Hồ
sơ tội trạng của Henry Kissinger – Chistopher
Hitchens - Đỗ Kim Thêm
The Trial of Henry Kissinger, Verso Books, London, New York 2001
Tóm tắt
Tội ác của Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam
là một đề tài bất tận. Lúc
chiến tranh c̣n khốc liệt đă có những trí
thức ngoại quốc tên tuổi như J. P. Sartre, B.
Russell và N. Chomsky lên tiếng kêu gọi thành lập toà
án quốc tế nhằm xét xử sự can thiệp quân
sự của Hoa Kỳ tại Việt Nam. Sau khi vụ
thảm sát tại Mỹ Lai được báo chí
tố giác th́ một tướng lănh và cũng
từng là trưởng đoàn thẩm phán công tố
của Hoa Kỳ tại Toà án Quốc tế Nürnberg, Đức,
Telford Taylor, đă viết một cuốn sách là Nuremberg
and Vietnam.
Với
tác phẩm này ông muốn đặt lại vấn
đề so sánh tội ác tại Mỹ Lai với hành
vi của Đức Quốc Xă.
Khi chiến tranh kết thúc th́ vấn đề này không
c̣n ai quan tâm. Phần lớn các tác phẩm xoay quanh
chủ đề Việt Nam đều
nói về sự sai lầm của Hoa Kỳ, mà
người ta t́m thấy đặc biệt qua các
hồi kư của các nhân vật quan trọng như R.
Nixon hay R. MacNamara.
Gần đây có một kư giả đă đặt
lại vấn đề này và nh́n dưới một
khía cạnh táo bạo hơn. Ông tự nhận ḿnh có
trách nhiệm như một thẩm phán công tố và
lập hồ sơ để truy tố một nhân
vật lừng danh, nhưng đă gây tội ác trong
chiến tranh Việt nam và nhiều nơi khác trên
thế giới. Thủ phạm được gọi
đích danh là Henry Kissinger, cựu Ngoại trưởng
Hoa Kỳ và là người đă kư kết Hiệp
định Paris. Tội danh được cáo buộc là:
Tội ác gây chiến tranh, Tội ác chống nhân
loại, Vi phạm luật quốc tế, đặc
biệt qua các vụ âm mưu tạo phản loạn, mưu
sát, bắt cóc và tra tấn. Với các tội danh này tác
giả yêu cầu Toá án Quốc tế phải xét
xử đương sự. Đó chính là nội dung
chủ yếu của cuốn sách được
giới thiệu trong bài viết này.
Tác giả
Chistopher Hitchens là một kư giả Hoa Kỳ gốc Do Thái,
chuyên về săn tin điều tra và viết b́nh
luận cho tờ The Nation và The Harper Magazine tại Hoa
Kỳ. Ông đă nổi tiếng qua các loạt bài
về phóng sự đ́ều tra nhắm vào mặt trái
của các nhân vật tên tuổi như Mẹ Theresa, Công
chúa Diana và Tổng Thống Clinton.
Nội dung tác phẩm
Tác phẩm gồm có 14 chương nhưng không đánh
số thứ tự. Phân loại theo nội dung th́
gồm có phần nhập đề, 10 đề tài,
phần kết luận và phần cảm tạ.
Phần nhập đề: Tác giả tự nhận ḿnh
là một đối thủ chính trị của Henry
Kissinger và muốn buộc ông ta trong những tội
trạng như sau:
Cố ư giết người thường dân tại
Đông Dương (gồm 3 chuơng)
Đồng loă tàn sát tập thể tại Bangladesh (1 chuơng)
Chủ mưu giết một nhân viên cao cấp trong chính
phủ Chile (2 chương)
Chủ mưu và tham dự vào việc giết một lănh
tụ của Đảo Síp (1 chương)
Chủ mưu và thực hiện tội diệt
chủng tại Đông Timor (1 chương)
Tham gia vào kế hoạch bắt cóc và giết một kư
giả người Hy Lạp sống tại Washington D.
C. (2 chương)
Chương 1 bật mí các bí mật trong hậu trường
chính trị Hoa Kỳ vào năm 1968, mặc dù được
các chính phủ liên tiếp giữ kín. Bí mật đó
là: Vào mùa thu 1968 trong thời kỳ tranh cử chính R.
Nixon và các đặc sứ của ông đă cố t́nh
phá hoại Hoà đàm Paris bằng cách hứa hẹn bí
mật với giới lănh đạo Nam Việt Nam là
chính quyền của Đảng Cộng hoà (nếu
thắng cử) sẽ tạo vị thế thuận
lợi cho Nam Việt Nam hơn là chính phủ của Đảng
Dân chủ.
Hậu quả là Nam Việt Nam đă tin theo và tẩy
chay Hoà đàm Paris khi triển vọng kư kết sắp
thành h́nh. Những đề nghị hoà đàm do Đảng
Dân chủ đưa ra bị phá vỡ. Vào đúng
bốn năm sau chính R. Nixon cũng đă dùng các điều
kiện này của Đảng Dân chủ để vận
động lại hoà b́nh cho Việt nam. Hậu quả
tàn khốc của kế hoạch này là cuộc
chiến kéo dài thêm 4 năm nữa với số
tổn thất 20.000 người Hoa Kỳ và vô số
người Đông Dương. Theo suy luận của tác
gỉả, tất cả đều nằm trong
dụng ư của Henry Kissinger.
Nhũng bằng chứng về lời cáo buộc này
được tác giả nêu ra:
Thứ nhất là những tin tức trích ra từ
nhật kư của H. R. Haldeman, Diary of Haldeman, một
cộng sự viên của R. Nixon và H. Kissinger, người
phụ trách việc lập các biên bản. Tài liệu
này được công bố vào tháng 5 năm 1994.
Một tài liệu thứ hai là cuốn sách Counsel to the
President: A Memoir của Clark Clifforf, Bộ trưởng
Quốc pḥng Hoa Kỳ. Sách được ấn hành năm
1991. Theo Clifford xác nhận th́ vào thời điểm này
đă có sự gặp gỡ bí mật giữa Tổng
thống Thiệu và John Mitchell, Giám đốc Tranh
cử của R. Nixon. Ông Mitchell được bà Anna
Chennault, một lobbyist của Đài Loan làm trung gian hỗ
trợ.
– Tài liệu thứ ba là Hồi kư của R. Nixon, The
Memory of Richard Nixon. Ông xác nhận giữa tháng 9 năm
1968 ông được tin riêng là Johnson sẽ ra lệnh
ngưng ném bom để tạo điều kiện cho
Bắc Việt vào hội nghị. Điều này không làm
ông ngạc nhiên. Kissinger báo cho ông biết là lệnh ngưng
ném bom sẽ công bố vào 23. 10. Nhưng từ tháng 6.
1968 Nixon qua trung gian của bà Anna Chennault đă gặp riêng
Đại sứ Bùi Diễm tại New York.
