40 năm sau khi Hoa Kỳ để mất Việt Nam Cộng Hoà, Hoa Kỳ vả Đồng Minh mất luôn Biển Đông Van Phan |
Hoa
Kỳ, quốc gia nằm ở phía Đông Thái B́nh Dương
- chứ không phải Cộng Sản Trung Hoa - với
tiềm lực quân sự chế ngự toàn thể
đại dương này, vẫn thường
được coi là cường quốc Thái B́nh Dương
bởi lẽ Hạm Đội Thứ 7 trực thuộc
Hạm Đội Thái B́nh Dương có tổng hành dinh
đóng tại Yokosuka trên đảo Honsu của
Nhật Bản và có cả thảy 3 hàng không mẫu
hạm, hằng ngh́n máy bay cùng hằng trăm
chiến hạm cũng như tiềm thủy
đĩnh đủ cỡ, đủ loại, đang
là lực lượng hùng mạnh vô địch
trải rộng khắp miền, từ Guam tới
Okinawa và từ Singapore cho tới Sydney. Nhưng
vị thế đó rồi đây sẽ không c̣n
nữa khi Cộng Sản Trung Hoa, gọi cho gọn là
Trung Cộng, đang ngày càng bành trướng thế
lực trên biển (và có thể là cả trên bộ
nếu một mai Việt Nam trở thành một
tỉnh của Trung Cộng chiếu theo bản
“Thỏa Thuận Thành Đô” đầy bí ẩn
được kư kết giữa hai Đảng Cộng
Sản Trung Hoa và Việt Nam hồi năm 1990), đặc
biệt là tại hai Quần Đảo Hoàng Sa và Trường
Sa trên Biển Nam Hoa (South China Sea), nơi lực lượng
hải quân Trung Cộng đang đối đầu
quyết liệt với lực lượng hải quân
của hai quốc gia Đông Nam Á nhỏ bé hơn họ
nhiều, là Cộng Sản Việt Nam, nước
gọi Biển Nam Hoa theo cách riêng của họ là
Biển Đông, và Phi Luật Tân, nước gọi vùng
biển này là Biển Tây (West Philippine Sea), căn
cứ vào vị trí địa lư của vùng biển
đó đối với đảo quốc này. *Thế
yếu hiện nay của các nước Việt Nam,
Phi Luật Tân, Mỹ, Ấn Độ và Nhật Bản Trong
mấy năm trở lại đây, cả Hoa Kỳ
lẫn Nhật Bản và Ấn Độ đều ráo
riết ve văn Cộng Sản Việt Nam, lộ
liễu nhất là trong và sau cuộc khủng hoảng
bang giao giữa hai nước cộng sản “anh em”
kia, do việc Trung Cộng bất th́nh ĺnh đưa
giàn khoan Hải Dương 981 vào sâu bên trong hải
phận (lănh hải) Việt Nam trên Biển Nam Hoa
để ḍ t́m dầu khí, với ư đồ không
giấu diếm là muốn đặt Cộng Sản
Việt Nam vào t́nh thế đă rồi là toàn bộ,
hay ít ra cũng là hầu hết, Biển Nam Hoa đă
thuộc chủ quyền của Trung Cộng, nếu như
Cộng Sản Việt Nam và thế giới không có
phản ứng ǵ. Thật
ra, những quốc gia tự do, dân chủ đó
nỗ lực ve văn - và có khi c̣n tỏ ra chiều
chuộng thái quá - quốc gia Cộng Sản tại
Đông Nam Á này chẳng phải v́ họ yêu thương
ǵ lắm dân tộc Việt Nam hoặc cái Đảng
Cộng Sản Việt Nam đang cai trị đất
nước đáng thương đó mà chẳng qua là
v́ Cộng Sản Việt Nam, nước có cảng nước
sâu Cam Ranh tốt hơn cả Rio de Janeiro của Brazil,
đang giữ một vị thế chiến lược
cực kỳ quan trọng, nếu không nói là quan
trọng nhất, tại phía Tây Thái B́nh Dương,
bởi v́ Biển Nam Hoa ngoài khơi Việt Nam là
thủy lộ huyết mạch từ Thái B́nh Dương
thông qua Ấn Độ Dương của các nước
có kỹ nghệ phát triển và có nền kinh tế
lớn trong vùng, như Nhật Bản, Nam Hàn, Đài
Loan, Ấn Độ và Hoa Kỳ. Nếu Biển Nam Hoa
lọt vào tay một cường quốc hùng mạnh
và tham tàn như Trung Cộng th́ coi như không riêng ǵ
Việt Nam và Phi Luật Tân mà tất cả các nước
nêu trên, luôn cả Thái Lan, Mă Lai Á, Singapore, Indonesia,
Brunei và Úc Đại Lợi, cũng khốn đốn lây. Bề
ngoài, có vẻ như cuộc tranh chấp chủ
quyền trên Biển Nam Hoa vẫn đang diễn
tiến chứ chưa ngă ngũ, nghĩa là cả
Trung Cộng lẫn Cộng Sản Việt Nam và Phi
Luật Tân, cùng với các quốc gia ở phía Nam vùng
biển này, là Mă Lai Á, Indonesia và Brunei, không ai
thật sự nắm quyền kiểm soát hết
Biển Nam Hoa. Tuy nhiên, trên thực tế, Trung
Cộng đang làm chủ vùng biển đó, cho dù Hoa
Kỳ và thế giới, trong đó có Ấn Độ và
