Hiến Pháp và Nhân Quyền LS
Lê Trọng Quát |
Hơn
ba năm sau khi Thế chiến thứ hai chấm
dứt, h́nh ảnh kinh hoàng của những vụ tàn
sát hàng triệu sinh mạng trên gần khắp địa
cầu đă thôi thúc mọi người phải xác
quyết và khẳng định thượng tôn
quyền của con người: sống tự do, an toàn,
phẩm cách được tôn trọng, sự phát
triển và thăng tiến cá nhân được
khuyến khích.
Giữa lúc trong gần hai trăm quốc gia lớn
nhỏ, hiến pháp và nhân quyền khắn khít
với nhau như h́nh và bóng th́ tại VNXHCN cái
gọi là hiến pháp nhất định không
chấp nhận nhân quyền, bị xem như khí
giới của "thế lực thù địch".
Đ̣i hỏi nhân quyền sẽ bị trừng
trị, đánh đập. Tranh đấu cho nhân
quyền sẽ chắc chắn vào tù. Tách riêng
một thiểu số đảng viên cộng sản,
90 triệu người Việt c̣n lại bị xem là
"thế lực thù địch" và
cảm t́nh viên của thế lực thù địch,
được canh chừng cẩn mật. Mới hai năm
trước đây, thừa dịp Nhà Nước
cộng sản "cho" dân
bày tỏ ư kiến tu chính hiến pháp, dân chúng không
mấy tin nhưng vẫn đề nghị một
số tu chính nhằm công nhận một số dân
quyền và nhân quyến căn bản, họ đă hoàn
toàn thất vọng.
Cộng sản c̣n, dân quyền và nhân quyền
thực sự không có chỗ đứng trong hiến
pháp. V́ vậy, không có cách nào hơn để dân
quyền và rộng hơn quyền thiêng liêng của
con người được công nhận và triệt
để tôn trọng, là tranh đấu, tranh đấu
cho đến cùng chứ không thể "xin cho".
Một mai, trong sự thành lập tân chế độ
hậu cộng sản, nhân quyền đương nhiên
là một mối quan tâm hàng đầu của các nhà
lập hiến đặng hoàn thành một hiến pháp
trong đó nhân quyền và dân quyền sẽ
được khai triển và ghi khắc như
một đảm bảo vững chắc cho các
quyền tự do của mọi công dân Việt Nam
từ Bắc chí Nam và cho nền dân chủ của nước
Việt Nam tương lai, ḥa b́nh, tiến bộ.
Hiến pháp và Nhân quyền sẽ không c̣n là hai đối
thủ như dưới thời VNXHCN.
- Hiến pháp
Mọi quốc gia đều có hiến pháp: một
bản văn quan trọng nhất thông thường tŕnh
bày đúc kết nền tảng triết lư chính
trị của quốc gia, xác định tổ
chức các lănh vực hành pháp, lập pháp, tư pháp
qua các định chế liên hệ, các chính sách
quốc gia căn bản về chính trị, kinh
tế, xă hội, văn hóa, giáo dục, các quyền
và bổn phận của công dân, các nhân quyền
phổ cập, sự điều hợp giữa các cơ
cấu quốc gia…
Thế nhưng không phải hiến pháp nào cũng
giống nhau giữa các quốc gia. Qua gịng lịch
sử thế giới, chúng ta nhận thấy có
hiến pháp của các quốc gia theo chế độ
quân chủ chuyên chế, quân chủ lập hiến,
chế độ cộng ḥa, chế độ
cộng sản với những danh xưng khác nhau
(Cộng Ḥa Xă Hội Sô Viết gọi tắt Nga Sô,
Cộng Ḥa Nhân dân Trung Hoa, Dân Chủ Nhân Dân các nước
Đông Âu cũ và riêng Cộng sản Việt Nam
với hai danh xưng kế tiếp VN Dân Chủ
Cộng Ḥa và Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa
VN).