Tài liệu thứ tư là điện văn của Đại
sứ Bùi Diễm gửi cho Tổng thống Thiệu ngày
23.10.1968. Ông Diễm cũng yêu
cầu Tổng thống Thiệu nên giữ vững
lập trường, v́ ông đă được Đảng
Cộng hoà xác nhận ủng hộ miền Nam.
Các tài liệu nghe lén từ Toà đại sứ và
việc theo dơi hoạt động của bà Anna Chennault
được phổ biến sau này đă làm vấn
đề rơ hơn: Cứ mỗi lần phe Bắc
Việt Nam có thiện chí kư kết th́ chính phe Nam
Việt Nam lại ngă giá đặt điều kiện
cao hơn.
Tài liệu thứ năm là cuốn sách của Anthony
Summers, The Arrogance of Power: The Secret World of Richard Nixon,
xuất bản năm 2000. Đây là một tổng hợp
các hồ sơ nghe lén của R. Nixon, trong đó có
chiến dịch tranh cử năm 1968. Qua hồ sơ
của một điệp viên ngày 2.11.1968 th́ bà Anna
Chennault gặp Đại sứ Bùi Diễm để xác
nhận sự ủng hộ của R. Nixon và yêu cầu
phía Nam Việt Nam phải giữ vững lập trường.
Nixon tin rằng Nam Việt Nam sẽ
thắng.
Trong thời kỳ này Henry Kissinger nẳm trong bóng
tối và điều động từ hai phía. Một
mặt ông đưa tin mật ra bên ngoài, t́nh
nguyện cung cấp tin cho Nelson Rockefeller để tùy
nghi khai thác. Ông cũng nói cho Zbiginew Brzezinski biết là
ông ghét R. Nixon từ lâu và không tin Nixon thắng cử.
Mặt khác ông sử dụng Anna Chennault và John Mitchell
trong các điêp vụ ngoại giao riêng của ông. Điều
này tạo một ấn tượng chung lúc bấy
giờ là Nixon không liên hệ ǵ đến vụ
ngừng ném bom Bắc Việt và mọi diễn
tiến đều diễn ra từ phía Đảng Dân
chủ. Ông củng cố tin cho thấy là chính ông cũng
không biết ǵ vấn đề này.
Cuối chương sách tác giả đề cập
tới vai tṛ cua Henry Kissinger trong cái gọi là 40
Committee. Đây là một tổ chức nhằm nghe lén và
kiểm soát các hoạt động t́nh báo tại
hải ngoại được thành lập từ
thời Tổng thống Truman. Trong cuộc điều
tra của Thượng viện năm 1973, Giám đốc
CIA là William Colby cũng xác nhận có tổ chức này
và cho biết Henry Kissinger chịu trách nhiệm điều
hành, đặc biệt Kissinger nới rộng hoạt
động tới các phạm vi t́nh báo quốc
nội, điều mà trước đây không cho phép.
Chương 2 nói tới hoạt động của Henry
Kissinger tại Đông Dương. Trong giữa thập niên
60 khi mọi người vẫn lạc quan cho cuộc
chiến là có ư nghĩa và phần thắng nghiêng
về phía miền Nam th́ ông bắt đầu nghi
ngờ khả năng của phe Nam Việt Nam sau lần
đi thăm Việt Nam về. Ông đă âm thầm
tiếp xúc với Bắc Việt qua trung gian hai người
Pháp là Raymond Aubrac, một công chức nguời Pháp và là
bạn của Hồ Chí Minh và Herbert Marcovic, một nhà
vi sinh vật học đă đi Hà Nội nhiều
lần.
Qua tin tức cung cấp từ hai người Pháp này ông
đă ông đặc biệt t́m hiểu về khả năng
và vị thế thương thuyết của từng nhà
lănh đạo miền Bắc. Ông cũng đưa tin
này tiếp cho R. McNamara. Song song với công viêc này ông cũng
xúc tiến việc việc xích lại gần nhau
của các siêu cường. Dù trong kế hoạch
của Việt Nam hay quốc tế, ông luôn luôn có ư
niệm chung: tất cả đều là phương
tiện trong mục tiêu của cá nhân ông, có lúc ông chú
trọng mục tiêu này và sao lăng mục tiêu kia.
Tác giả nêu lại cơ hội tái lập hoà b́nh
để lỡ của năm 1968 làm thí dụ điển
h́nh. Theo lời khai của Averell Harimann, Trưởng phái
đoàn thương thuyết tại Hoà đàm Paris th́
tháng 10 và tháng 11 năm 1968 có 90% các lực lượng
chiến đấu của miền Bắc đă rút
khỏi ra hai tỉnh phía bắc Nam Việt Nam, như
Hiệp định dự kiến, c̣n việc ngừng
ném bom miền Bắc chỉ là một điểm
của Hiệp định mà thôi. Tháng 12 năm 1968 chính
là thời kỳ chuyển tiếp từ chính quyền
Johnson sang Nixon. Giới lănh đạo quân sự tại
Hoa Kỳ lại thay đổi chiến lược
triệt để. Tướng Creigton Abrams đồng
ư mở một cuộc chiến tranh toàn diện
nhằm phá hoại mọi hạ tầng cơ sở
của Việt Cộng tại miền Nam, điển h́nh
là chiến dịch hành quân càn quét tại Kiến Hoà
trong 6 tháng đầu năm 1969, mà người Hoa
Kỳ gọi là Operation Speedy Express.
Qua tài liệu của Haldeman th́ Henry Kissinger chú tâm
tới kết quả cuộc bầu cử 1972 tại
Hoa Kỳ hơn là rút quân để giải quyết
chiến tranh Việt Nam. Trong hồi kư của Kisssinger,
ông cũng xác nhận là sự rút quân đột
ngột gây khó khăn về uy tín cho Hoa Kỳ. Sự
can thiệp của Charles De Gaulle về vấn đề
ném bom miền Bắc không gây ảnh hưởng ǵ cho
Kissinger, v́ lúc bấy giờ ông quan tâm tới ư
kiến của Breschnjew và Mao Trạch Đông hơn.
Một tội trạng khác được nêu lên là
vụ ném bom miền Bắc vào mùa Giáng sinh 1972. Bây
giờ là lúc mùa tranh cử tại Hoa Kỳ bắt
đầu. Theo tác giả, quyết định ném bom không
phải là có tính cách quân sự thuần túy mà v́ lư
do chính trị. Ông chứng minh, một mặt Hoa Kỳ
chứng tỏ cho thấy thế mạnh của ḿnh
để gây hậu thuẫn cho Đảng Cộng hoà
trong Quốc hội và đưa phe Dân chủ về phía
thụ động, mặt khác muốn gây niềm tin
cho Tổng thống Thiệu thấy là không nên sợ hăi
trước việc Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam.
