Hậu Quả Của Hoa Kỳ Sau Khi Bỏ Rơi Đông Dương. Giáo sư Robert F. Turner |
Tôi
là một sinh viên trong số tương đối ít
ỏi đă thực tin rằng việc chống
Cộng sản xâm lược của Hoa kỳ ở
Việt Nam, Lào, Cambodia là đúng Tôi
lần đầu đến Việt Nam trong một
giai đoạn ngắn khi là phóng viên năm 1968,
rồi quay về đi lính, bắt đầu chức
vụ Trung úy rồi sau lên Đại úy rồi
trở lại đó hai lần làm việc tại
một bộ phận của toà Đại sứ Hoa
Kỳ tại Việt Nam, là Văn pḥng Nghiên cứu
về Bắc Việt và Việt Cộng. Tôi
có cơ hội được đi tới nhiều
địa phận tại Việt nam, khoảng 44
tỉnh thành, có chỗ chỉ đi ngang qua. Tôi
được qua Lào, Cambodia. Sau khi giải ngũ tôi gia nhập Hoover Institution, tôi đă viết cuốn sử quan trọng đầu tiên về “Cộng sản Việt Nam” (Anh ngữ). Trong
hơn hai chục năm, tôi đă có nhiều khóa
giảng dạy tại viện Đại học
Virginia về Chiến tranh Việt Nam. V́ thời
giờ có hạn, tôi phải nói ngắn, nhưng trước
khi đề cập tới chủ điểm của
bài thuyết tŕnh, tôi xin có thêm một lời
cảnh báo, nhất là với các khán thính giả
trẻ tuổi. Rằng
đa số lập luận “sáng suốt phổ
biến” của người Mỹ về Chiến
tranh Việt Nam thật ra lại không đúng. Rất
đáng tiếc rằng điều ấy có nghĩa là
đa số những ǵ được giảng
dạy tại cấp trung và đại học lại
gần với thần thoại hơn là lịch
sử. Tôi chi xin đơn cử hai thí dụ, hai thí
dụ quan trọng: 1-
Ngày nay, chúng ta được nghe rằng cuộc
chiến Việt Nam là “bất khả thắng”. Chúng
ta đứng sai chỗ. Tôi xin được góp
tiếng bên cạnh nhiều sử gia thuộc
loại xuất sắc nhất ngày nay khi nêu lập
luận ngược rằng
chúng
ta không chỉ hy vọng thắng mà thực tế
đă thắng vào đầu thập niên 1970. (Và
khi nói “chúng ta”, tôi không nghĩ rằng đấy
là Quân lực Hoa Kỳ mà là nỗ lực chung
của hai quân đội miền Nam Việt Nam và Hoa
Kỳ cùng với người dân miền Nam). 2-
Chuyện ǵ đă xảy ra? Khi tôi tuyên bố là có
thể thắng. Tôi xin đưa câu nói của người
bạn thân Douglas Pike: ông Douglas Pike đă quá văng, người
mà tôi hoán đổi công vụ nhiều lần trong
Sứ quán Hoa Kỳ, ông Pike nói rằng: Tôi tin
rằng chúng tôi có thể đă thắng cuộc
chiến Việt Nam. Tôi
tin rằng trong tương lai lịch sử sẽ nói
rằng chúng ta đă thắng. Đó là sự
thật! Một số thí dụ sau đây sẽ
chứng minh. Có
một bài viết trong báo Foreign Affairs năm 2004 do Giáo
sư John Lewis Gaddis Khoa trưởng Americạn Diplomatic
Historians nói rằng: Các
sử gia hiện tại công nhận rằng miền
Nam Việt Nam và đồng minh đă thắng
cuộc chiến quân sự. Nhưng lại thua