Nhật Bản, có muốn hay không, chỉ v́ một
lẽ đơn giản là, trong thế giới ngày
nay, khi Liên Hiệp Quốc chỉ là một tổ
chức bù nh́n của các cường quốc, nguyên
tắc mạnh được, yếu thua theo tiến
tŕnh đấu tranh sinh tồn và chọn lọc
tự nhiên trong Thuyết Tiến Hóa của Charles
Darwin (Evolutionism/Darwinism) mới là yếu tố
quyết định sự sống c̣n của một
giống người hay của cả nhân loại -
chứ không riêng ǵ loài động vật - đặc
biệt là các nước nhược tiểu như
Cộng Sản Việt Nam trước nanh vuốt
của các quốc gia hùng mạnh và tham tàn như
Trung Cộng. Vả lại, Cộng Sản Việt Nam,
v́ bị Trung Cộng kèm kẹp trong ṿng ảnh hưởng
của họ, chưa hề có được một
cường quốc quân sự nào cam kết bảo
vệ bằng một hiệp ước pḥng thủ
chung, như trường hợp Nhật Bản và Phi
Luật Tân là hai quốc gia cũng đang đối
đầu với Trung Cộng trong vấn đề
chủ quyền biển đảo nhưng lại
đang được Hoa Kỳ cam kết bảo
vệ. Qua
bao cuộc thử thách trên thế giới từ
cuối thế kỷ trước cho tới nay, đặc
biệt là trong các biến cố tại Georgia, Iran,
Syria và Ukraine (Crimea), Hoa Kỳ, siêu cường duy
nhất của thế giới, viện cớ tiền
bạc và tài nguyên đang cạn kiệt dần,
đă chẳng dại ǵ mà hy sinh quyền lợi
của ḿnh để giúp đỡ kẻ cô thế
chống lại cường quyền, mong tiếp
tục giữ vững biệt danh “tay sen- đầm
quốc tế” do phe Cộng Sản gán ghép cho
Washington từ thời Chiến Tranh Lạnh đến
nay. Vả
lại, Trung Cộng từng tuyên bố công khai và
thẳng thừng rằng họ sẽ hành động
một ḿnh (v́ họ quá mạnh khiến cả siêu cường
Hoa Kỳ cũng chùn bước) chứ không chấp
hành bất cứ phán quyết nào, dù có lợi hay có
hại cho họ, của các ṭa án quốc tế trong
vấn đề tranh chấp tại Biển Nam Hoa,
trong đó có Ṭa Án Luật Biển Quốc Tế
(International Tribunal for the Law of the Sea) và Ṭa Án Trọng Tài
Thường Trực (Permanent Court of Arbitration), đừng
nói chi tới Bộ Quy Tắc Ứng Xử tại
Biển Đông (Declaration on the Conduct of Parties, DOC/South China
Sea Code of Conduct) từng được các nước
trong Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN) và
Cộng Sản Trung Hoa thỏa thuận. V́
Hải Quân Trung Cộng hiện đang là lực
lực mạnh nhất trên Biển Nam Hoa ngày nay, cho nên
họ cứ tự tiện ra vào nơi đây như
chỗ không người, muốn đưa giàn khoan
dầu tới đâu th́ cứ tới, muốn
nới rộng đảo nào hay băi đá nào tại
Hoàng Sa và Trường Sa th́ cứ làm, và muốn
vẽ bản đồ lănh thổ của họ bao trùm
tới đâu trên Biển Nam Hoa th́ cũng cứ tùy
ư muốn của họ, như trường hợp cái
bản đồ gồm 9 đoạn đứt khúc
(nine - dotted line) của vùng biển này do họ công
bố, mà Cộng Sản Việt Nam ưa gọi
một cách nôm na là “Đường Lưỡi Ḅ”
sau khi Hà Nội đă thất bại trong việc ngăn
chặn sức liếm láp cực kỳ khó chịu
của cái lưỡi ḅ đó. (1) Hoa
Kỳ, và cả Ấn Độ cũng như Nhật
Bản, các cường quốc khác của thế
giới có quyền lợi hàng hải trên Biển Nam
Hoa, rất bực tức và lo ngại, nhưng
chẳng làm ǵ được Trung Cộng trong lúc này,
và có thể là cả trong tương lai dài lâu
nữa. *Nguyên
do khiến các cường quốc Hoa Kỳ, Ấn Độ
và Nhật Bản đành bất lực nh́n Trung
Cộng chiếm hết Biển Nam Hoa Các
lư do quân sự, chính trị và kinh tế đă
đưa đẩy 2 cường quốc Hoa Kỳ và
Nhật Bản ở Thái B́nh Dương và cường
quốc Ấn Độ ở Ấn Độ Dương bó
tay nh́n Cộng Sản Trung Hoa nuốt trọn Biển
Nam Hoa, chận đường các thương
thuyền và tàu chiến Hoa Kỳ và Nhật Bản
đi từ Thái B́nh Dương qua Ấn Độ Dương
và ngược lại, buộc Ấn Độ phải
điều chỉnh hoặc hủy bỏ chính sách
“Hướng Đông” (“Look East”) có từ hồi
1991 qua bốn đời Thủ Tướng: P.V.