Tội trạng liên quan đến Cămpuchia được
tác giả nêu lên ở cuối chương. Đúng ngày
12.05.1975 là ngày Khmer Đỏ chiếm quyền th́ một
tàu chiến Cămpuchia đă kéo theo một tàu hàng
của Hoa Kỳ tên là Mayaguez. Tàu này nằm trong lănh
hải của Cămpuchia và được kéo về
đảo Koh Tang. Mặc dù được biết tin là
thủy thủ đoàn đă được trả
tự do, Henry Kissinger cũng cố t́nh làm áp lực cho
Henry Ford, một Tổng thống kế nhiệm
thiếu kinh nghiệm tiến hành một biện pháp
trả đũa để giữ thể diện.
Kết quả cuộc tấn công này là trong 110 thủy
quân lục chiến Hoa Kỳ có đến 18 người
chết và 50 nguời bị thương; phía không quân
tham dự có 23 quân nhân tử trận. Hoa Kỳ đă
ném bom tới 15.000 cân Anh trên đảo này và không ai
biết được con số thương vong của
người dân vô tội Cămpuchia một cách chính xác.
Một cuộc điều tra tại Quốc hội cho
thấy Henry Kissinger ít nhất phảỉ biết
được tin thủy thủ đoàn đă
được thả trước khi quyết định
can thiệp.
Chương 3 là trọng điểm của cuốn sách
được tác giả dùng để tổng hợp
tội trạng của Henry Kissinger trong chiến tranh
Việt Nam.
Khởi đầu tác giả sử dụng cuốn sách
Nuremberg and Vietnam của tướng Telford Taylor để
làm tài liệu phân tích. Theo Taylor th́ những nguyên
tắc luật pháp áp dụng tại Ṭa án Quốc
tế Nürnbeg và Tokio cũng nên áp dụng cho trưởng
hợp Việt Nam. Bản án Nürnberg đă được
Liên hiệp quốc phê chuẩn ngày 11.12.1946 và trở
thành nguyên tắc Luật Quốc tế sau này. Như
vậy Hoa Kỳ cũng phải tôn trọng nguyên
tắc này khi tham chiến tại Việt Nam. Những
bị cáo cũng có thể lập luận rằng
mục tiêu chiến đấu của chiến tranh
Việt Nam là danh dự và cao cả; những người
có trách nhiệm đều vô tội, v́ không ai có
thể lường trước được những
kết quả tàn khốc của một cuộc
chiến lan rộng và một phần khác là thiếu thông
tin chính xác. Cũng theo Taylor th́ lập luận này có
thể được chấp nhận được
cho đến giữa thập niên 60. Từ sau thảm sát
Mỹ Lai ngày 16.3.1968 không ai có thể cho là ḿnh không
biết đến mức độ vô nhân đạo
trong các cuộc tàn sát khi chiến tranh đă leo thang lên
cao điểm.
Một lập luận khác của William Corson, Đại tá
Hoa Kỳ, cũng được nêu lên để
phản chứng. Theo Corson sự khốc liệt trong
chiến tranh Việt Nam không có yếu tố h́nh
sự để buộc tội, đó chỉ là sự
ước lượng sai lầm của giới lănh
đạo Hoa Kỳ từ đầu đến
cuối sự tham chiến.
Lập luận này không được Taylor chấp
nhận. Ông nêu lên những đặc điểm trong
chiến tranh Việt Nam, điều mà người ta không
thể so sánh với các cuộc chiến tranh trước
đây. Một mặt những vũ khí được
trang bị tại Việt Nam rất hiện đại
và di động, mặt khác th́ phương tiện
truyền thông từ Hoa Kỳ đến Việt Nam cũng
như từ trung ương đến hạ tầng
được bảo đảm. Một điều có
thể suy đoán được là Henry Kissinger và tướng
Creighton Abrams phải biết được tầm
mức lan rộng chiến tranh đến thường
dân vô tội và họ ít nhất phải được
thông báo đầy đủ về vấn đề này.
Tài liệu của John Mcnaughton, Đại diện Bộ
Quốc pḥng, cho thấy giới lănh đạo Toà
Bạch ốc vào năm 1967 chỉ muốn một phương
cách duy nhất để quét sạch Việt Cộng
bằng cách đốt nhà dân chúng, phá hết rừng
rậm và tráng nhựa lại hết toàn bộ
miền Nam.
Một bằng chứng khác là cuộc Hành quân B́nh
định nông thôn tại Kiến Hoà vào sáu tháng
đầu năm 1969. Tài liệu của Kevin Buckley, Trưởng
Văn pḥng Tuần báo Newsweek tại Sài G̣n cho thấy
Henry Kissinger có tiếng nói quan trọng trong quyết
định này. Theo Buckley th́ tổng số thương
vong của Cộng quân trong cuộc hành quân này là
10.899, nhưng bằng chứng khác cho thấy số thương
vong của dân chúng lên trên 5.000 và vượt qua
hẳn con số tại vụ Mỹ Lai. Trước câu
hỏi được đặt ra là từ đâu có
những con số này th́ một sĩ quan Sư đoàn
9 Không kị Hoa Kỳ đă trả lời là: các
trực thăng có thể đếm các xác của
kẻ thù không có vũ khí này từ trên những cánh
đồng. Một nghịch lư khác được tác
giả nêu lên là so với gần 11.000 người
chết th́ số vũ khí tịch thu được
chỉ có 748. Theo ước lượng của tác
giả th́ cuộc hành quân này mức độ
khốc liệt hơn Mỹ Lai nhiều.
Tác giả dẫn một tài liệu khác của Tad Szulc
qua cuốn sách The Illusion of Peace. Theo đó th́ chính Henry
Kissinger đă có lần đề nghị sử
dụng bom nguyên tử đề phá hoại đường
tiếp tế Hoa-Việt và một lần khác nhằm
phá hệ thống đê điều của miền
Bắc. Nhưng đề nghị này đă không
được chấp thuận.
Vấn đề ném bom Campuchia cũng được
đặt ra. Theo tác giả th́ không có một căn
bản pháp lư nào cho việc nới rộng chiến
tranh này cũng như một đảm bảo an toàn nào
cho cho các thường dân. Các tài liệu từ Toà
Bạch ốc và Bộ Quốc pḥng cho thấy là trong
quyết định oanh tạc sang Cămpuchia và Lào th́
tổn thất các nạn nhân vô tội được
dự kiến trước. Theo tác giả có it nhất
660.000 thường dân tại Campuchia và 350.000 tại Lào
phải hy sinh oan uổng.
Trong Hồi kư của Henry Kissinger ông có đề
cập tới vấn đề này và cho là lệnh
dội bom đến từ nhiều cơ quan khác nhau và
điều này có thông báo cho Quốc vương Sihanouk
biết trước. Theo tác giả th́ chính Kissinger góp
phần quan trọng vào vấn đề này và ông
đă theo dơi chặt chẽ diễn tiến các
cuộc oanh tạc Cămpuchia. Không thể nào lập
luận rằng ông không có ư thức sự nguy hiểm
của quyết định này. Sự chấp thuận
của Sihanouk, nếu có, cũng không giải tội cho
Kissinger được. Những người trong
cuộc như R. McNamara, Mc. Georg Bundy và William Colby đă
chính thức lên tiếng hối lỗi và cố
gắng giải thích vấn đề. C̣n Henry Kissinger
th́ tuyệt nhiên cho đến nay không có những
phản ứng ǵ tương tự.
