Bảng chỉ số giá tiêu dùng, mức lạm phát
được ước tính trung b́nh hàng năm cho năm
2022 là 10,8%. Tương tự như các dự báo tăng
trưởng kinh tế, nó sẽ phụ thuộc
nhiều vào t́nh h́nh địa chính trị và giá
cả hàng hóa. Giá lúa ḿ, ngô và dầu hiện đang
đạt gần như đến mức kỷ
lục. Đây không phải là sự trùng hợp
ngẫu nhiên, v́ Nga và Ukraine là những nhà xuất
khẩu ngũ cốc đứng hàng đầu. Trong năm
nay, có thể giả định rằng thế giới
không thể mong đợi Ukraine cung cấp ngũ
cốc, v́ đă cấm xuất khẩu các loại cây
trồng cơ bản và hoạt động của
cảng Odessa sẽ c̣n bị gián đoạn bởi
chiến cuộc. Chính
phủ Ba Lan ủng hộ việc duy tŕ cái gọi là
biện pháp chống lạm phát cho đến cuối năm
2022. Điều này liên quan đến việc giảm
thuế tiêu thụ gián thu, chẳng hạn như
thuế trọ giá gia tăng (VAT) đối với xăng
dầu và thực phẩm. Nếu mức giảm này
được huỷ bỏ vào cuối tháng 7 năm
2022, như dự kiến ban đầu, th́ đà tăng
giá tiêu dùng trong năm nay sẽ cao hơn khoảng hai
phần trăm điểm so với mức trung b́nh hàng
năm. Nằm
trong dự kiến là việc tăng lăi suất sẽ
tiếp tục. Trong các quư tới, mức lạm phát
sẽ không trở lại mức tăng hoặc
giảm 1% điểm trong mục tiêu 2,5%. Cần
cứu xét đến việc giá gia tăng trong phạm
vi hai con số, nên có thể giả định rằng
Hội đồng Chính sách Tiền tệ (Rada
Polityki Pieniężnej) sẽ tăng lăi suất tham
chiếu của Ngân hàng Quốc gia Ba Lan (Narodowy Bank
Polski – NBP) lên ít nhất 5,5%. Con
số thấp hơn có thể xảy ra, nếu
hoạt động kinh tế suy yếu nghiêm trọng.
Tuy nhiên, trong hiện tại, chúng ta dự kiến
sự suy yếu là trong chừng mực. Mức lăi
suất cao hơn là cần thiết để cân
bằng cho nền kinh tế Ba Lan đang có phần giao
động, nhưng hậu quả sẽ là tiêu dùng ít
hơn, đầu tư yếu hơn và tăng trưởng
kinh tế chậm hơn. Mức tăng trưởng GDP
được đề ra trong quư IV/2021 là 7% và quư
I/2022 8% không thể kỳ vọng là đạt, do
hậu quả của các vấn đề về chính sách
tiền tệ và nhu cầu, nên nền kinh tế sẽ
hạ nhiệt. Sau khi
chiến tranh bùng nổ, đồng tiền Ba Lan đă
mất giá đáng kể. V́ đồng tiền Zloty
vốn dĩ đă yếu kém trước đó, trên
thị trường tiền tệ Ba Lan đă đạt
được các kỷ lục mới: Hơn 5 Zlotys
mới tương đương cho 1 đồng Euro và
gần như nhiều hơn cho 1 đồng Franc
Thụy Sĩ. 1 đô la Mỹ đổi 4,60 Zloty là
mức giá cao nhất cho đồng tiền này trong hơn
21 năm qua. Tuy nhiên, chúng ta cần cân nhắc đến
việc nếu Bộ Tài chính Ba Lan có kế hoạch
trao đổi các quỹ của Liên Âu trên thị trường
tiền tệ, th́ triển vọng suy yếu lâu dài
của tỷ giá hối đoái Zloty là ít. Mặt khác,
việc đồng tiền Ba Lan có giá cao hơn
chắc chắn sẽ có thể sẽ xảy ra,
nếu các căng thẳng địa chính trị
giảm. Do ḍng người
tị nạn, tỷ giá hối đoái yếu hơn và
doanh thu ngày càng tăng của các công trái phiếu Ba
Lan có nghĩa là khoảng công chi to tát không được
bù đấp bởi các nguồn thu trong hiện
tại. Kết quả có thể tiên đoán là mức
thâm hụt ngân sách và nợ công ngày càng tăng. May
mắn thay, sau cuộc khủng hoảng do đại
dịch Corona gây ra, t́nh trạng nợ công và thâm
hụt của Ba Lan đang trên đà đi xuống.