cuộc chiến tâm lư tại Mỹ. Tôi xin
nhắc lại cho quư vị trẻ biết sau khi
bị bỏ bom tơi bời, Hà Nội vội vă
trở lại đàm phán tại Paris. Và mọi
chuyện êm xuôi nếu chúng ta dùng máy bay B52 để
trấn giữ hiệp định. Ngay
sau khi di tản từ Việt Nam về tới Mỹ,
tôi gặp Nghị sĩ Ted Kennedy tại Thượng
Nghị Viện. Đó là lần đầu tiên tôi
gặp ông ấy khi trở về Mỹ. Ông ấy
đứng cách tôi khoảng 3 mét. Tôi cung tay phải lên
và tự nhủ: “ḿnh phải cho nó biết tay,
phải đấm gục hắn ta và nói cho thế
giới biết rằng chúng tôi vừa mới
phản bội chính danh dự của ḿnh và bỏ rơi
những người đáng yêu.” Nhưng tôi đă
tự cản bản thân ḿnh v́ làm vậy sẽ
ảnh hưởng đến cương vị
Nghị sĩ của tôi và Ted Kennedy sẽ trở thành
người hùng. Không phải là việc làm đúng
đắn nhưng đôi lúc tôi nghĩ là ḿnh đă
bỏ rơi cơ hội ấy. Sau
khi Quốc Hội cắt hết viện trợ cho
Việt Nam, Trung cộng gia tăng viện trợ cho Hà
Nội. Phạm Văn Đồng nói rằng: “Được
cho kẹo tụi nó cũng không dám quay lại”.
Đó là lư do của sự thất bại tại
chiến trường Việt Nam. Quân
nhân Mỹ, QLVNCH, và miền Nam Việt Nam không bị
bại trận, mà thua v́ cái gọi là “tự do”
của Quốc hội Hoa Kỳ. Điềm
thứ 2 tôi muốn đưa lên là: Việt Nam
rất quan trọng. Họ cho rằng Chiến tranh
Việt Nam là cuộc chiến “phi lư” tiến hành
không lư do chính đáng, do hiểu lầm về vụ
đụng độ không đáng kể ở
Vịnh Bắc Bộ. Thật sự là ngớ
ngẩn. ....Không
thể thảo luận nỗi v́ Hà Nội lập
luận rằng đó là nội chiến trong miền
Nam VN v.v... hăy bỏ qua 1 số điểm v́ thời
gian có hạn. Tôi
nêu lên hậu quả của việc bỏ rơi VN. Tôi
có thể nói hoài về việc người Mỹ
bỏ rơi Việt Nam. Tôi là người đứng
ngay trong trận khi Quốc Hội biểu quyết không
giúp đỡ Angola v́ sự xâm lăng của Xô
Viết. Kết quả nạn nhân bị tử vong
ở đấy được ước lượng
là không dưới trăm ngàn người. Đến
việc Liên Xô xâm chiếm Afghanistan khiến cả
triệu người chết. Sẽ không xảy ra
nếu chúng ta không rút lui. Và
lần đầu tiên trong sáu chục năm, Moscow
bảo với tay sai của họ ở Mỹ châu La
Tinh rằng tiến hành “đấu tranh vơ trang”
để cướp chính quyền th́ cũng
được, từ đấy mới xảy ra
nội chiến tại El Salvador, Nicaragua, Honduras,
Guatemala, Costa Rica và các nước khác trong vùng. Vô
số người lại thiệt mạng v́
chuyện đó. Một
số lớn súng M16 tịch thu được từ
quân phiến loạn El Salvador, căn cứ theo số
xê ri là súng bỏ lại tại chiến tranh VN
của quân đội Mỹ. Hà Nội đă cung
cấp cùng với Xô Viết qua đường Cuba
rồi đưa lậu qua El Salvador.