Tác giả cũng tố giác việc Hoa Kỳ đếm
xác người Việt để báo cáo lấy thành tích
mà không phân biệt thường dân hay quân nhân.
Một thí dụ được nêu lên để minh
chứng số tử thương chính thức từ tháng
3 năm 1968 cho đến tháng 2 năm 1972 bao gồm: Hoa
Kỳ 31.205, Nam Việt Nam 86.101 và đối phương
475.609. Cũng nên biết là trong thời kỳ này Hoa
Kỳ đă ném 4.500.000 tấn chất nổ xuống
Đông Dương.
Theo ước lượng của Thượng viện
Hoa Kỳ th́ ít nhất có trên ba triệu thường
dân thiệt mạng. Một con số khác được
CIA đưa ra là chỉ có 35.708 thường dân
bị bắt cóc và giết chết trong chiến
dịch Phượng hoàng cũng là điểm đáng
nghi ngờ. Những con số này được Henry
Kssinger đưa ra nhằm lừa dối, dấu
nhẹm công luận và tránh áp lực của Quốc
hội. Tác giả đă trích dẫn Nhật kư của
Haldeman để dẫn chứng sự kiện này
ở cuối chương sách.
Chương 4 nhằm cáo giác tội diệt chủng và
âm mưu đảo chính của Henry Kissinger tại
Bangladesh.
Tháng 12 năm 1970 phe quân phiệt Pakistan cho phép bầu
cử tự do. Kết quả là phe Sheikh Mujibur Rahen
thắng cử dễ dàng và chiếm đa số
ghế trong Quốc hội. Theo dự kiến th́ 3 tháng
3 năm 1971 Quốc hội sẽ triệu tập phiên
họp đầu tiên. Đúng ngày 1 tháng 3 nam 1971 tướng
Yakya Khan tuyên bố đ́nh hoăn việc này khiến cho
dân chúng nổi dậy chống đối. Quân đội
can thiệp mạnh vào thủ đô Dhaka và bắt
giữ Sheikh Mujibur Rahman; kư giả ngoại quốc
bị trục xuất.
Bất b́nh trước các đàn áp thô bạo này
Tổng lănh sự Hoa Kỳ tại Dhaka là Archer Blood
gửi điện văn phản đối sự
chậm trễ can thiệp của Hoa Kỳ. Việc này
được đa số nhân viên Toà Lănh sự
ủng hộ. Quân đội tiếp tục đàn áp
sinh viên và dùng súng bắn vào các cư xá đại
học. Các vũ khí này do Hoa Kỳ cung cấp trong chương
tŕnh Viện trợ Phát triển. Trong 3 ngày đầu
theo tác giả có tới 10.000 thường dân bị
chết. Tổng số nạn nhân trong cuộc đàn
áp này được ước lượng tối
thiểu từ hơn nửa triệu cho đến
đến ước lượng tối đa là ba
triệu thường dân. Trước t́nh h́nh cực
kỳ sôi động,
Đai sứ Hoa Kỳ tại Ấn Độ là Kenneth Keating
trong điện văn ngày 29 tháng 3.1971 yêu cầu Hoa
Kỳ phải có biện pháp ngăn chặn. Kết
quả đạt được là Henry Kissinger đă cách
chức Archer Blood và cảnh cáo Kenneth Keating. Vào cuối
tháng tư 1971 là thời kỳ cao điểm của
đàn áp chính tướng Yahya Khan đă gửi thư
cảm tạ Henry Kissinger về sự hợp tác.
Theo tài liệu của sử gia Lawrence Lifschultz thuộc
Đại học Yale mà tác giả dẫn chứng th́
Henry Kissinger phải làm ngơ v́ vào thời điểm
này Pakistan đang làm trung gian cho việc nối lại
bang giao Hoa Kỳ và Trung Hoa. Ngay trong phiên họp tại
Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ngày 6 tháng 3.1971 do Kissinger
triệu tập th́ mọi đề nghị can
thiệp đều bị Kissinger bác bỏ, kể
cả việc cảnh cáo tướng Yahya Khan phải tôn
trọng kết quả bầu cử.
Thái độ của Henry Kissinger cho thấy là ông không
tôn trọng nguyện vọng dân chủ của nhân dân
Bangladesh. Sau này khi Mujibur đi thăm Hoa Kỳ vào năm
1974 với tư cách là Quốc trưởng, ông
tẩy chay không gặp trong một cuộc tiếp xúc
trong 15 phút mà chính Tổng thống Ford đă chấp
thuận. Tháng 11 năm 1974 ông đến thăm
Bangladesh trong ṿng 8 tiếng đồng hồ và chỉ
mở một cuộc họp báo trong 3 phút. Theo những
tài liệu th́ ông để sắp xếp cuộc
đảo chính Mujibur.
Ngày 14.8.1975 th́ Mujibuhr và 40 tùy tùng đă bị hành
quyết trong một cuộc đảo chính. Những
chi tiết liên quan với David Eugene Booster, Đại
sứ Hoa Kỳ và Phipp Cherry, Trưởng Cơ quan t́nh
báo CIA tại Bangladesh được tác giả dẫn
chứng. Một cuộc điều tra về âm mưu
đảo chính của Kissinger đă được
tổ chức Carnegie thực hiện với sự tham
dự của 150 viên chức Bộ Ngoại giao và CIA,
nhưng kết quả không được công bố v́
chính áp lực của Kissinger.
Chương 5 nhằm vạch
trần tội trạng của Henry Kissinger tại Chile
trong khi triển vọng phát triển dân chủ tại
xứ này đang thành h́nh.
Tháng 9 năm 1970 phe tả của Dr. Salvador Allende
thắng thế với đa số phiếu 36,2 % trong
cuộc bầu cử Tổng thống. Sự phân hoá chính
trị trong cánh hữu và bảo thủ càng trầm
trọng hơn khiến cho các doanh nghiệp Mỹ
tại Chile như ITT, Pepsi-Cola và Ngân hàng Chase Manhattan
thấy làm ăn khó khăn hơn; triển vọng bang
giao kinh tế hai nước theo chiều hướng này
cũng xấu đi. Sau khi thoả thuận với Donall
Kendall, Chủ tịch tập đoàn Pepsi-Cola, David
Rockefeller, Chủ tịch Ngân hàng Chase Mahattan và Richard
Helms, Giám đốc CIA, Henry Kissinger cùng Richard Helms đến
gặp R. Nixon để t́m cách giải quyết vấn
đề. R. Nixon đồng ư kế hoạch ngăn
trở Allende nắm quyền, phí tổn chấp
thuận là 10 triệu đô la, kế hoạch hành
động trong ṿng 48 tiếng đồng hồ và Toà
Đại sứ Hoa Kỳ không được liên can.