Riêng Vương Quốc Anh, một nước dân
chủ kỳ cựu nhất thế giới, đă
từ 800 năm nay phát triển những qui tắc có
tính cách hiến định và luật hành chánh
khởi nguồn từ hiến chương The Magna
Carta (1215) mà nhà vua John của Anh quốc buộc
phải kư dưới áp lực của một số
quí tộc chống lại chính sách của Nhà vua áp
đặt sưu thuế nặng nề, hạn
chế tự do cá nhân. Hiến chương The Magna
Carta ban hành những điều có thể gọi là dân
quyền và nhân quyền đầu tiên trong lịch
sử Anh quốc. Các luật lệ kế tiếp
được nghị viện thông qua tạo thành
một thứ "hiến pháp không thành văn" (constitution
non écrite) độc đáo.
Trong lúc ấy, tám thế kỷ sau, c̣n có những
hiến pháp "thành văn" rơ
ràng, được công bố long trọng, ghi chú
đầy đủ các điều khoản và nguyên
tắc dân chủ, nhân quyền, nhưng lại không
được áp dụng hoặc chỉ được
áp dụng phần nào.
1. ngay trong "Lời nói đầu" của
bản hiến pháp, các nhà lập hiến đă không
dè dặt xác quyết: "…Thể chế hóa Cương
Lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xă hội
…" nghĩa là biến Cương Lĩnh của
Đảng Cộng sản Việt Nam thành thể
chế chính trị của quốc gia !
2. tiếp theo là điều 4 quái dị đặt
đảng cộng sản trên đầu quốc gia dân
tộc: " Đảng
Cộng sản Việt Nam – đội tiền phong
của giai cấp công nhân, đồng thời là
đội tiền phong của Nhân dân lao động và
của dân tộc Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác
– Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng – là lực lượng lănh
đạo Nhà nước và xă hội. " . Nhân
quyền và dân quyền không thể và không c̣n
chỗ đứng trong một hiến pháp như
vậy, cưỡng đặt một quốc gia dưới
sự lănh đạo của một đảng phái,
lại c̣n tự nhận lệ thuộc một
chủ nghĩa ngọai lai và tệ hại hơn
nữa, một chủ nghĩa đă bị đào
thải ngay trong hầu hết các nước đă áp
dụng nó và phải trả giá đắt. Tổng
cọng hơn một trăm triệu sinh linh, theo
tổng kết nghiêm chỉnh nhất của các
tổ chức độc lập theo dơi tiến tŕnh
phát triền của các quốc gia thuộc khối
Cộng sản quốc tế kể từ cuộc cách
mạng bôn-sê-vít năm 1917 ở nước Nga và lan
rộng nhiều vùng trên địa cầu cho đến
ngày Đế quốc Nga Sô và các chế độ chư
hầu ở Đông Âu sụp đổ.
- Nhân quyền
Trước khi tóm lược lịch sử của nhân
quyền từ khi nhiều quốc gia đă thành h́nh
trên địa cầu, thiết tưởng cần
nhắc lại rằng nhân quyền không phải là
một ân huệ của bất cứ quyền lực
nào ban phát cho con người. Trong nhiều hệ
thống luật pháp hiện đại, ngay từ khi
c̣n là một bào thai thành h́nh trong bụng mẹ, nó
đă có quyền trong di sản của người thân
dành cho nó khi nó chào đời. Như từ ngữ
đă rơ ràng, nhân quyền hay quyền của con người,
là một quyền tự nhiên, thiết thân với con
người. Từ mấy ngàn năm trước, các
nhà triết học thời cổ La mă – Hy lạp,
Platon, Marc Aurèle… cũng như các văn bản tôn giáo,
văn chương, triết học qua các thời
đại đều không nói khác.