& Nhưng
hôm nay tôi không muốn tập trung về các vấn
đề dù rất quan trọng là địa dư
chiến lược. Tôi muốn nói về hậu
quả của quyết định của Hoa Kỳ
đối với con người. Hăy
trước tiên nói về nhân quyền. Tháng Tư năm
1975, khi sự chiến thắng của Cộng sản
đă thành công trước mắt mọi người,
Đệ nhất Bí thư đảng Lao Động
là Lê Duẩn đă tuyên bố rằng: sau khi
“giải phóng” Miền Nam, chúng ta sẽ biến nhà
tù thành trường học”. Tới
Tháng 10 năm 1978, nhật báo Times đầy uy tín
tại Luân Đôn đă báo cáo sự thật:
Cộng sản Việt Nam đă biến nhà trường
và cô nhi viện thành nhà tù v́ họ có quá nhiều tù
nhân. Điều 11 của Hiệp định Paris kư kết năm 1973 cấm “mọi hành vi trả thù hay kỳ thị các cá nhân hay tổ chức đă hợp tác với một phe bên này hay bên kia”, và c̣n rơ ràng bảo đảm quyền tự do báo chí, tôn giáo, tự do sinh hoạt chính trị và một loạt những quyền thiêng liêng khác. Vậy mà Tháng Năm năm 1977, tờ Quân đội Nhân dân công khai thông báo “triệt để cấm mọi hành vi chống lại chế độ và tước hết mọi quyền tự do của những kẻ không tin vào xă hội chủ nghĩa”. Bài báo tuyên bố: “Với bọn phản cách mạng... nhân dân ta dứt khoát xoá bỏ quyền tự do ngôn luận và trừng phạt đích đáng”. Sau
đó, một dân biểu duy nhất của Quốc
hội Việt Nam Cộng Ḥa được phép tham
gia cái gọi là “Quốc hội Thống nhất”
đă tuyên bố: Chế độ CS cai trị
bằng bạo lực và khủng bố. Không có
tự do di chuyển hay lập hội; không có tự
do báo chí hay tự do tôn giáo hay... cả quyền
tự do có ư kiến riêng... Sự sợ hăi tràn
ngập khắp nơi” QUYỀN
TỰ DO BÁO CHÍ Tháng
Chín năm 1970, Trưởng pḥng Sài G̣n của tờ
Christian Science Monitor là Daniel Sutherland - ông bạn của
tôi vào thời ấy - có viết một bài dài
về “quyền tự do báo chí” trong Nam. Ông
viết: “Dưới bộ luật báo chí mới,
Miền Nam bây giờ có một nền báo chí
thuộc loại tự do nhất Đông Nam Á...”. Tôi
tin chắc rằng ḿnh không là người duy nhất
trong hội trường này có thề xác nhận
điều ấy. Riêng Sài G̣n th́ đă có hơn ba
chục tờ báo, và nhiều tờ trong số đó
kịch liệt chống chính phủ. Dĩ
nhiên là để thu thập dữ kiện về
quyền tự do ấy, tôi thường cầm máy
ảnh lang thang trong Sài G̣n vào những chiều
Chủ Nhật được nghỉ. Tôi
thấy bày bán công khai những quyển sách như
“Chiến tranh Nhân dân và Quân đội Nhân dân”
của Tướng VC Vơ Nguyên Giáp là cuốn chỉ
nam về nổi dậy của Việt Cộng, vài
cuốn của lănh tụ cộng sản Cuba là Ché
Guevarra, và cả các cuốn sách về hay của Mao
Trạch Đông. Sau ngày gọi là “giải phóng”,
người Cộng sản chiếm đóng đă
“tạm thời” đ́nh chỉ xuất bản
mọi tờ báo hay tạp chí độc lập. Chưa
đầy một tháng sau, mọi tiệm sách báo
đều bị đóng cửa và việc mua bán hay tàng
trữ các văn hoá phẩm xuất hiện “dưới
chế độ cũ!” đều bị cấm. Một
trong các vấn đề nặng nề nhất là
những người chống Việt Nam thường
nêu ra, là cái gọi là “chế độ phát xít”
tại miền Nam đă giam giữ hơn 200 ngàn “tù