Các tài liệu được giải mật sau này cho
thấy Henry Kissinger thoạt đầu không quan tâm
đến t́nh h́nh của Chile nhiều, nhưng ông cũng
tham gia v́ muốn chứng tỏ thực tài cho R. Nixon
thấy mà thôi.
Theo kế hoạch của Kissinger th́ một toán đặc
nhiệm công tác được h́nh thành từ Langley,
Virginia. Tổ chức gồm hai đường dây: chính
thức (qua ngả ngoại giao) và bí mật (không thông
qua Bộ Ngoại giao và Toà Đại sứ, nhằm
tổ chức đảo chính và bắt cóc tướng
Tư lệnh Quân đội Rene Schneider, mỗi sĩ
quan tham gia được tặng 50.000 đô la và hai người
trực tiếp điều hành kế hoạch này là
Richard Helms và Thomas Karamessines).
Toán công tác nhận định rằng t́nh trạng phân
hóa trong quân đội, sự trung thành đối
với tướng Schneider và Hiến pháp sẽ làm tŕ
trệ kế hoạch. Nhưng Henry Kissinger bất
chấp và ra lệnh phải tiến hành. Ngay trong
đường dây thứ hai th́ chính Kissinger cũng
chia làm hai loại nhóm tướng lănh của Chile để
hợp tác khác nhau.
Nhóm thứ nhất là tướng Roberto Viaux và Arturo
Marshall. Nhóm này đă có lần tổ chức đảo
chánh vào năm 1969 nhưng không thành công và bị quân
đội cũng như chính giới không coi trọng.
Nhóm thứ hai, tương đối khả kính hơn,
do tướng Camilo Valenzuela cầm đầu. Kissinger
chấp thuận cung cấp vũ khí cho tướng
Roberto Viaux, người thi hành kế hoạch này. Sau
thời gian tiếp xúc th́ CIA nghi ngờ khả năng
hành động của nhóm tướng Roberto Viaux, dù trước
đó đă giao 20.000 đô la tiền mặt và một
khế ước bảo hiểm nhân thọ cho y
với trị giá 250.000 đô la. Cuối cùng Nixon đi
đến quyết định ủng hộ nhóm tướng
Valenzuela và thúc hối hành động.
Đêm 18 tháng 10 năm 1970 nhóm của tướng Valenzuela
tổ chức bắt cóc tướng Schneider nhưng
thất bại v́ ông này vào giờ chót đổi ư dùng
xe riêng đi thay v́ công xa. CIA hốt hoảng, thúc
hối nhanh hơn và tiếp tục trả thêm cho nhóm
tướng Valenzuela 50.000 đô la nữa. Đêm 20 tháng 10
một cuộc bắt cóc lần thứ hai lại
thất bại. Ngày 22 tháng 10 CIA tiếp tục giao vũ
khí cho nhóm tướng Valenzuela. Nhưng cùng ngày này th́
tướng Scheider lại bị giết bởi nhóm
của tướng Roberto Viaux.
Tài liệu của Toà án Quân sự Chile sau này cho
thấy thủ phạm lại chính là người cùng
một lúc ở trong hai nhóm của hai đường dây
khác nhau. Trong tất cả các tài liệu của Hoa
Kỳ người ta không t́m ra được một
bằng chứng cho thấy là Hoa Kỳ công khai ra
lệnh giết hoặc bắt cóc và thủ tiêu tướng
Schneider. Trong việc chuyển giao vũ khí cho tướng
Valenzuela cũng không có một văn bản nào kết
luận được là Hoa Kỳ giao vũ khí để
sử dụng vào mục tiêu thanh toán tướng
Schneider.
Những bằng chứng được tác giả nêu
ra là: Brian MacMaster, một nhân viên CIA, lúc đó giả
dạng là một doanh nhân làm ăn tại Chile, khai
rằng sau vụ mưu sát này CIA vẫn tiếp
tục trả tiền cho các thuộc viên của nhóm tướng
Viaux bị ngồi tù để buộc phải ngậm
miệng.
Đại tá Paul M. Wimert, Tùy viên quân sự Toà Đại
sứ, là người chịu trách nhiệm liên lạc
với nhóm tướng Valenzuela, khai rằng, sau vụ mưu
sát ông đ̣i Valenzuela trả 50.000 đô la và 3 khẩu
súng lại và ông vứt vũ khí này xuống biển
để phi tang. Người đồng loă với ông
là Henry Hecksher, Trưởng nhóm CIA, trước đó
đă xác nhận với Washington là cà hai nhóm hợp tác
đều có khả năng thực hiện đảo
chính thành công.
Trong văn thư của Kissinger gửi đi ngày 15 tháng
10 không có bằng chứng nào chứng tỏ là Hoa
Kỳ đ́nh chỉ hợp tác với nhóm tướng
Viaux. Ngược lại điện văn của
Bộ Ngoại giao gửi cho Henry Hecksher ngày 20 tháng 10
cho thấy sự lo lắng của các giới chức
cao cấp khi hay tin hai lần mưu sát tướng
Schneider bất thành. Sau này Thomas Karamesines xác quyết là
sự quan tâm này đến từ Henry Kissinger.
Đại sứ Edward Korry cũng khai rằng Kissinger đă
ép ông đứng ra nhận hết tội trong vấn
đề này v́ Kissinger cho là xui xẻo và không muốn
dính tới.
Ở cuối chương tác giả trích dẫn
những đoạn trong Hồi kư của Kissinger qua
những lần gặp gỡ Pinochet và so sánh quan điểm
tŕnh bày với những biên bản chính thức
của Bộ Ngoại giao. Những vấn đề nhân
quyền, đàn áp đối lập, bang giao hai nước
và phát triển tổ chức Châu Mỹ La tinh (OAS)
viết ra đều trái ngược nhau.
Chương 6 bổ túc thêm về tội trạng
của Henry Kissinger về vụ Chile. Kết quả
một cuộc điều tra vào tháng 9 năm 2000
được gọi là Hinchey Amendment cho thấy
những yếu tố mới:
– CIA đă hợp tác với ba nhóm tướng lănh khác
nhau để đảo chính, chứ không phải là
hai nhóm như được biết từ trước
đến nay. Cả ba nhóm đều đồng ư là
phải bắt cóc tướng Schneider, v́ ông này
chủ trương Quân đội phải tuân theo
Hiến pháp và đồng ư cho Allende nắm quyền.
CIA chỉ cung cấp vũ khí cho môt nhóm tướng lănh
mà thôi và không có ư định giết tướng
Schneider. Cuối cùng CIA hợp tác với nhóm thứ
hai, nhưng trưóc đó bốn ngày đă ngưng
yểm trợ v́ nhận định là đảo chính
sẽ không thành công.
Tác giả nêu lên một phản chứng khác:
– Đến tháng 11 năm 1970 một thành viên trong nhóm
của tướng Viaux đă trốn thoát cuộc lùng
bắt và liên lạc được với CIA để
xin giúp đỡ tiền bạc. CIA đă trả cho người
này 35.000 đô la để mong là im tiếng. Tác
giả suy đoán lệnh trả tiền phải do
Kissinger duyệt y, v́ CIA tại Chile không có thẩm
quyền này.