Thế nhưng cần phải nhắc lại v́ vào
thế kỷ thứ 21 này, vẫn có một số
rất ít chế độ chính trị, đứng
đầu là các chế độ cộng sản c̣n
sót lại sau cơn đại hồng thủy 1989-1991
quét sạch Khối Cộng sản Nga Sô và Đông Âu,
các chế độ cộng sản này tiếp
tục xem nhân quyền như một đặc
quyền của họ mà dân chúng phải "xin
cho". Trước chính sách bạo hành dân chúng mà
Việt Nam XHCH là một trường hợp điển
h́nh, có vài quốc gia can thiệp một cách lịch
sự nhưng gặp phải hoặc là lời
hứa hẹn sẽ xem xét, hoặc là phản đối
và xem sự can thiệp như một hành vi xen lấn
vào chủ quyền của quốc gia, hay kỳ quái hơn
nữa bảo rằng "nhân quyền của nước
tôi không phải như vậy nên không có ǵ phải
quan tâm …"! Lẽ phải và lương tri không
thể nào chấp nhận những luận cứ ngoan
cố và vô ư thức như vậy khi quyền
của con người đă được công
nhận từ nhiều ngàn năm lịch sử,
kể từ khi nhiều quốc gia và nhiều nền
văn minh đă thành h́nh trên quả đất.
Thật vậy, năm 539 trước kỷ nguyên Thiên
Chúa, Cyrus Đại Đế (Cyrus le Grand) ở Ba –Tư
(Perse) đă tạo nên tiền lệ nhân quyền. Sau
khi chiếm Babylone, bằng hành động rất
ngoạn mục, Nhà vua giải thoát tất cả người
nô lệ và phán rằng tất cả mọi người
đều có quyền lựa chọn tôn giáo của ḿnh,
một thứ quyền rất quan trọng mà măi đến
bây giờ, hơn hai mươi lăm thế kỷ
sau, cộng sản vẫn không thực t́nh tôn
trọng và trên thực tế vẫn xử dụng
mọi cách để chèn ép các tôn giáo, cướp
đoạt tài sản các giáo hội. Bản mẫu
ghi khắc tuyên cáo của Cyrus Đại đế c̣n
được lưu giữ và quốc gia Iran tặng
cho Liên Hiệp Quốc năm 1971 và LHQ đă
chuyển ngữ ra tất cả các ngôn ngữ chính
thức.
Tuyên cáo của Cyrus Đại Đế đă
được công nhận là Tuyên ngôn Nhân Quyền
đầu tiên của lịch sử loài người.
Mười tám thế kỷ sau, Hiến chương
The Magna Carta 1215 vừa là khuôn mẫu một hiến
pháp như đă ghi trên, đồng thời là
một tuyên ngôn nhân quyền với sự ban bố
những quyền đặc biệt tiến bộ
của con người vào thời bấy giờ như
quyền của giáo hội (công giáo) sinh hoạt
tự do, chính quyền không được can
thiệp vào sự sinh hoạt nội bộ của giáo
hội, quyền của mọi người dân tự
do sở hữu tài sản và di sản và không bị
đánh thuế quá nặng, quyền của mọi người
được xét xử đúng pháp luật và b́nh
đẵng trước công lư……..Đúng 800 năm
sau hiến chương này, con người Việt Nam
dưới chế độ xă hội chủ nghĩa
hiện thời có được hưởng
những quyền thiết yếu ấy không ?!
Cũng tại Vương quốc Anh, năm 1628,
Nghị Viện đă thông qua dưới triều vua
Charles Đệ Nhất, một loạt các quyền
tự do dân sự làm nền tảng cho sự phát
triển nhân quyền mà quan trọng nhất là qui
tắc habea corpus được thi hành năm 1679 dưới
thời Charles Đệ Nhị.Theo qui tắc quan
trọng này, mọi sự giam giữ người
phải được phép của vị thẩm phán
để bảo đảm cho quyền tự do cá nhân.
Qui tắc habea corpus sẽ được liên tục
áp dụng tại nhiều quốc gia cho đến bây
giờ với vài chi tiết áp dụng khác nhau mà thôi.