Một thách thức đối với ngân sách công cũng
sẽ là sự gia tăng kinh phí quốc pḥng. Ngay
từ năm 2023, 3% GDP sẽ được cung cấp
cho mục đích này. Mức
thâm hụt ngân sách Ba Lan năm 2021 là 1,9% của GDP và
mức nợ tính theo GDP là 54%. Chính phủ dự báo
mức thâm hụt sẽ là 4,3% vào năm 2022 và sau
đó hy vọng là sẽ giảm xuống c̣n 3,7%
của GDP và mức nợ giảm xuống c̣n 51,5% so
với GDP (2023). Trong những năm tiếp theo, dự báo
giảm thêm xuống c̣n 2,5% GDP hoặc 49,7% so với GDP
(2025). Ba
Lan tiếp nhận hơn 3 triệu người tị
nạn Đến
cuối tháng 4 năm 2022, hơn 3 triệu người
đă vượt biên đến Ba Lan. Họ được
cung cấp thực phẩm, thuốc men và nhận
trợ giúp xă hội. Đây là một phong trào
nhập cư đến từ Ukraine hoàn toàn khác,
nếu so với cuộc chiến Donbass năm 2014. Vào
thời điểm đó, chủ yếu là nam giới
trong độ tuổi lao động đă đến
Ba Lan, hàng trăm ngàn người, họ đă tăng
cường cho thị trường lao động Ba Lan
và tăng hiệu quả cho nền kinh tế Ba Lan. Hiện
nay, nhiều phụ nữ và trẻ em đến Ba Lan,
họ là những người chủ yếu gây ra chi phí
trong ngắn hạn và trung hạn. Họ được
cung cấp nơi cư trú, thực phẩm, giáo dục
và chăm sóc y tế. Một đạo luật đặc
biệt về viện trợ cho người Ukraine ước
tính chi phí này là 1,8 đến 3,5 tỷ Zlotys. Tuy nhiên,
trên thực tế, các công chi chắc chắn sẽ cao
hơn đáng kể, đó là nghĩa vụ đạo
đức của Ba Lan đối với lân bang. Trong
trung hạn, một số người tị nạn
sẽ nhận việc làm và có thể tự quyết
định lấy là có nên ở lại Ba Lan hay không. Đồng
thời, nhiều người Ukraine đang rời Ba Lan
và vào quân đội Ukraine để chiến đấu
cho đất nước. Có tin cho là có đến hàng
chục ngàn người về, mặc dù các con số
đích thực không được biết rơ, v́ do t́nh
h́nh nhập cư luôn biến động giữa Ukraine
và Ba Lan. Ba Lan
đă có rất nhiều người tiêu dùng mới,
điều này chắc chắn sẽ làm tăng doanh thu
của các chuỗi bán lẻ, và ít nhất là trong
ngắn hạn, thúc đẩy cho mức tiêu dùng tư
nhân và GDP cũng như tăng số thu thuế. Tuy nhiên,
về lâu dài, phần lớn chi phí hỗ trợ cho người
tị nạn sẽ phải được ngân sách chi
trả. Phong trào
tị nạn cũng có thể là một thách thức
lớn đối với thị trường lao động
Ba Lan. Theo các công nhân từ Ukraine cho biết, những
người di cư kinh tế đến Ba Lan trước
chiến tranh chủ yếu t́m được việc làm
trong ngành xây dựng, công nghiệp chế biến,
hoạt động hành chính (bất động
sản, kế toán) và các dịch vụ kinh doanh hỗ
trợ, cũng như trong lĩnh vực vận tải
và kho băi. Đa số đă làm việc ở Ba Lan dưới
tŕnh độ của họ. Hiện nay, phụ nữ
sẽ t́m kiếm việc làm. Nh́n chung đầu tiên,
có thể kết luận rằng, trong số những người
tị nạn có nhiều phụ nữ có tŕnh độ
mà Ba Lan đang có nhu cầu, thí dụ như y tá, giáo
viên, thợ may, đầu bếp, thông dịch viên và
nhân viên hành chính. Do đó, có những cơ hội tương