Ở cuối chương này tác giả dẫn
chứng về sự hợp tác của CIA với tên trùm
mật vụ của Pinochet là Manuel Contreras. CIA xác
nhận giúp đỡ cho Contreras, nhưng chỉ
nhằm thêm phương tiện kỹ thuật và
huấn luyện nhân viên t́nh báo để Chile có phương
tiện chống ngoại xâm chứ không phải dùng
để đàn áp đối lập. Tác giả
chứng minh ngược lại là Chile không có ngoại
thù, mà chỉ có nhân dân chống chế độ
Pinochet. Dầu biết Pinochet vi phạm nhân quyền
với các phương tiện của CIA hỗ trợ
cho Contreras, Hoa Kỳ vẫn làm ngơ v́ những
quyền lợi của Hoa Kỳ tại Chile.
Chương 7 cáo giác tội trạng của Kissinger
trong việc can thiệp vào nội bộ tại Đảo
Síp.
Đây là một đảo với 82% dân Hy Lạp và 18% dân
Thổ sinh sống. Tổng thống Makarios của Đảo
Síp được dân chúng bầu ra. Nhưng độc
lập của Đảo Síp là cái gai cho Hy Lạp và
Thổ. Cả hai đều muốn xác nhập Đảo
Síp vào nước của ḿnh, cả hai đều
ủng hộ các tổ chức nổi loạn, gây
bạo động để chống đối lẫn
nhau. Trước t́nh h́nh này Kissinger cho là chế độ
của Makarios chính là đầu mối cho sự
bất ổn tại Đảo Síp và gây nguy hại cho
t́nh h́nh chung trong vùng. Dimitros Ioaninides, Trưởng cơ
quan t́nh báo của Hy Lạp lập kế hoạch
nhằm lật đổ Makarios vằ muốn đặt
Đảo Síp dưới quyền kiểm soát của
Hy Lạp.
Hoa Kỳ đă yểm trợ kế hoạch này. Henry
Kissinger đă biết tin đảo chính trưóc hai tháng
trước đó, tức là tháng năm 1974, nhưng ông
không phản ứng ǵ. William Fulbright, Chủ tịch
Ủy ban Ngoại giao Thượng viện, ngay sau khi
biết tin đảo chính này do một kư giả Hy
lạp là P. Demetracopulous cung cấp, đă yêu cầu
Kissinger t́m mọi biện pháp ngoại giao để ngăn
chận, nhưng Kissinger chối từ viện cớ
đây là nội bộ của Hy Lạp.
Những bằng chứng cho thấy Ioannides liên hệ
với CIA trong khi Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ không
phản ứng ǵ trước t́nh h́nh ngày càng sôi
động. Sau ngày đảo chính, trước áp
lực nặng nề Kissinger đă họp báo thanh minh là
không nhận được tin tức ǵ liên quan.
Thực ra ông có đủ mọi nguồn tin, từ chính
thức cho đến tin t́nh báo về diễn biến
t́nh h́nh. Việc quyết định cho Nicos Samson
nắm quyền đều do CIA sắp đặt và chi
trả phí tổn. Trong một hồi kư của tướng
Grigorios Bonanos, Tư lệnh Quân đội Hy Lạp in năm
1986 tại Athen tựa là Sự thật đă phơi bày
tác giả đă cho biết: Cuộc tấn công vào
đảo Đảo Síp được chính thức
ủng hộ của Thomas A. Papas, người trung gian liên
hệ giữa nhóm đảo chính và Nixon – Kissinger.
Kế hoạch đảo chính thất bại làm hàng
ngàn người chết và 200.000 người tỵ
nạn. Mặc dù Makarios trốn thoát được và
t́m cách vận động trở về nắm
quyền nhưng Kissinger luôn t́m cách ngăn trở. Ông
cũng không công nhận Makarios là Tổng thống
của Đảo Síp nữa. Sau nhiều áp lực
từ Thượng nghị sĩ William Fulbright, Chủ
tịch ủy Ban Ngoại giao Thượng viện và Dân
biểu Thomas Morgan, Chủ tịch Ủy ban Ngoại giao
Hạ viện, người chính thức mời Makarios
đến thăm Washington, Kissinger mới chịu
tiếp kiến Makarios.
Kissinger cũng lượng trước được t́nh
h́nh: ngày nào Hy Lạp c̣n muốn nắm quyền th́
Thổ cũng sẽ t́m cách phản công quân sự. Ông
luôn t́m cách ngăn trở sự phục hồi của
Makarios qua hỗ trợ quân sự của Thổ hay Anh
Quốc. Sir Tom Mcnally của Bộ Ngoại giao Anh cũng
đă có tài liệu minh chứng điều này.
Chương 8 buộc tội Henry Kissinger trong việc
chủ mưu diệt chủng nhân dân Đông Timor.
Đảo Timor trước đây thuộc Bồ Đào Nha
sau này bị Inđônexia sát nhập. Pḥng trào đấu
tranh dành độc lập của FRETILIN được
dân chúng trong đảo ủng hộ và gây được
thiện cảm của ngoại quốc. Ngày 7 tháng 12 năm
1975 Inđônexia tấn công quân sự lên đảo
Timor. Một sự kiện đáng lưu ư là cùng ngày
này Tổng thống Ford và Ngoại trưởng Kissinger
đến đảo Hawaii sau khi đi thăm Inđônexia
về. Một câu hỏi được báo chí đặt
ra tại phi trường Hawaii cho Tổng thống Ford là
Hoa Kỳ có bật đèn xanh cho cuộc đàn áp này
không. Ông Ford không trả lời và hẹn vào một
dịp khác. Sau đó qua một thông cáo báo chí cho
biết Hoa Kỳ rất quan tâm tơî t́nh h́nh tại
Đông Timor, đặc biệt là việc sử
dụng bạo lực. Tổng Thống Ford hy vọng
rằng mọi sự sẽ được hoà giải
tốt đẹp.
Khi tin tức chi tiết về sự tàn sát tại
Đông Timor được báo chí tường
thuật, nghi vấn về sự hỗ trợ của
Hoa Kỳ, đặt biệt và việc cung cấp vũ
khí, càng được đặt ra nhiều hơn. Đại
sứ Hoa Kỳ tại Liên hiệp quốc là Daniel
Patrick Moynihan trong hồi kư của ông tựa là A
Dangerous Day, cũng đă để lộ nhiều chi
tiết về cuộc đàn áp này, dù không ám chỉ
đích danh Henry Kissinger.
Ngày 11 tháng 7 năm 1995 trong khi đi giới thiệu tác
phẩm mới của ḿnh là Diplomacy, Kissinger đă
gặp các nạn nhân và vấn đề được
đặt ra.
Trả lời câu hỏi của ông Constancio Pinto,
một lănh tụ của phong trào đấu tranh Đông
Timor, Kissinger cho biết là việc ông đến Inđônexia
vào thời điểm này hoàn toàn t́nh cờ. Tổng
thống Ford và ông dự trù đi Trung Hoa trong năm ngày.