Một hế kỷ sau, nhân quyền lại được
thể hiện rơ nét trong bản Tuyên ngôn độc
lập ngày 4 tháng 7 năm 1776 của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ và trong hiến pháp 1787 của
quốc gia này.
Cuộc cách mạng 1789 của Pháp cũng đề
cao nhân quyền trong bản "Tuyên ngôn nhân
quyền và dân quyền" , khẳng định
rằng: "Mọi người sinh ra và lớn lên
tự do và b́nh đẳng trước pháp luật"
và nhân quyền là
những quyền bất khả triệt tiêu (droits
imprescriptibles) của con người có giá trị
phổ cập trên toàn cầu.
1. Công ước quốc tế về các quyền kinh
tế, xă hội và văn hóa
Hai công ước này được thông qua năm
1966 và có hiệu lực thi hành năm 1976 sau khi
được một số quốc gia chấp
nhận và phê chuẩn. Nhiều quốc gia c̣n
tiếp tục phê chuẩn và rất nhiều văn
kiện kế tiếp khai triển các công ước
trong nhiều lănh vực từ những quyền
tự do cá nhân căn bản cho đến quyền dân
tộc tự quyết, quyền lao động, sự
cấm chỉ tra tấn. v.v…
Nếu quả thật mục đích của các tác
giả đa quốc gia và đầy thiện chí
của Bộ Luật quốc tế nhân quyền đáng
kính phục v́ lư tưởng tự do, dân chủ, v́
sự tôn trọng giá trị siêu việt của con người,
v́ ḷng mong muốn xây dựng một thế giới
an lạc ḥa b́nh sau hai cuộc thế chiến gây tang
tóc cho một phần nhân loại th́ tiếc thay,
thực tế lại khá phủ phàng. Một số
quốc gia vẫn không áp dụng các quyền tự
do căn bản của con người dù đă kư
kết vào tất cả ba văn bản ghi trên
của Bộ Luật quốc tế Nhân Quyền.
Thậm chí có thành viên của Hội Đồng Nhân
Quyền, cơ quan tối cao của Liên Hiệp
Quốc về nhân quyền, lại là quốc gia vi
phạm nhân quyền công khai và trắng trợn: trường
hợp Việt Nam Xă Hội Chủ Nghĩa là một
!
Nhân quyền c̣n bị vùi đạp man rợ hơn
nữa tại vùng ranh giới Irak và Syrie. Một nhóm
cực đoan chiếm cứ một vùng ở đây,
lợi dụng cuộc chiến chống chính quyền
Syrie tại vùng tranh chấp này, đă thành lập
một " Quốc gia Hồi giáo Irak- Syrie " (
Islamic State of Irak and Syria) áp dụng những cực h́nh
làm lu mờ những cực h́nh của thời Trung
Cổ, như chặt đầu, thiêu sống nạn
nhân mà một số bị chúng kết tội " tà
đạo " v́ không
cùng một tôn giáo với chúng.
Thiết tưởng trong những vụ được
gọi là khủng bố của hồi giáo cực
đoạn đă và đang xẩy ra ở nhiều nơi,
đặc biệt ở Trung Đông, Phi Châu, Âu Châu,
Úc, Gia nă đại, phần lớn nguyên do bắt
nguồn từ thái độ hận thù của khuynh hướng
Hồi giáo cực đoan đối với đạo
Do Thái và Thiên Chúa giáo, trở thành đố kỵ và
dị ứng với văn minh Tây phương. Vụ
quốc gia Israel chiếm cứ lănh thổ của
Palestine mà đa số dân chúng theo đạo Hồi,
kéo dài hơn nữa thế kỷ nay trước
sự bất lực của cộng đồng
thế giới càng khiến cho tâm lư hận thù thêm
nặng nề. Tính mạng của con người,
quyền sống tự do, mưu cầu hạnh phúc
bị thường xuyên đe dọa. Nhân quyền không
c̣n được coi trọng nữa trong bối
cảnh của hận thù tập thể, của
cuồng tín mù quáng làm lu mờ lư trí, đánh
mất lương tâm và ḷng nhân đạo.