Narasimha Rao, Atal Bihari Vajpayee, Manmohan Singh, và Narendra Modi. Không
hiểu Cộng Sản Việt Nam nghĩ sao chứ Hoa
Kỳ khá lo buồn khi nh́n đảo Phú Lâm (Woody
Island), đảo lớn nhất trong Quần Đảo
Hoàng Sa từng bị quân Trung Cộng đánh
chiếm của Việt Nam Cộng Ḥa hồi Tháng Giêng
năm 1974, trở thành một căn cứ quân sự
quy mô, với một phi trường có khả năng
tiếp nhận các chiến đấu cơ phản
lực và một quân cảng hoàn chỉnh, nơi trú
đóng của 4,000 hải quân và thủy quân lục
chiến Trung Cộng. Người Mỹ biết
rằng đây chính là một “hàng không mẫu
hạm không thể đánh ch́m” của hải quân
Trung Cộng một khi chiến tranh xảy ra tại
Đông Nam Á giữa Trung Cộng và các lực lượng
muốn duy tŕ tự do hàng hải trên Biển Nam Hoa. Đến
Tháng Giêng năm 2015, Hoa Kỳ lại lo lắng nh́n Băi
Đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef) ở quần đảo
Trường Sa, mà Trung Cộng từng chiếm cứ
khỏi tay Cộng Sản Việt Nam hồi năm
1988, nay đă được Trung Cộng biến thành
một căn cứ quân sự. Trước đó, h́nh
ảnh từ vệ tinh do thám Mỹ chụp được
cho thấy Trung Cộng đă ra sức hút cát đại
dương và tô bồi thêm cho đảo Gạc Ma
(Johnson South Reef), cũng từng bị Trung Cộng cướp
khỏi tay Cộng Sản Việt Nam trước đây
để biến thành đảo riêng của họ,
rồi nối dài thêm phi đạo của một phi
trường mà họ mới dựng lên nơi đây
thành một sân bay quân sự có thể dùng cho các
chiến đấu cơ phản lực. Nếu Hoa
Kỳ không để cho Trung Cộng cưỡng
chiếm Quần Đảo Hoàng Sa của Việt Nam
Cộng Ḥa hồi năm 1974 trong thế kỷ trước
th́ Trung Cộng đă không có một đầu
cầu thiết yếu để xua quân đánh
chiếm luôn nhiều đảo và băi đá khác trên
quần đảo Trường Sa ở phía Nam của
Hoàng Sa. Về lỗi lầm tày trời này th́
cặp bài trùng Richard Nixon và Henry Kissinger, tổng
thống và ngoại trưởng Mỹ hồi
thập niên 1970, trước hơn ai hết, phải
hứng chịu mọi trách nhiệm trước
lịch sử. (2) Nhật
Bản cũng lo buồn không kém Hoa Kỳ khi thấy
Trung Cộng bành trướng tiềm năng quân
sự tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa, nơi Hải Quân Nhật Bản từng chiếm
đóng và trấn giữ suốt thời gian Nhật
Bản hất cẳng Pháp để nắm quyền
cai trị ba nước Việt-Miên-Lào trên bán đảo
Đông Dương thuộc Pháp. Với kinh nghiệm
tại Biển Hoa Đông (East China Sea) ở phía Đông
Trung Cộng và phía Tây Nhật Bản, nơi Trung
Cộng từng thiết lập một Vùng Cấm Bay
(No-Fly Zone/Air Defense Identification Zone), không cho phép phi cơ
dân sự và quân sự của Hoa Kỳ, Nhật
Bản, Nam Hàn và các nước khác bay qua, Nhật
Bản biết rằng, rồi đây, tàu thuyền và
phi cơ của họ cũng sẽ không được
phép đi ngang qua Biển Nam Hoa một khi Trung Cộng
quyết tâm áp đặt một Vùng Cấm Bay tương
tự giữa hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa, nơi họ đang có các căn cứ quân sự,
mà bản doanh có thể được đặt trên
chiếc “hàng không mẫu hạm không thể đánh
ch́m,” tức là trên đảo Phú Lâm trong Quần Đảo
Hoàng Sa hoặc có thể là trên một số ḥn
đảo và băi đá khác tại Quần Đảo Trưởng
Sa nữa. (3) Phần
ḿnh, Ấn Độ đang ưu tư, lo lắng đứng
nh́n thời thế thay đổi tại Biển Nam
Hoa khi Trung Cộng dần dà chiếm đóng hết
đảo này tới đảo khác trên hai Quần Đảo
Hoàng Sa và Trường Sa mà không có một sức
mạnh nào cản nổi, bởi v́ cả Cộng
Sản Việt Nam và Phi Luật Tân đều không
đủ sức mạnh - hoặc thiếu quyết tâm,
như trong trường hợp rất đáng nghi
ngờ của Cộng Sản Việt Nam - để
kiềm chế hoặc ngăn chặn sức bành trướng
quân sự của Trung Cộng trong vùng, trong khi Hoa
Kỳ, cho tới nay, chỉ nói mà không làm, nên Trung
Cộng chẳng hề nao núng. Là
một cường quốc lớn tại Á Châu,
Ấn Độ cảm thấy cần thiết phải có
tự do lưu thông hàng hải tại Biển Nam Hoa
để tàu thuyền và phi cơ của họ có
thể an toàn đi lại từ Ấn Độ Dương
sang Thái B́nh Dương và ngược lại thông qua
eo biển Malacca, nằm giữa bán đảo Mă Lai Á
và đảo Sumatra của Indonesia. Ngay cả việc ḍ
t́m dầu khí của các công ty dầu Ấn Độ
tại thềm lục địa của Việt Nam cũng
sẽ không thể thực hiện được
một khi Trung Cộng đă chiếm trọn Biển
Nam Hoa và lên tiếng đ̣i chủ quyền trên
tất cả các giếng dầu phong phú trong vùng
biển này. Nguồn
tin thông tấn xă AFP hôm 27 Tháng Giêng năm 2015 cho hay
Tổng Thống Hoa Kỳ Barack Obama và Thủ Tướng
Ấn Độ Narendra Modi đă lên tiếng kêu gọi
các quốc gia trên thế giới bảo đảm
“an ninh hàng hải và hàng không trong khu vực, đặc
biệt tại Biển Đông (tức Biển Nam Hoa)”
qua một thông cáo chung nhân dịp nhà lănh đạo
Mỹ kết thúc chuyến viếng thăm Ấn Độ.