Mao Trạch Đông đang bi bệnh nặng và phong trào
Tứ Nhân Bang gây bất ổn nội t́nh Trung Hoa
khiến ông Ford quyết định Hoa du chỉ có hai
ngày và thay đổi chương tŕnh đi thăm Phi
Luật Tân một ngày rưỡi và Inđônexia
một ngày rưỡi.
Trong cuộc hội kiến tại Inđônexia th́
vấn đề Đông Timor không nằm trong chương
tŕnh nghị sự. Khi đến phi trường th́ ông
mới biết được tin, nhưng không rơ
số nạn nhân. Ông không hề tạo điều
kiện cho người Bồ Đào Nha ở lại. Khi người
Inđônexia thông báo t́nh h́nh ông cũng không ủng
hộ hay chống đối. Theo ông, Đông Timor không
phải là cường quốc và không nằm trong
ảnh hưởng cũng như quan tâm của Hoa
Kỳ.
Ông Allan Nairn, một kư giả Hoa Kỳ, nạn nhân c̣n
sống sót của cuộc tàn sát tại Timor cũng có
mặt trong buổi này và phản chứng những
đ́ều Kissinger nói. Theo tài liệu của ông thu
thập từ Bộ Ngoại giao, dù không đầy
đủ, cũng cho thấy là Kissinger đă thảo
luận vấn đề này với Suharto trước
khi có đàn áp. Trong một cuộc phỏng dành cho ông
Nairn, Tổng thống Ford cũng xác nhận là đề
tài Timor được đặt ra trong lúc gặp
Suharto.
Một bẳng chứng khác được ông Nairn
đưa ra là một biên bản buổi họp
tại Bộ Ngoại giao ngày 18.12.1975. Theo biên bản này
th́ Kissinger sau khi đi Inđônexia về đă khiển
trách nhân viên nặng nề v́ đă để ông
Leigh, một luật sư cố vấn của Bộ lên
tiếng chỉ trích. Theo ông Leigh th́ việc Inđônexia
tấn công vào đảo Timor và vi phạm luật
quốc tế và vi phạm hiệp ước với
Hoa Kỳ trong việc sử dụng vũ khí. Kissinger
trả lời tiếp là Timor không phải là một
vấn đề lớn nằm trong chính sách ngoại
giao của Hoa Kỳ, mà là một vấn đề
hậu thuộc địa. Chuyện khiển trách nhân
viên là một phần để lấy ḷng Inđônexia,
một phần là vấn đề nguyên tắc làm
việc. Các vấn đề vi phạm nhân quyền
phải được thảo luận trong Bộ trước
khi đưa ra công luận.
Tác giả nêu một bằng chứng từ tài
liệu của C.Philipp Liechtey, Trưởng nhóm CIA
tại Inđônexia. Liechtey xác nhận có sự hỗ
trợ chính trị từ Bộ Ngoại giao và yểm
trợ vũ khí cho các cuộc đàn áp. Ở cuối
chương toàn văn biên bản ngày 18.12.1975 tại
Bộ Ngoại giao được đem ra phân tích chi
tiết để kết tội Kissinger.
Chương 9 đưa ra ánh sáng vụ giết một
kư giả người Hy Lạp bút hiệu P.
Demetracopoulos ngay tại Washington D. C. mà Henry Kissinger
trực tiếp tham gia.
Demetracopoulos là một kư giả nổi danh chống
chế độ quân phiệt Hy Lạp nhưng ông cũng
là một nhà tư vấn và cung cấp tin tức cho
nhiều chính giới tại Hoa Kỳ về nội t́nh
Hy Lạp. Demetracopoulos từ lâu là một cái gai cho
Kissinger v́ ông biết quá nhiều tin tức tối
mật của Hoa Kỳ, điển h́nh là vụ
tiền quyên góp 549.000 đô la của t́nh báo Hy Lạp
cho Nixon để vận động tranh cử qua trung
gian của một doanh nhân Hy Lạp tên Thomas Papas A. FBI
đă theo dơi những hoạt động của kư
giả này từ lâu.
Chính quyền Hy Lạp cũng tước quốc
tịch của ông và t́nh báo Hy Lạp có những âm mưu
tổ chức bắt cóc và dẫn độ ông này
về Hy Lạp để xét xử. Kế hoạch này
được CIA hỗ trợ. Theo một tài liệu
của William A. Dobrovir, một luật sư của
Demetracoupolos, tổng hợp từ nhiều nguồn tin
khác nhau của FBI, CIA, Bộ Ngoại giao, Bộ Tư
pháp và Bộ Quốc pḥng th́ chính Kissinger là đồng
loă. Trong Hồi kư In The First Line of Defense của Konstantin
Panayota, Đạ sứ Hy Lạp tại Hoa Kỳ đă nêu
lên bằng chứng về sự hợp tác này.
Chương 10 tố cáo Henry Kissinger
hợp tác với các chế độ độc tài trên
thế giới qua tổ chức tư vấn của ông.
Ngay sau khi rời khỏi chính trường, ông lập
một văn pḥng tư vấn gọi là Kissinger
Associates mục đích nhắm giúp giới doanh nhân
tiếp xúc với các chính quyền trên khắp thế
giới để t́m kiếm cơ hội đầu tư.
Khách hàng của ông là các doanh nghiệp khổng lồ
như American Express, Searmon Learman, Arco, ITT, Lockhead, Cola Cola
Fiat, Deawoo…
Tại thi trường Trung Hoa ông đă làm trung gian thương
thuyết cho các hăng H. L. Heinz, Atlantic Richfield/Arco và Chase
Manhattan Bank. Qua trung gian của một thành viên là Lawrence
Eagleburger, văn pḥng ông cũng hợp tác làm ăn
với LSB một ngân hàng của chế độ độc
tài Bulgaria và làm Đại diện Hoa Kỳ cho Tổ
hợp Xây dựng quốc doanh của Nam Tư Yugo
Enerjoproject, một tổ chức sản xuất vũ khí
quốc pḥng.
Một thành viên khác trong tổ chức của ông là
Alan Stoga cũng công khai hợp tác với Saddam Hussein,
mở ra một Iraq Business Forum nhằm giúp đỡ
doanh nhân dễ dàng đầu tư tại Iraq. Ông cũng
hợp tác Tập đoàn đầu tư quốc
tế Freeport Mcmoran, chuyên về khai thác quặng mỏ
và khí đốt có trụ sở chính tại New Orleans.
Một trong những kế hoạch của tập đoàn
là xin phép khai thác quặng tại Miến Điện,
phần kỹ thuật xây dựng do Daewoo thực
hiện, nhưng việc này không thành. Ông cũng
trợ giúp cho tập đoàn này trong các khai thác
quặng mỏ tại Indonesia. Tóm lại hiện nay ông
đang theo đuổi những quyền lợi kinh
tế cá nhân đôi khi tương phản với
quyền lợi của Hoa Kỳ.