chính trị”. Khi trở lại Đông Dương vào
Tháng Năm 1974 - cũng là dịp thăm viếng Cam
Bốt và Lào – tôi chú trọng đến việc
điều tra những lời cáo giác trên. (Tôi
nghi là họ đă cộng lại tổng số
của các câu trả lời). Sự thật th́
thời đó chỉ có khoảng 35 ngàn tù nhân trong
tất cả các nhà tù của Miền Nam. Tôi
cũng gặp một lănh tụ khác của “lực
lượng thứ ba” là bà Ngô BáThành, người
nói với tôi rằng định nghĩa của bà
về “tù nhân chính trị” có thể gồm cả
người như Sirhan. Sirhan, là tay cán bộ người
Palestine đă ám sát nghị sĩ Robert Kennedy vào tháng
Sáu năm 1968. Mục đích của hắn, bà Ngô Bá
Thành giải thích là, “chính trị” khi hắn ám sát
một ứng cử viên Tổng thống rất
nổi tiếng của Hoa Kỳ. Rồi
c̣n vụ “chuồng cọp” đầy tai tiếng
tại Côn Sơn, được họ mô tả như
sau: ,”… xà lim chôn dưới mặt đất
với các đống sắt, đồng trên trần
thay v́ ở dưới. Mà trần xây thấp đến
nỗi tù nhân không thể đứng được
…” .”… những hố nhỏ được đào
dưới đất và che bằng chấn song
sắt.” -
“[Mấy hầm đó] quá hẹp cho những người
Việt Nam dù thấp bé cũng không thể nằm
duỗi thẳng và trần quá thấp nên tù nhân khó
có thể đứng thẳng người” Ngay
cả lực sĩ Nghiêu Minh (Yao Minh) người
Tầu - tay trung phong của đội bóng rổ
Rocket's ở Houston bên Texas - cũng chỉ cao tới
bảy bộ và sáu phân - hơn hai thước hai - nên
anh ta cũng chẳng gặp khó khăn ǵ đề
duỗi dài trong căn xà lim một bề thước
rưỡi một bề ba thước của cái
gọi lả “chuồng cọp”. V́
vậy sau khi thăm Côn Sơn, tôi xin phép vào xem nhà tù
Chí Ḥa và chưa đầy 48 tiếng sau đă
được tới đó trong mấy tiếng đồng
hồ. Đây không là nơi mà ḿnh thích sống nhưng
cũng chẳng tệ hơn đa số các nhà tù và
bên trong tôi không thấy dấu vết ǵ của
những sự lạm dụng phổ biến. Tôi nói
riêng với vài người Mỹ đă từng
ở trong này và họ nói rằng dù có nghe nhiều
lời tố cáo nhưng tất cả đều cho
biết là họ không hề nghe thấy “tiếng gào
thét trong đêm vắng” hoặc được báo cáo
về nạn tra tấn hay hành hạ tù nhân. NGĂN
CHẬN TÀN SÁT khi Cộng sản nắm quyền Bi
thảm nhất của những người chống
Việt Nam Cộng Ḥa là lư luận của họ,
rằng cắt viện trợ cho Miền Nam là Hoa
Kỳ sẽ “ngăn được nạn tàn sát”.
Họ sai lầm tới chừng nào. Ông bạn Giáo sư
R.J. Rummel của tôi (một người từng
được tuyển liên tiếp cho giải Nobel Ḥa
B́nh) ước lượng là tổng số người
bị giết sau khi miền Nam được
“giải phóng” lên tới 643 ngàn. -
Khoảng 100 ngàn bị xừ tử qua quít ngay sau khi
Cộng sản VN chiếm được miền Nam.
Qua quít là v́ cũng chẳng có một h́nh thức
tạm bợ về “tiến tŕnh hợp pháp” hay
một toà án. -
Giáo sư
Rummel cho là 400 ngàn là “thuyền nhân” bị chết
ngoài biển cả khi muốn thoát khỏi chê độ
CSVN độc tài và đàn áp đă trùm lên quê hương.
Cao ủy Tỵ nạn của Liên hiệp quốc th́
cho là một phần ba những người vượt
biên bằng thuyền đă chết ngoài biển -
một số là v́ tầu quá đông người
bị ch́m, hoặc chết v́ đói, v́ khát.