Trước đó, vào ngày 25 Tháng Giêng, cùng lên
tiếng trong một bản tuyên bố nhan đề
“Tầm Nh́n Chiến Lược Chung cho Vùng Á-Châu-Thái
B́nh Dương và Ấn Độ Dương” (“Joint
Strategic Vision for the Asia-Pacific and Indian Ocean”), Tổng
Thống Obama đă cùng với Thủ Tướng Modi
xác định rằng hai quốc gia Mỹ và Ấn
rất quan ngại về “những căng thẳng
chung quanh các cuộc tranh chấp lănh hải” tại
Biển Nam Hoa. Ngày 28 Tháng Giêng năm 2015, các ngoại
trưởng thuộc Hiệp Hội Các Quốc Gia
Đông Nam Á (ASEAN) nhóm họp tại Mă Lai Á đă cùng
nhau bày tỏ sự lo ngại về chuyện Trung
Cộng liên tục đ̣i chủ quyền tại
nhiều khu vực trong Biển Nam Hoa, đặt các
quốc Đông Nam Á vào thế phải đối
mặt với tham vọng bá quyền nước
lớn của Trung Cộng trong khi không có nước
nào trong vùng đủ sức đối đầu
về quân sự với nước láng giềng phương
Bắc khổng lồ đó. (4) *V́
đâu nên nỗi? Sự
thể này có nhiều nguyên do, trong đó có các nguyên
do sau: 1.
Hoa Kỳ bỏ rơi Việt Nam Cộng Ḥa, để
mất quần đảo Hoàng Sa vào tay Trung Cộng Việc
Hoa Kỳ bỏ cuộc nửa chừng, để cho
Việt Nam Cộng Ḥa rơi vào tay Cộng Sản
Bắc Việt (1975) và kèm theo đó là việc Hoa
Kỳ, chỉ một năm trước đó, đă
làm ngơ không can thiệp để cho Trung Cộng
chiến mất quần đảo Hoàng Sa của
Việt Nam Cộng Ḥa (trong trận Hải Chiến Hoàng
Sa giữa Hải Quân Trung Cộng và Hải Quân
Việt Nam Cộng Ḥa vào ngày 19 Tháng Giêng năm 1974),
là sai lầm chiến lược lớn lao nhất
của Hoa Kỳ trong thế kỷ trước, (5)
mặc dù Hoa Kỳ vẫn được tiếng là
kẻ đă chiến thắng cuộc Chiến Tranh
Lạnh (1945-1991) trong tư cách là cường quốc
lănh đạo Thế Giới Tự Do và nghiễm nhiên
trở thành siêu cường Số 1 của thế
giới sau sự sụp đổ của Cộng
Sản Đông Âu và sự tan ră của Liên Xô, tức
Liên Bang Xô Viết. Có điều, Trung Cộng cùng 2
chư hầu của họ tại Á Châu, là Việt
Nam và Bắc Hàn, cũng như Cộng Sản Cuba thân
Liên Xô ở Tây Bán Cầu, đă không sụp đổ
theo đúng các đánh giá khôn ngoan nhất mà loài người
có thể đưa ra trong thế kỷ trước. Có
thể lúc bỏ rơi Việt Nam Cộng Ḥa hồi
năm 1973-1975, các chính trị gia Mỹ, nhất là
Quốc Hội Mỹ (là kẻ nắm hầu bao trong
mọi cuộc chiến), chỉ có mục đích
thiển cận là nhằm tiết kiệm mỗi năm
chừng nửa triệu Mỹ kim tiền viện
trợ - Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
của Việt Nam Cộng Ḥa cũng chỉ cần có
thế đặng giữ vững Miền Nam Việt
Nam - để dành số tiền đó lo cho phúc
lợi của dân chúng Mỹ trong nước. Đâu có
ai biết rằng, v́ để mất Việt Nam
Cộng Ḥa trong thế kỷ trước, qua thế
kỷ này Hoa Kỳ đă phải chi ra mỗi năm hàng
chục tỉ Mỹ kim để chống đỡ
những ngón đ̣n của Trung Cộng trên khắp các
mặt trận toàn cầu, đặc biệt là
tại Biển Nam Hoa, thủy lộ sinh tử của
Mỹ và các nước đồng minh từ Thái B́nh
Dương qua Ấn Độ Dương. Sự
sụp đổ của Việt Nam Cộng Ḥa,
chiếc tiền đồn chống Cộng của
Thế Giới Tự Do, đă trở thành sự
sụp đổ của chiếc tiền đồn
của Hoa Kỳ và các nước đồng minh Á Châu
của Mỹ, như Nhật Bản, Ấn Độ, Nam
Hàn và Phi Luật Tân, trước tham vọng bá