Chương cuối cùng có tựa đề là Luật
pháp và công lư. Tác giả đề cập tới
một căn bản pháp lư để áp dụng trong trường
hợp Henry Kissinger. Theo tác giả có bốn nguốn
luật pháp hiện đại được áp
dụng là: Luật quốc tế về Nhân quyền,
Luật chiến tranh, H́nh luật quốc tế và H́nh
luật các quốc gia.
Tác giả ghi nhận rằng Công ước quốc
tế về tội diệt chủng mới được
phê chuẩn từ năm 1988, Công ước công
nhận về các quyền dân sự và chính trị cũng
được kư kết từ năm 1992 và những
nguyên tắc của Ṭa án Nürnberg đều không
thể áp dụng cho các hành vi của Henry Kissinger v́
nguyên tắc bất hồi tố trong các văn
kiện này. Tác giả giải thích luật phong tục
quốc tế sẽ là một căn bản pháp lư duy
nhất để áp dụng cho trường hợp
Henry Kissinger, đặc biệt các tội trạng liên
quan đến chiến tranh Đông Dương. Tội danh
diệt chủng này đă được Ṭa án
Quốc tế công nhận từ năm 1951 và nay th́ Toà
án H́nh sự Quốc tế có thẩm quyền. Trong
việc cung ứng vũ khí cho Indonesia, theo tác giả th́
Henry Kissinger đă vi phạm luật pháp về vũ khí
của Hoa Kỳ phải chịu tội trước toà
án Hoa Kỳ.
Phản ứng của Henry
Kissinger
Dư luận tại Hoa Kỳ rất quan tâm đến
phản ứng của Henry Kissinger từ ngày tác
phẩm này ra đời, nhưng cho đến ngày nay
ông tuyệt nhiên không lên tiếng trả lời chính
thức về sự cáo giác này.
Tuy nhiên, trong một tác phẩm mới nhất của
ông do nhà xuất bản Simon & Schuster ấn hành năm
2001, Does America need a foreign policy? Henry Kissinger đă trả
lời một cách gián tiếp vấn đề này khi
bàn về vai tṛ của Toà án H́nh sự Quốc
tế. Ông viết: Phần đông người Hoa
Kỳ rất ngạc nhiên khi biết rằng Toà án H́nh
sự Quốc tế về nước Nam Tư cũ
được thành lập do chỉ thị của Hoa
Kỳ trong năm 1993 để xét xử các phạm nhân
chiến tranh, nhằm xác nhận lại quyền điều
tra của các nhà lănh đạo quân sự và chính
trị Hoa Kỳ trước những hành vi cáo buộc
là có tội ác. Việc điều tra này vô hạn
định và áp dụng cho tất cả.
Qua câu nói này của Kissinger người ta cũng không
nên hiểu là ánh sáng công lư sẽ lan tràn khắp
mọi nơi, mà thực ra là công lư bao giờ cũng
là của kẻ thắng trận và luật lệ
chỉ áp dụng cho đối phương và người
thua cuộc. Qua một đoạn khác ông đă gay
gắt phản đối việc áp dụng nguyên
tắc H́nh luật Quốc tế việc xét xử các
nhà lănh đạo ngoại quốc trước toà án này.
Ông đặt câu hỏi: Làm sao t́m ra nguyên tắc an toàn
pháp luật trong thủ tục tố tụng, đặc
biệt là nguyên tắc trưng dẫn bằng chứng
và bảo vệ bị cáo, làm sao có thể tách rời
vấn đề pháp lư ra khỏi những quyết
địnnh chính trị quốc tế.
Người ta có thể nhận ra rằng ông đă ư
thức sự nguy hiểm của vấn đề mà tác
giả đặt ra và cũng suy đoán là ông đang
khởi đầu một cuộc biện hộ cho chính
ḿnh về những hành vi trong quá khứ, dù năm nay
ông đă 84 tuổi.
Nhận xét
Trước đây đă có nhiều tác phẩm phê b́nh
về đường lối ngoại giao của Hoa
Kỳ và của Henry Kissinger, đặc biệt cũng
có những tác phẩm viết về khiá cạnh đạo
đức của nhân vật này. Nhưng đây là
lần đầu tiên một h́nh thức cáo trạng
với dày công sưu tập từ những tư
liệu mới được tŕnh bày.
Về h́nh thức th́ đây là một công tŕnh đáng
ca ngợi của tác giả, một kư giả chuyên
về điều tra báo chí (investigative journalism).
Thiện chí này được t́m thấy qua nỗ
lực t́m kiếm từ nhũng nguồn tài liệu khác
nhau và phức tạp.
Qua nội dung thấy được th́ sự nghiên
cứu của tác giả về lĩnh vực Luật
Quốc tế, đặc biệt về các phương
thức h́nh sự tố tụng, c̣n hạn chế. Tác
phẩm này không phải là một cáo trạng đúng
nghĩa theo h́nh thức luật học, đặc
biệt lại càng không đúng theo phương
thức h́nh sự tố tụng trước Toà án
Quốc tế khi mà các kỹ thuật trưng dẫn các
tài liệu thiếu khoa học và không thuyết
phục.
Tác giả đă không nêu các bằng chứng xuyên
suốt, thống nhất; đôi khi ông lầm lẫn
giữa những sự kiện lịch sử, hậu
quả pháp lư cũng như những phán đoán về
đạo đức cá nhân của Kissinger; đôi khi
những lời cáo buộc chỉ dựa trên những
cảm xúc trước những bất công hơn là
một lời kết luận dựa trên cơ sở
lập luận chặt chẽ của h́nh luật.
Trong tất cả các tội danh được cáo
buộc th́ phần liên hệ đến chiến tranh
Đông Dương có nh́ều tính thuyết phục và có
triển vọng thành công trước Toà án Quốc
tế nếu các tài liệu được bổ túc
đầy đủ và khoa học hơn. Trở
ngại chủ yếu vẫn là tài liệu từ người
trong cuộc. Hiện nay các tư liệu của Henry
Kissinger đă được kư gửi tại Thư
viện Quốc hội Hoa Kỳ không được
khai thác. Theo di chúc của ông th́ các tài liệu này
được phép sử dụng sau khi ông chết năm
năm. Do đó một đề án khởi tố ông
hiện nay khó có cơ may thành công.
Một suy nghĩ cuối cùng của người đọc:
Đây là một tấm gương can đảm của tác
giả đă gây tiếng vang về mặt chính
trị. Liệu người Việt Nam, những nạn
nhân trực tiếp của Henry Kissinger c̣n sống sót,
có khả năng, thiện chí và nỗ lực để
khởi tố thủ phạm hay không hay chỉ tiếp
tục mang niềm đau nhược tiểu và chỉ
biết ngậm ngùi than rằng: con kiến mà kiện
củ khoai. Ước mong sao vấn đề này
sẽ được thảo luận sâu rộng hơn.
Dĩ nhiên đây là một vấn đề vượt
ra khỏi khuôn khổ của bài này.
kimthemdo
|