Nhiều người tử nạn sau khi bị hải
tặc cướp bóc và cưỡng hiếp. Cao
ủy cũng tường tŕnh rằng có khoảng 840
ngàn người tới được Hong Kong hay các nước
không Cộng sản ở Đông Nam Á.
Nếu áp dụng tỷ số “chết một
phần ba” cho con số này th́ ta đoán là có
một triệu 300 ngàn người vượt biên
bằng thuyền và khoảng 420 ngàn người đă
chết trên đường t́m tự do. Con số không
xa với ước lượng của Giáo sư
Rummel. Giáo sư Lewia Sorley, tác giả cuốn sách có giá trị của một dấu mốc là “A Better War” - một Cuộc Chiến Khá Hơn -
mà tôi ân cần giới thiệu đến quư
vị, cho rằng có chừng 250 ngàn sĩ quan và binh lính
của miền Nam cũ đă chết trong các
“Trại Cải Tạo” do chế độ Cộng
sản VN lập ra. -
Khoảng một triệu rưởi người dân
miền Nam bị đày vào các khu “Kinh Tế
Mới” để sống trong những điều
kiện nghiệt ngă và chừng 48 ngàn đă chết
tại đấy. Tôi biết rằng rất đông
người trong cộng đồng này có thể
kể lại những kinh nghiệm thật về
“Trại Cải Tạo” và khu “Kinh Tế Mới”
và khuyên các sinh viên ở đây nên t́m ra họ, ghi
nhận câu chuyện của họ để làm
chứng liệu cho lịch sử. (Phụ chú: Đấy
là chưa kể có hàng chục ngàn thanh niên đă
bị "nướng" với phong trào "Thanh niên
xung Phong" đi làm công tác khai khẩn đất
hoang và mặt trận Kampuchia) CĂM
BỐT Và
c̣n chuyện xứ Căm Bốt nữa. Khi
Tổng thống Nixon gửi quân đội Hoa Kỳ
sang Cam Bốt vào năm 1970 đề yểm trợ các
đơn vị Việt Nam Cộng Ḥa, khuôn viên các
Đại học Mỹ bị đóng v́ những
cuộc phản đối đầy bạo động
chống lại vụ xâm lược “phi pháp”. Mười
năm sau, và với tỷ lệ đầu phiếu là
99,6%, khi Quốc hội Hoa Kỳ cho phép Tổng
thống Johnson tham chiến tại Đông Dương.
quy chế ấy hoàn toàn có thể áp dụng cho Căm
Bốt như cho Việt Nam và Lào. Nghị
quyết ấy của Quốc hội chỉ cần
dẫn chiếu “Protocole States” của hiệp ước
SEATO (South East Asia Treaty Organization). Tôi
thăm viếng Căm Bốt nhiều lần trong năm
1974 và trong nhiều năm đă viết về Khmer
Đỏ. Thời
ấy, việc họ là những kẻ sắt máu có
dự tính tàn sát không tưởng tượng
nỗi với đồng bào Khmer của họ
thật ra chẳng c̣n là bí mật. Và dĩ nhiên, khi
tôi trở lại Việt Nam vào Tháng Tư năm 1975,
một trong những mục tiêu chính của tôi là
đễ cố gắng cứu lấy đám trẻ
cô nhi tại Căm Bốt. Tôi
đến quá trễ và có lẽ những đứa
trẻ tôi hy vọng cứu được chắc là
đă chết. Không hề có một cuộc khảo sát
dân số tại Căm Bốt và chẳng ai biết
thực sự có bao nhiêu người đă sống
tại nơi ấy. Con số ước đoán
về nạn nhân có những dị biệt lớn,
với một số chuyên gia th́ cho là có hơn hai
triệu. Tài liệu khảo cứu khá nhất mà tôi
được đọc là của Đại học
Yale, nơi mà Chương tŕnh của Yale về
nạn Diệt chủng Căm Bốt ước tính là
Pol Pot và bọn đao phủ của hắn đă
thảm sát một triệu bảy trăm ngàn người