quyền của Trung Cộng tại Á Châu. Một
Việt Nam Cộng Ḥa vẫn c̣n tồn tại,
với hải, lục không quân tinh nhuệ và với
một đội quân được các chuyên gia quân
sự đánh giá là hùng mạnh vào hàng thứ 7 trên
thế giới trước năm 1975 mà c̣n được
bảo vệ bằng một hiệp ước an ninh
chung với Hoa Kỳ, sẽ làm Trung Cộng nản ḷng
trong bất cứ tham vọng bá quyền nào của
họ, ít nhất là tại Đông Nam Á và Biển Nam
Hoa, đừng nói ǵ tới chuyện thách thức
vị thế bá chủ của Hoa Kỳ tại Thái B́nh
Dương. Cần
phải nói thêm rằng, ngoại trừ Israel - với
cộng đồng người Mỹ gốc Do Thái giàu
mạnh và rất có thế lực tại Hoa Kỳ -
Việt Nam Cộng Ḥa là đồng minh tốt
nhất và đáng tin cậy nhất của Hoa Kỳ
trong suốt ḍng lịch sử nếu đem so với
các đồng minh khác trên toàn thế giới, như
Afghanistan và Iraq chẳng hạn, là những kẻ
sẵn sàng xả súng bắn vào người bạn
đồng minh Hoa Kỳ cho dù họ chưa hề
bị bỏ bỏ rơi ngang xương như trường
hợp của Miền Nam Việt Nam cách nay 4 thập
niên. Với
những bộ óc khá ưu việt - cỡ bộ óc
của các Giáo Sư Bửu Hội và Nguyễn Xuân
Vinh thuộc thế hệ trước cũng như
của nữ khoa học gia Dương Nguyệt Ánh,
mẹ đẻ loại bom ép nhiệt thermobaric, và
Tiến Sĩ Nguyễn Định, cha đẻ loại
vũ khí bắn tia Free Electron Laser, của Hoa Kỳ
thuộc thế hệ hiện nay - và với tiềm năng
dầu khí dồi dào tại thềm lục địa
Miền Nam Việt Nam, thế giới không thể
loại bỏ khả năng Việt Nam Cộng Ḥa
trở thành một cường quốc nguyên tử (v́
lẽ sinh tồn tự nhiên của một nước
nhỏ bên cạnh một nước láng giềng to
lớn và hung ác), cho dù cường quốc này có
thể cũng sẽ phải ẩn thân trong ṿng bí
mật như Israel. Đó thật sự là cơn ác
mộng của Trung Cộng, kẻ chưa hề
biết sợ mà từ bỏ chủ trương bá
quyền Đại Hán. Và dĩ nhiên, hồi thế
kỷ trước, một khi Trung Cộng thấy Hoa
Kỳ quyết tấm giữ vững Miền Nam
Tự Do để bảo vệ sườn phía Tây
của Thái B́nh Dương th́ họ không bao giờ dám
đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa như
họ đă làm hồi năm 1974, chỉ 1 năm trước
ngày Sái G̣n sụp đổ vào tay Cộng Sản
Bắc Việt. C̣n chuyện đảo Gạc Ma và Băi
Đá Chữ Thập - do Cộng Sản Việt Nam
quản lư sau khi Việt Nam Cộng Ḥa cáo chung -
bị Trung Cộng đánh chiếm hồi năm 1988
th́ chuyện đó sẽ không làm sao xảy ra
được nếu Việt Nam Cộng Ḥa vẫn c̣n
tồn tại cho đến ngày nay. 2.
Hoa Kỳ giúp Trung Cộng phát triển kinh tế mong
trục lợi từ một thị trường béo
bở Một
lỗi lầm chiến lược trầm trọng vào
bậc nhất khác của Hoa Kỳ trong thế kỷ
trước di hại tới thế kỷ sau là Hoa
Kỳ đă giúp Trung Cộng phát triển kinh tế
những mong trục lợi từ một thị trường
béo bở như thị trường đông cả
tỉ người trên lục địa Trung Hoa, thay v́
giúp Nga chấn hưng kinh tế sau khi Liên Xô tan ră. Sự
tồn tại dai dẳng và không thể nào đảo
ngược lại được của chế độ
độc tài Cộng Sản tại Trung Hoa - qua
sự thất bại thảm thương và cay đắng
của các phong trào đ̣i tự do, dân chủ tại
Thiên An Môn (1989) và Hồng Kông (2014) - cho thấy Hoa
Kỳ, với chính sách “Trợ Tàu, diệt Nga”