đối rộng mở để t́m việc làm,
bởi v́ trong lĩnh vực sản xuất, nhờ
tự động hóa và công nghệ mới, nhiều công
việc cũng có thể do phụ nữ đảm
nhận mà trước đây chỉ dành cho nam
giới. PIE thực hiện các nghiên
cứu và cung cấp thông tin về các công việc
tiềm năng có thể được tạo ra ở
Ba Lan vào năm 2022 và sẽ được những người
tị nạn đảm nhiệm. Dựa
trên cơ sở các chỉ số về phụ nữ
trong từng lĩnh vực của nền kinh tế, người
ta đă đánh giá cao mức tỷ lệ phụ
nữ trong số các công nhân mới. Các ước tính
cho thấy, vào đầu tháng 3 năm 2022, các doanh
nghiệp Ba Lan đă hoạch định tuyển
dụng khoảng 253.000 phụ nữ trong ba tháng
tới. 3/4 các công việc này nằm trong lĩnh
vực ẩm thực và khách sạn, thương
mại và các dịch vụ khác, tức là các lĩnh
vực đang t́m kiếm công nhân và hướng đến
việc t́m phụ nữ nhiều hơn. Việc
mở cửa để thu dụng cho thị trường
lao động và đơn giản hóa thủ tục
hợp đồng nhận việc hợp pháp ở Ba
Lan, cũng như các cơ quan Lao Động sẽ
tạo điều kiện tối đa để giúp
cho người tị nạn t́m việc làm và giới
chủ nhân cung ứng việc. Một cơ sở
dữ liệu tổng hợp các thông tin về khả
năng người tỵ nạn và nhu cầu của
giới chủ nhân qua hệ thống Woiwodschaften giúp các
doanh nghiệp có thể t́m ra các thông tin về năng
lực của các nhân viên Ukraine tương ứng.
Việc phân phối đồng đều người
tị nạn ở Ba Lan sẽ có tầm quan trọng
đáng kể để tránh một cuộc khủng
hoảng về người tị nạn và cho phép người
Ukraine tự lo sinh kế của họ. Một thách
thức sẽ là việc trẻ em Ukraine đến các
trung tâm giáo dục và nhà trẻ hằng ngày, bởi v́
nhà trẻ đă có vấn đề trước khi ḍng
người tị nạn đến các thành phố
lớn. Những
kinh nghiệm đến nay cho thấy, chủ thường
t́m nhân viên, khi ít nhất họ có thể giao tiếp
bằng tiếng Ba Lan. Trong các trường hợp riêng
biệt, tiếng Anh cũng có thể gọi là đủ.
Điều này dẫn đến sự cần thiết
là phải tổ chức các khóa học cơ bản
về ngôn ngữ Ba Lan, đặc biệt là đối
với phụ nữ có cơ hội làm việc trong lĩnh
vực y tế, giáo dục và các lĩnh vực khác có
tiếp xúc trực tiếp với khách hàng. Trong tương
lai, việc đào tạo theo từng ngành chuyên
biệt sẽ cần thiết, nhưng các chi phí cho các
khoá này mà giới chủ nhân, đặc biệt là các
doanh nghiệp nhỏ, có thể sẽ không thể
trả nổi. Đây là vấn đề mà các
hiệp hội các chủ nhân và các tổ chức công
có thể giúp đở với các dự án đào
tạo đặc biệt. 2/3
người Ba Lan tự nguyện giúp người Ukraine Cuộc
chiến tranh xâm lược của Nga ở Ukraine đă
gây ra một làn sóng đoàn kết ở Ba Lan. Ba Lan và
Ukraine có một lịch sử chung đầy khó khăn,
trong đó không thiếu chiến tranh và tội ác.
Đặc biệt, người Ba Lan bị tổn thương
bởi vết thương chưa lành của vụ
thảm sát thường dân Ba Lan ở Volhynia do Quân
nổi dậy Ukraine (UPA) gây ra vào năm 1943/44.