- hơn 20% dân số toàn quốc. Một
bài báo về “các vùng thảm sát” của Căm
Bốt trên tạp chí Nattonal Geographic Today trong số tháng
Giêng năm 2004 cho chúng ta những chi tiết này: “Nhân
viên hướng dẫn giải thích rằng đạn
quá quư để dùng cho việc tàn sát. Ŕu, dao và
gậy tre thật đắc dụng hơn. C̣n về
trẻ em th́ bọn đồ tể chỉ đơn
giản dọng chúng vào thân cây”. Ông
Douglas Pike đă quá văng, người mà tôi hoán đỗi
công vụ nhiều lần trong Sứ quán Hoa Kỳ, có
viết như sau về hậu quả nhân sinh của
việc Hoa Kỳ bội ước sự cam kết
của ḿnh là sẽ bảo vệ người dân
của các nước không cộng sản ở Đông
Dương: “Dù có ước lượng dè
dặt nhất, có nhiều thường dân Đông Dương
bi bạo sát sau Chiến tranh Việt Nam hơn là
tổng số nạn nhân trong thời chiến, ít ra là
hơn hai triệu... Nỗi khổ đau lên tới
mức chưa từng thấy, c̣n thê thảm hơn
những ngày chinh chiến”. Thật
bi đát v́ tôi nghĩ rằng ông Pike có lư. Và tôi
lại càng tin rằng cộng đồng tại đây,
đôi khi ngay trong hội trường, có những người
có thể cung cấp những dữ kiện trực
kiến về thảm kịch nêu như ta muốn t́m
đến họ và ghi nhận lời chứng của
họ. Việc này th́ chẳng ai có tâm trí b́nh thường
lại thích làm, nhưng là điều mà những ai
muốn truy lùng sự thật tới cùng vẫn có
nhiệm vụ thực hiện. Chúng ta phải kể
lại chuyện này - một cách chính xác và cẩn
trọng – để người khác sẽ biết
rất lâu về sau, khi các nhân chứng cuối cùng
không c̣n tại thế nữa. Những
ai thấy bàng hoàng về những chuyện đă
xảy ra khi Cộng sản khống chế người
dân Miền Nam và của Căm Bốt hay Lào thật
ra không hiểu ǵ về lịch sử hiện đại. Nếu
quư vị muốn biết rơ hơn về thảm
kịch, tôi xin đề nghị tập sách do nhà
Harvard University Press xuất bản có tên là “The Black
Book of Communism” - Cuốn Hắc thư về Chủ
nghĩa Cộng sản”. Do một nhóm trí thức
Âu Châu thuộc khuynh hướng trung tả biên
soạn, cuốn sách kết luận là trong thế
kỷ 20, chủ nghĩa cộng sản quốc tế
đă gây ra cái chết cho từ 80 đến 100
triệu sinh linh. Đây
là một vinh dự cho tôi khi được thuyết
tŕnh trước một cử toạ quan trọng như
hôm nay và trong cơ hội long trọng này. Với
những người giận dữ về sự
bội phản của nước tôi 35 năm về
trước, xin cho tôi được nói rằng
sự giận dữ này cũng là sự giận
dữ của bản thân tôi. Tôi yêu quư Hoa Kỳ và
tin rằng đây là một xứ tuyệt vời
nhất trên địa cầu. Nhưng
khi đa số của Quốc hội Hoa Kỳ
phản bội nạn nhân của Cộng sản xâm lược
họ cũng phản bội 58 ngàn 200 lính Bộ binh,
Hải quân và Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ
đă dâng hiến mạng sống trong sự hy sinh cao
quư nhất cho chính nghĩa này. Họ cũng phản
bội sự hy sinh xương máu của hai triệu
bảy trăm ngàn người Mỹ đă từng
phục vụ tại Việt Nam từ năm 1959 cho
đến 1975. |