thời Chiến Tranh Lạnh, đă tự ư tạo ra
cho chính ḿnh một kẻ thù mới hùng mạnh và
nham hiểm bội phần so với kẻ thù cũ Liên
Xô. Giờ đây, Trung Cộng đă trở thành
đối thủ sinh tử của Hoa Kỳ, kẻ
đang “tranh bá, đồ vương” với Hoa
Kỳ trên khắp các mặt trận có quy mô thế
giới. Rơ
ràng là nhờ sự hỗ trợ đắc lực
của Hoa Kỳ, thông qua việc chuyển nhượng
khoa học, kỹ thuật không chút e dè của các công
ty Mỹ lúc nào cũng tối mặt trước
lợi nhuận thu vào bất kể quốc gia hưng
vong, nền kinh tế Trung Cộng, chẳng bao lâu
nữa sẽ (thật sự) vượt qua Hoa Kỳ
để tiến lên vị thế hàng đầu
thế giới vẫn do Hoa Kỳ nắm giữ
từ sau Thế Chiến 2 đến nay. Có thể nói
rằng, khi giúp Trung Cộng mở mang kinh tế (kéo
theo kỹ thuật tân tiến), Hoa Kỳ đă vô t́nh
giúp Trung Cộng khả năng mua sắm được
hàng không mẫu hạm Liêu Ninh cùng các tiềm
thủy đĩnh nguyên tử và chế tạo
được các chiến đấu cơ tàng h́nh
thế hệ thứ 5 cỡ Chengdu J-20 and Shenyang J-31,
chẳng thua thua kém ǵ các siêu máy bay chiến đấu
F-22 Raptors và F-35 Joint Strike Fighters Lightning II của Hoa
Kỳ. (6) Hồi
Tháng Giêng năm 2015, trong một bài viết trên
tạp chí The National Interest nhan đề “The Foreign
Policy Essay: Why China Will Become a Global Military Power,” tức
“Luận Về Chính Sách Ngoại Giao: V́ Sao Trung
Cộng Sẽ Trở Thành Cường Quốc Quân
Sự Của Thế Giới,” Oriana Skylar Mastro, giáo sư
môn nghiên cứu an ninh tại trường Edmund A. Walsh
School of Foreign Service thuộc Đại Học Georgetown
University, cho rằng sớm muộn ǵ rồi quốc
tế cũng phải chấp nhận sự thể
Trung Cộng là một cường quốc quân sự
của thế giới. Nguồn
tin Tân Hoa Xă hồi cuối Tháng Mười Một năm
2014 từng cho hay “Chủ Tịch Trung Quốc Tập
Cận B́nh khẳng định thời đại
Mỹ là siêu cường duy nhất thế giới
sắp kết thúc, Bắc Kinh quyết tâm cạnh
tranh sánh tầm ảnh hưởng với Washington
tại khu vực Châu Á-Thái B́nh Dương.” Điều
này cho thấy việc Trung Cộng lăm le thôn tính nhược
tiểu Việt Nam chỉ nằm trong mục tiêu ban
đầu của họ mà thôi, trong khi mục tiêu
tối hậu của quân Đại Hán là làm sao có
thể thôn tính luôn cả siêu cường Hoa Kỳ. Theo
lời tiên đoán của đại văn hào Nga
Aleksandr Solzhenitsyn (1918-2008), tác giả The Gulag Archipelago,
tức quần đảo Gulag, từng sống lưu
vong tại Mỹ năm 1974 nhưng sau đó chán ngán
xă hội Mỹ chỉ biết chăm chú hưởng
thụ vật chất mà xao lăng mặt tinh thần nên
đă quay trở lại Nga năm 1994, Hoa Kỳ sẽ
sụp đổ từ bên trong chứ không cần
phải bị ai đánh từ bên ngoài, bởi vỉ
đây là một siêu cường đầy những
lỗ hổng, với cả hai đảng chính
trị lớn chỉ biết lo cho quyền lợi
của đảng ḿnh (chẳng khác ǵ Cộng
Sản, nhưng vẫn c̣n khá hơn), với
“lục phủ, ngũ tạng” đều rệu ră,
và với ḷng hận thù chủng tộc sâu sắc
tới độ nền pháp trị dữ dằn
kiểu Mỹ vẫn không kiềm chế nổi. Trung
Cộng có thể sẽ không đối đầu
với Hoa Kỳ qua một cuộc chiến tranh nguyên
tử theo kiểu Bắc Hàn từng hăm dọa
Mỹ, nhưng rơ ràng là họ đang dùng ngón đ̣n
vật chất, mà tiền bạc là chính, để
“mua đứt” các cơ sở kinh tế của
Mỹ và gây ảnh hưởng lên các nhà lănh đạo
siêu cường này bằng cách tài trợ các
chuyến đi du lịch đầy thú vui và lắm
khoái lạc để sau này bắt bí, buộc “người
tiêu thụ” các thú vui đó phải điều
chỉnh chính sách quốc gia sao cho có lợi cho Trung
Cộng. Từ cả chục năm nay, Trung Cộng
đă thực hiện không biết bao nhiêu là cuộc
tấn công trên mạng (cyber attacks) trong khuôn khổ
cuộc chiến tranh điện toán (cyberwarfare) vào các
cơ sở kinh tế, kỹ nghệ và quân sự
của Mỹ nhằm đánh cắp khoa học,
kỹ thuật cùng các thông tin thương mại,
đồng thời sử dụng các chiêu thức tuy
cổ điển nhưng hữu hiệu, trong đó có
cả khổ nhục kế và mỹ nhân kế,
với mục đích làm suy yếu giới lănh đạo
Mỹ lúc nào cũng ham vui và cần tiền để
vận động bầu cử, song song với
việc ráo riết cạnh tranh nhằm triệt
hạ ảnh hường của Hoa Kỳ trên
khắp thế giới, rơ rệt nhất là tại các
nước Phi Châu và Nam Mỹ. Cần
biết rằng bản chất của người
Mỹ là thực tiễn và ham thich tiền bạc nên
họ rất dễ sa vào các bẫy sập của
Trung Cộng. Cũng nên biết rằng, từ năm
1949, lúc cộng sản chiếm quyền tại Hoa
Lục, cho đến nay, chính sách ngoại giao Đại
Hán của Cộng Sản Trung Hoa rất nhất quán và
hầu như không hề thay đổi, dù là dưới
thời Mao Trạch Đông hay Đặng Tiểu B́nh hay
Hồ Cẩm Đào trước kia hoặc Tập