Tuy nhiên, ngày nay, người Ba Lan đă đặt
lịch sử qua một bên, mở rộng cửa và giúp
đỡ những người tị nạn Ukraine. Các
cuộc thăm ḍ trước khi Nga xâm lược
Ukraine cho thấy, người Ukraine là một trong
những dân tộc không được ưa chuộng
nhất đối với người Ba Lan. Viện Thăm
ḍ Dư luận Ba Lan CBOS đă nghiên
cứu về mối quan hệ của người Ba Lan
với các quốc gia khác trong nhiều năm: thiện
cảm dành cho người Ukraine thấp hơn so
với phần lớn các quốc gia châu Âu. So với các
nước láng giềng khác của Ba Lan, họ tự
đặt ḿnh giữa người Nga, những người
có ít thiện cảm nhất và người Belarus. Tuy
nhiên, kể từ những năm 1990, nói chung, mối
quan hệ giữa Ba Lan và Ukraine đă được
cải thiện. Các khảo sát của CBOS trước
chiến tranh cho thấy, 41% số người Ba Lan
được hỏi có mối quan hệ tích cực
với người Ukraine và 25% có thái độ tiêu
cực. Đối với người Nga, thiện
cảm thể hiện là 29 % và ác cảm 38 %. Vào
giữa tháng 3 năm 2022, CBOS đă
tiến hành các cuộc khảo sát về chủ đề
viện trợ mà người Ba Lan đă cung cấp cho
các nước láng giềng của họ. 68% người
dân đă giúp đỡ người tị nạn
Ukraine bằng hiện vật hoặc tài chính. Phần
lớn người Ba Lan, 88%, cho biết họ đang
theo dơi chặt chẽ các sự kiện liên quan đến
cuộc xâm lược Ukraine của Nga. Hơn một
nửa số người được hỏi, 57%, cho
biết trong cuộc khảo sát là họ sẽ tẩy
chay các sản phẩm của Nga. Một
số ít người được hỏi cho biết
đang t́m cách để bảo vệ bản thân và
gia đ́nh do những hậu quả tiêu cực của
chiến tranh có thể xảy ra. Trong nhóm này, 11% cho
biết họ sẽ tích trữ tiền mặt, 8%
dự trữ thực phẩm và các nhu yếu phẩm
khác, và 4% dự trữ xăng dầu. Ngoài ra, một
số người được hỏi đă dự
định hoặc cân nhắc việc di chuyển đến
một nơi an toàn hơn, với nhiều người
(8%) xem xét việc rời khỏi đất nước
hơn là đi nơi khác trong Ba Lan (4%). Nhà nước
Ba Lan cũng phản ứng bằng các biện pháp
trợ giúp. Giá trị ước tính về viện
trợ quân sự của Ba Lan cho Ukraine là bảy tỷ
Zlotys (1,5 tỷ euro). Vào tháng 3, Ngân hàng Quốc gia Ba Lan
đă đề nghị Ngân hàng Trung ương Ukraine
một h́nh thức trao đổi tiền tệ trị
giá 963 triệu euro (**). Nếu tính bao gồm cả giá
trị viện trợ nhân đạo, viện trợ
của Ba Lan cho Ukraine đă lên tới hơn 2,5 tỷ
euro. Tuy nhiên, số tiền này không tính đến
số tiền viện trợ cho người tị
nạn mà chính phủ Ba Lan ước tính sẽ
trả thêm 2,1 tỷ euro (mười tỷ Zloty) cho
đến cuối năm nay, số chu cấp tài chính
cho người tị nạn, hoàn trả chi phí cho
những người dân tiếp nhận người
tị nạn và các qũy bổ sung cho chính quyền
địa phương để nâng cấp trường
học. Một
phần chính của sự hỗ trợ này là cấp
tiền cho các gia đ́nh Ba Lan mà họ cung cấp
một căn hộ hoặc chỗ ở cho người
tị nạn. Theo ước tính của chính phủ,
dựa trên dữ liệu của chính quyền địa
phương, khoảng 600.000 người sử dụng
khoản hỗ trợ này. Nếu tính đến số
trợ cấp tiền mặt được sử
dụng cho chỗ ở và thực phẩm của người