- Hiến Pháp và Nhân Quyền
Nếu lịch sử của nhân quyền đang c̣n
bị hoen ố bởi một số chế độ
chính trị lỗi thời, lạc hậu đi ngược
trào lưu dân chủ tự do của thế giới và
bởi sự cuồng tín mù quáng của một
số quần chúng trong vài quốc gia kém mở mang th́
ngược lại, nhân quyền, nói chung, có một
vị trí đáng kể trong hiến pháp của đại
đa số quốc gia và ngay cả trong sinh hoạt dân
chúng qua những tổ chức xă hội dân sự.
Sự hiện diện của đầy đủ nhân
quyền trong một hiến pháp chứng tỏ
mức độ cao của nền dân chủ của
quốc gia ấy. Ngược lại, sự vắng bóng
nhân quyền hay sự thiếu sót bảo đảm
một cách minh thị nhân quyền trong một
hiến pháp tố cáo một chế độ chính
trị mờ ám nếu không phải là độc
đoán, độc tài.
Các hiến pháp của các quốc gia dân chủ có
thể khác nhau về mô h́nh của thể chế nhưng
nội dung về chất lượng dân chủ,
tự do, nhân quyền không khác biệt nhau đáng
kể. Riêng về Việt Nam Cộng Ḥa trước
1975, chúng ta có hai hiến pháp của Đệ
Nhất và Đệ nhị Cộng Ḥa, 1956 và 1967,
đều theo tổng thống chế (régime présidentiel).
Dù trong hoàn cảnh bạo loạn và chiến tranh do
cộng sản phát động, hai hiến pháp vẫn
thể hiện đúng mức dân chủ và nhân
quyền. Vài hạn chế v́ lư do an ninh và chống
Cọng thực ra quá ít so với t́nh thế lúc
bấy giờ.
- Nhân quyền và quyền dân tộc tự quyết
Nhân quyền cũng là lẽ sống của một
con người. Tôn trọng nhân quyền là nh́n
nhận giá trị siêu việt của con người
mà không một thế nhân nào, không một quyền bính
nào có thể tước đoạt. Nhân quyền không
phải là một vật " xin, cho " . Ṛng ră
bốn mươi năm nay, cuộc tranh đấu
đ̣i lại nhân quyền không lúc nào ngưng
nghỉ, chỉ khi yếu, khi mạnh nhưng khí
thế mănh liệt hơn với thời gian. V́
sự sợ hăi cá nhân đă nhường bước
cho ḷng can đảm tập thể. V́ phần lớn
cộng đồng quốc tế đă can thiệp
với chính quyền cộng sản.
Nhưng tiếc thay, cộng sản Việt Nam vẫn
ngoan cố chối căi hoặc giải quyết vài trường
hợp để khỏi làm mất mặt một vài
quốc gia mà chúng mang ơn. Kinh nghiệm ê chề này
chắc chắc sẽ kéo dài vô tận. Tiềm
lực quốc gia suy yếu giữa lúc hiểm
họa ngoại xâm ngày càng gia tăng.
Trước thế nước như vậy, chiến
lược tranh đấu cho nhân quyền phải thay
đổi và phải lồng vào trong cuộc tranh
đấu giành lại quyền tự quyết của
dân tộc. V́ sự sống chung nhân quyền với
một chế độ độc tài toàn trị là
một nghịch lư tuyệt đối. V́ chỉ khi nào
dân tộc đă giành lại được quyền
tự quyết của ḿnh để thiết lập
một thể chế chính trị dân chủ, tự do
thực sự th́ nhân quyền mới được
áp dụng và tôn trọng đúng mức, thuận
lợi cho sự phát triển toàn diện của con người,
thể chất và tâm linh.
Paris, tháng 3, 2015 LS Lê Trọng Quát |