Cận B́nh ngày nay. Trong khi đó, cũng trong
khoảng thời gian kể trên, chính sách ngoại giao
của Hoa Kỳ đă thiếu t́nh liên tục và có
khi c̣n mâu thuẫn nhau trầm trọng, dưới
đời 12 vị tổng thống, là Harry Truman,
Dwight Eisenhower, John Kennedy, Lyndon Johnson, Richard Nixon, Gerald
Ford, Jimmy Carter, Ronald Reagan, George W.H. Bush, Bill Clinton, George
W. Bush, và Barck Obama. 3.
Hoa Kỳ quá tự tin vào sức thu hút của chủ
nghĩa tư bản và nền tự do, dân chủ Một
lỗi lầm lớn lao nữa của Hoa Kỳ là
sự thể Chú Sam quá tự tin vào sức thu hút
của chủ nghĩa tư bản và nền tự
do, dân chủ của thế giới bên ngoài các xă
hội độc tài, đảng trị tại
Cộng Sản Trung Hoa, Cộng Sản Việt Nam,
Cộng Sản Bắc Hàn và Cộng Sản Cuba. Khi
giới thiệu chủ nghĩa tư bản vào Trung
Cộng và Việt Nam, Hoa Kỳ cứ làm như là
chủ nghĩa tư bản hay ho tới độ
sẽ cảm hóa được dân chúng tại đây
và làm say mê Bộ Chính Trị của các đảng
Cộng Sản đang cai trị tại Bắc Kinh và
Hà Nội tới mức họ sẽ bỏ phăng
đi đường lối cộng sản mà
chạy theo chế độ tự do, dân chủ do Hoa
Kỳ bày vẽ. Sự thật th́ cả hai đảng
Cộng Sản Trung Hoa và Việt Nam đều tương
kế, tựu kế, cứ việc ngửa tay lấy
tiền của từ “bọn tư bản” để
rồi nỗ lực nuôi nấng và củng cố
đảng cộng sản của ḿnh cho ngày càng thêm
bền vững. Một
ví dụ sống động là tấm gương do
cựu đại sứ Mỹ tại Cộng Ḥa Xă
Hội Chủ Nghĩa Việt Nam Michael W. Michalak
(2007-2011) để lại. Ông Michalak rất hănh
diện về nhiệm kỳ của ông ở Việt
Nam, bởi lẽ chính trong thời gian này mà số du
học sinh Việt Nam sang Mỹ du học đạt
tới một đỉnh cao mới, với số lượng
du học sinh Việt Nam tại Mỹ vào cuối
nhiệm kỳ của ông tăng gấp đôi so
với lúc ông vừa mới nhậm chức cách đó
4 năm. Cũng như bao chiến lược gia tài ba
trên đất Mỹ, vị đại sứ cứ
tin rằng hễ giáo dục được càng
nhiều con em các lănh tụ cộng sản Việt Nam
bao nhiêu theo lối Mỹ th́ triển vọng các nhà lănh
đạo tương lai của Việt Nam từ
bỏ chế độ độc tài, đảng
trị hiện nay để chuyển sang chế độ
tự do, dân chủ kiểu Mỹ càng tươi sáng
hơn bấy nhiêu. Sự thật th́ kết quả
đă trái ngược hoàn toàn, bởi v́ con cháu các
lănh tụ cộng sản được gởi đi
du học tại Mỹ, khi nối ngôi cha ông của
họ, đă không đưa đất nước
đi theo chế độ tự do, dân chủ
kiểu Mỹ - để chỉ có thể cai trị
tối đa là 8 hay 10 năm giữa những lời
phê phán và chỉ trích gay gắt trong một xă
hội có tự do ngôn luận - mà họ đă ra
sức trói buộc Việt Nam trong chế độ
cộng sản độc tài để họ
được quyền cai trị suốt đời mà
không ai dám hé môi phản đối, cho dù đất
nước đang có nguy cơ mất vào tay Trung
Cộng nếu Việt Nam không chịu thay đổi
thể chế chính trị. (7) Tương
tự như thế, đă có hằng ngh́n trí
thức và chuyên gia Trung Cộng, một số không
nhỏ là con cháu các đảng viên gạo cội
trong Đảng Cộng Sản Trung Quốc, từng du
học Hoa Kỳ từ cuối thập niên 1970 tới
nay, nhưng chưa hề có ai, khi leo lên tới vị
trí lănh đạo trong guồng máy cai trị của
Bắc Kinh, nghĩ tới chuyện từ bỏ
chế độ độc tài, độc đảng
do phe cộng sản nắm giữ mà đi theo con
đường đa nguyên, đa đảng để
tạo cơ hội cho các đảng phái khác thay
họ mà lên cầm quyền. (8) *Thay
lời kết Trong
những ngày tháng này, những người Quốc Gia
của Việt Nam Cộng Ḥa cũ c̣n ở trong nước
hoặc đang ở hải ngoại sắp sửa tưởng
niệm 40 năm ngày mất nước, tức tưởng
niệm 40 năm biến cố Sài G̣n sụp đổ
vào ngày 30 Tháng Tư năm 1975, một biến cố
mà mới đầu ai cũng tưởng như
chỉ là nỗi bất hạnh riêng của 20
triệu đồng bào Miền Nam Việt Nam nhưng
không ngờ lại là nỗi đau chung của cả
một dân tộc gồm 90 triệu người đang
phải sống dưới một chế độ chính
trị bất công, bạo tàn và tồi tệ chưa
từng thấy mà đành bất lực, không có cách
nào dứt bỏ đi được, cứ y như
là một thứ nghiệp báo phải mang vào thân măi
tới khi nào ông Trời ngó lại và cho thoát đi
th́ mới dứt được kiếp lầm than,
hay nói như Nguyễn Du: “Đă mang lấy nghiệp vào
thân/Cũng đừng trách lẫn Trời gần,
Trời xa...” Sau
bao nhiêu tháng, năm sống cuộc đời lưu
vong trên “đất khách” mà nay đă là quê hương
mới của ḿnh, người Việt tha hương
có thể đă thấm thía với sự thật là
hầu như cái ác đang thắng cái thiện trên
khắp thế giới, chứ không riêng ǵ ở
Việt Nam. Đối với những ai c̣n vọng tưởng
tới một tương lai xán lạn cho tổ
quốc Việt Nam về sau, những người
đó cần lưu ư ít nhất là 2 điều này: 1.