dân Ukraine (40 Zloty mỗi ngày), giá trị của
khoản viện trợ này lên tới khoảng 720
triệu Zlotys. Điều
quan trọng trong bối cảnh này là việc trả
tiền cho các gia đ́nh sau khi họ nhận được
mă số PESEL, một loại mă số mà dân
Ba Lan sử dụng để liên lạc với chính
quyền, và sau này thực tế đánh đồng công
dân Ukraine với người Ba Lan sau hai năm. Do
cuộc chiến c̣n đang diễn ra, nên việc chu
cấp cho những người hỗ trợ người
tị nạn sẽ được gia hạn (từ 60
ngày lên 120 ngày). Những người tị nạn nghèo
nhất có thể nhận được trợ cấp
xă hội trong những điều kiện tương
tự như người Ba Lan, tức là không chỉ
tiền dành cho trẻ em nói chung “trong khoảng trên 500
” cho mỗi đứa trẻ, mà c̣n các dịch
vụ chăm sóc khác. Ngoài ra, mỗi người Ukraine
nhận được một khoản tiền chào
mừng là 300 Zloty và tiền Hryvnia của Ukraina, gây ra các
vấn đề trong việc trao đổi tiền
tệ trong các ngân hàng nhà nước PKO BP và Pekao
SA. Việc này được phối hợp
của NBP ở một tỷ lệ
cố định (0,14 Zloty cho mỗi Hryvnia; tối đa
10.000 Hryvnia cho mỗi người). Ngoài
việc tiếp nhận riêng người tị nạn,
người Ba Lan đă cung cấp các phương
tiện vận chuyển người tị nạn
từ Ukraine và quyên góp tiền cho những người
c̣n ở lại Ukraine. Hàng ngàn t́nh nguyện viên đă
tổ chức các trạm tiếp đón nhận người
tị nạn, phân phối các hiện vật quyên góp,
cung cấp thông tin và chỉ dẫn về pháp lư, cung
cấp hỗ trợ tâm lư và trợ giúp ngôn ngữ.
Gần hai tuần sau khi chiến tranh bùng nổ, riêng
tại Warsaw có hơn 6.000 t́nh nguyện viên đă
đăng kư t́nh nguyện giúp cho người tị
nạn Ukraine. Theo đó, người ta có thể ước
tính, trong cả nước có ít nhất là vài chục
ngàn người. Người Ba Lan cũng trao các
khoản quyên góp bằng hiện vật, bao gồm
thuốc men, quần áo, thực phẩm, vật phẩm
vệ sinh. Mức độ dấn thân thiện
nguyện và phân phối các khoản đóng góp
bằng hiện vật không thể xác định
được giá trị tài chính thực sự. Chỉ có
một phần dữ liệu trong phần sưu tầm
mức quyên góp qua Internet là khả dụng, bởi v́
không phải tất cả các nhà tổ chức đều
công bố thông tin về số tiền thu được.
Các tin về số lượng quyên góp lớn
nhất, được điều hành bởi các
tổ chức phi lợi nhuận nổi tiếng, mang
lại hơn 100 triệu Zloty (bao gồm Fundacja
Siepomaga gần 50 triệu Zloty, Polska Akcja
Humanitarna khoảng 30 triệu Zloty, Zundacja
Pomagam.pl gần 11,5 triệu Zloty). Caritas
Polska đă quyên được hơn 100
triệu Zlotys (ngoài các khoản quyên góp bằng
hiện vật ước tính khoảng 136 triệu
Zlotys). Tuy nhiên, đây chỉ là một phần nhỏ
của số hỗ trợ thực tế được
cung cấp – v́ nhiều khoản gây quỹ được
thực hiện trong các doanh nghiệp, trường
học, v.v. và kết quả của họ không
được công bố, cả danh sách cuối cùng cũng
như ước tính theo mẫu đại diện
đều không thể thực hiện được. Ngoài ra,
c̣n có sự giúp đỡ của các doanh nghiệp tư
nhân, bao gồm các chuỗi bán lẻ lớn nhất, ngân
hàng, nhà cung cấp điện thoại di động, các
doanh nhân ngành xây dựng. Giá trị hỗ trợ
từ các doanh nghiệp lớn nhất hoặc hiệp
hội các ban ngành thường vượt quá một
triệu Zloty. Nhiều doanh nghiệp không công bố
dữ liệu về sự đóng góp của họ,
điều này gây khó khăn cho việc ước tính
ngay cả giá trị quyên góp. Ba
Lan trên đường độc lập khỏi năng
lượng Nga Phản
ứng trước sự xâm lược của Nga
với Ukraine là nhiều quốc gia phương Tây
muốn trở nên độc lập với nguồn
cung cấp năng lượng của Nga, v́ Nga có
thể sử dụng số tiền thu được
từ việc bán để tài trợ cho các thiết
bị quân sự. Đối với Ba Lan, các hợp
đồng dài hạn về cung cấp khí đốt và
dầu mỏ của Nga sẽ sớm kết thúc. Vào tháng
4 năm 2022, chính Nga đă ngừng cung cấp khí đốt
cho Ba Lan, do đó, nó phủ đầu cho việc
chấm dứt hiệp ước. Tuy nhiên, Ba Lan đă
chuẩn bị cho điều này. Các cơ sở
tồn trữ khí đốt ở Ba Lan đă đong
đầy với 76%, trong khi mức trung b́nh của Liên
Âu là 32%. Vào
cuối năm 2019, sản lượng khí đốt
tự nhiên ở Ba Lan chỉ đạt dưới 5
tỷ m3, phục vụ khoảng 1/4 nhu cầu trong nước,
đứng ở mức 20 tỷ m3 vào năm 2019. Tiến
tŕnh làm bớt phụ thuộc khí đốt của
Nga đă diễn ra từ lâu ổ Ba Lan. Trong các năm
từ 2015 đến 2019, tỷ trọng khí đốt
nhập khẩu của Nga đă giảm khoảng 17
phần trăm điểm. Ba Lan nhập khoảng 17,5
triệu m3, trong đó 10 triệu m3 đến từ
Nga, chiếm 55% trong tổng số nhập khẩu. Mặc dù
trong thực tế, hơn một nửa số lượng
khí đốt nhập khẩu của Ba Lan đến
từ Nga, việc thay thế nguyên liệu thô của
Nga có thể được là nhờ sự đa
dạng hóa dần dần của các tuyến đường
cung cấp. Năm 2022, đă có kế hoạch cho
việc bắt đầu vận chuyển khí đốt
từ thềm lục địa Na Uy thông qua đường
ống dẫn khí Baltic Pipe có công suất
hàng năm là mười tỷ m3, cũng như dự
kiến đưa vào vận hành đường
ống dẫn khí Ba Lan-Lithuania (GIPL), nó tạo
điều kiện cung cấp khí đốt từ nhà
ga khí đốt ở Klaipeda. Điều này có thể
làm thay thế cho một phần nguồn cung cấp khí
đốt của Nga. Ngoài ra, cũng có kế hoạch
tăng công suất của nhà ga LNG ở Świnoujście
lên 6,2 tỷ m3 vào năm 2022/23 và lên khoảng 8,3
tỷ m3 mỗi năm từ đầu năm 2024.
Việc mở rộng này cho phép một số cung
ứng lớn LNG được chuyển đến Ba
Lan, ví dụ từ Mỹ và Qatar. Năm 2019, Ba Lan đă
nhập khẩu khoảng 3,5 triệu m3 LNG, bao gồm
950.000 m3 từ Mỹ và 2,3 triệu m3 từ Qatar. Liên quan
đến việc Ba Lan nhập khẩu dầu của
Nga, chính phủ Ba Lan tuyên bố rằng, các hợp
đồng cung cấp có thời hạn sẽ hết
hạn vào đầu năm 2022/23và họ không có
kế hoạch kư kết các hợp đồng mới.
Ba Lan cũng từ bỏ việc nhập khẩu than
của Nga. Điều
quan trọng là toàn bộ châu Âu phải loại bỏ
nguồn cung cấp năng lượng của Nga. Liên
Âu nhập khẩu khí đốt từ Nga chiếm
khoảng 45% trong tổng số lượng nhập
khẩu và phục vụ 40% cho nhu cầu. Tương
tự như trường hợp dầu mỏ, các
quốc gia Đông và Trung Âu phụ thuộc phần
lớn vào nguồn cung cấp khí đốt của Nga.
Tuy nhiên, về mặt danh nghĩa, các nhà nhập
khẩu khí đốt lớn nhất là Đức, Ư,
Hungary và Hà Lan. Tháng 3 năm
2022, Ủy ban châu Âu đă đề xuất một
kế hoạch tạm thời về cách Liên Âu có
thể trở nên độc lập với nhiên
liệu hóa thạch của Nga vào năm 2030 và kêu
gọi giảm 65% nhập khẩu khí đốt từ
Nga vào năm 2022. Tính toán của PIE cho thấy, nhờ
đa dạng hóa nguồn cung, thay thế khí đốt
bằng năng lượng tái tạo, năng lượng
hạt nhân và than đá, cũng như khai thác tiềm
năng tiết kiệm (bao gồm thiết lập làm mát
thấp hơn hai độ cho các hệ thống điều
ḥa không khí vào mùa hè) và các biện pháp tương
ứng về phía nhu cầu để giảm tiêu
thụ trong công nghiệp, việc giảm khoảng 91%
nhập khẩu khí đốt sẽ có thể khả
thi trên toàn Liên Âu. Hơn
nữa, việc đa dạng hóa lâu dài nguồn cung
dầu không đ̣i hỏi đầu tư cơ sở
hạ tầng đáng kể. Hiện nay, hầu hết
việc nhập khẩu vào Liên Âu diễn ra bằng
đường biển. Vào năm 2021, thậm chí không
một nửa công suất của NAFTOPORT Ba
Lan (Gdansk/Gdańsk) được sử dụng. Sự
gia tăng sản lượng dầu ở Nam Mỹ
sẽ cho phép chúng ta chỉ nhận được dưới
một triệu thùng mỗi ngày, tức là khoảng 40%
lượng dầu nhập khẩu từ Nga. Trong các
cuộc đàm phán thuận lợi với các nước
OPEC, bao gồm Saudi Arabia, các Tiểu vương quốc
Ả Rập Thống nhất và Iran, châu Âu có thể
ngừng mua dầu của Nga, ǵnh lấy được
phương tiện của Nga dùng để tài trợ
cho sự xâm lược chống lại các nước
láng giềng. *** Piotr
Arak là Giám đốc Viện Kinh tế Ba Lan (Polski
Instytut Ekonomiczny – PIE), Warsaw. Trước đây, ông làm
việc trong Chương tŕnh Phát triển Liên Hiệp
Quốc, Bộ Hành chính và Số hóa Cộng ḥa Ba Lan và
Phủ Thủ tướng. Chuyên đề nghiên
cứu của ông là chính sách kinh tế, số hóa và các
vấn đề quốc tế. _________ Phụ
chú của người dịch: (*) Trước
đây, các dự án cải cách tư pháp tại Ba Lan
đă gây xung đột gay gắt với Liên Âu.
Cuộc chiến Nga-Ukraine làm xoa dịu các tranh chấp. Trong
chuyến viếng thăm Warsaw ngày 2/6/2022, Chủ
tịch Ủy ban Liên Âu Ursula von der Leyen thông báo, sau khi
kiểm tra, các khoản tiền dự định tài
trợ cho Kế hoạch Krajowy Odbudowy (KPO) do Ba Lan đệ
tŕnh bị đóng băng theo cơ chế pháp
quyền của Liên Âu nay được giải
toả và việc giải thể Pḥng Kỷ luật
của Ṭa án Tối cao (Sąd Najwyższy – SN) là điều
kiện cho việc giải ngân. Biện pháp này bắt
đầu thực hiện trong một vài tháng tới. Các nhà
phê b́nh chế độ tiếp tục lo ngại
rằng việc cải cách về nhà nước pháp
quyền của Ba Lan sẽ không có những thay đổi
sâu rộng; ngược lại, các chính sách mị dân
và độc tài ngày càng nhiều làm cho nền dân
chủ sẽ lâm nguy. (**) Một
loại hợp đồng trao đổi giữa hai
loại tiền tệ theo tỷ giá hối đoái
cố định tại một thời điểm
thỏa thuận trong tương lai.
|