Khác với trường hợp nước
Nga của ông Vladimir Putin qua vụ Ukraine, đối tượng
mà Hoa Kỳ và các quốc gia Liên Âu tha hồ cấm
vận kinh tế và chính trị, thế giới không
thể nào cấm vận hoặc trừng phạt kinh
tế và chính trị để ngăn chặn tham
vọng bành trướng Đại Hán của Cộng
Sản Trung Hoa, cho dù nước này có hung ác đối
với các nước nhược tiểu (cỡ Tây
Tạng, Tân Cương hoặc Việt Nam) đến
cách mấy đi nữa và lại c̣n đang ŕnh
rập để chờ cơ hội thâu tóm cả
Hoa Kỳ, bởi v́ quyền lợi kinh tế, tức
là quyền lợi vật chất, của các nước
tự do, dân chủ trên thế giới - nhất là
Mỹ - tại Cộng Sản Trung Hoa đă quá
chằng chịt và quá lớn lao tới độ không
thể dứt ra được nếu họ không
muốn chính ḿnh cũng bị “hụt ăn.” Hơn
nữa, thật khó cho các nền kinh tế hạng nh́,
hạng ba của thế giới lại đi cấm
vận nền kinh tế hàng đầu thế
giới, một vị thế mà, chẳng sớm th́
muộn, Trung Cộng sẽ giành được,
bởi v́ các công ty tại Mỹ và Âu Châu, v́
thiếu tiền, vẫn cứ tiếp tục “bán ḿnh”
cho các nhà đầu tư Trung Cộng mà không hề
biết lo cho tương lai của “tổ quốc”
ḿnh khi các kỹ thuật tân tiến do họ nắm
giữ lọt vào tay một đối thủ nham
hiểm. (9) Mà chừng nào Đảng Cộng Sản
Trung Hoa c̣n th́ các Đảng Cộng Sản Việt Nam và
Bắc Hàn vẫn tồn tại, và đó là chân lư
bất di, bất dịch, cho dù sông có thể cạn,
núi có thể ṃn. Phải biết rằng, trong
cuộc giằng co, nếu có, giữa Trung Cộng và
Cộng Sản Việt Nam, thời gian luôn đứng
về phía Trung Cộng chứ không phải về phía
Cộng Sản Việt Nam, hay nói nôm na là “hễ ai dài
hơi hơn th́ người đó sống.” Mà rơ ràng
là Trung Cộng lúc nào cũng dài hơi hơn. (10) 2.
Căn cứ vào quyết tâm không chịu
rời bỏ chủ nghĩa Cộng Sản của các
nhà lănh đạo tại Hà Nội để Việt
Nam có thể tách rời khỏi ảnh hưởng
của Đảng Cộng Sản Trung Quốc cùng
những lời tuyên bố và hành động của
các nhà lănh đạo Cộng Sản Việt Nam trong và
sau biến cố giàn khoan Hải Dương 981 xâm
phạm lănh hải Việt Nam hồi Tháng Năm năm
2014 khi họ chỉ coi đây là “chuyện
nhỏ,” nên hiểu rằng Cộng Sản Việt
Nam sẽ không bao giờ ngă về phía Mỹ, Nhật
Bản và Ấn Độ để hy vọng có thể
giữ ǵn độc lập và toàn vẹn lănh
thổ như mọi người ngày đêm vẫn
cứ tơ tưởng. (11) Hoa Kỳ, Nhật Bản
và Ấn Độ cũng không cần phải cho
tiền, tặng vũ khí cho Cộng Sản Việt
Nam chống đánh Cộng Sản Trung Hoa làm chi cho
uổng công và hao của. Các nhà lănh
đạo Cộng Sản Việt Nam lúc nào cũng
ỡm ờ và lập lờ trong vấn đề
chống hay theo Trung Cộng - phần th́ nhằm đánh
lừa cộng đồng quốc tế để
được o bế và cho không món này, món nọ,
phần th́ để xoa dịu đồng bào trong nước
cho bớt đi sức đ̣i hỏi và chống đối
- dù trong bối cảnh cảnh tổ quốc lâm nguy,
làm cho các nhà lănh đạo thế giới từ
Barack Obama (cùng John Kerry) cho đến Shinzo Abe và Narendra
Modi phải lăng xăng, lính quưnh, và làm cho toàn
thể dân tộc Việt Nam bị trị cứ
phải mừng hụt hoài. Thật là: “Người
khôn ăn nói nửa chừng...” đúng y như câu
ca dao thâm thúy của Việt Nam tự ngh́n xưa
từng nói vậy. Ghi
chú: 1.
Hoa Kỳ, và cả Nhật Bản cũng
như Ấn Độ, đang ở trong một vị
thế rất lúng túng khi muốn ngăn chặn Trung
Cộng xâm chiếm toàn bộ Biển Nam Hoa, bởi v́
nếu muốn làm như thế th́ hai nước
ở phía Tây và phía Đông quay mặt vào vùng biển này,
tức Cộng Sản Việt Nam và Phi Luật Tân,
phải ở cùng chiến tuyến với họ. Trong
khi đó, trên thục tế, Mỹ, Nhật và Ấn
chỉ có được Phi Luật Tân, nước có
một quân đội chẳng mạnh mẽ ǵ, là
đồng minh quân sự trong khi Cộng Sản
Việt Nam, từ trước tới nay, chưa
hề là đồng minh của Mỹ, Nhật hay
Ấn, ngoài điều may mắn duy nhất là
Cộng Sản Việt Nam ngày nay đă thôi không c̣n
coi Hoa Kỳ là “kẻ thù của nhân dân ta”
nữa, mặc dù Hoa Kỳ từ trước tới
nay vẫn vậy, chứ có khác ǵ đâu. T́nh
trạng này càng làm tăng thêm giá trị vô song
của Việt Nam Cộng Ḥa xưa cũ đối
với Hoa Kỳ và các đồng minh Á Châu-Thái B́nh
Dương của họ. Nhưng chính Hoa Kỳ,
chứ chẳng ai khác, đă tự ḿnh để
mất đi “quân cờ” Việt Nam Cộng Ḥa
từ hồi 1975 đến nay rồi, giờ đây
Hoa Kỳ lấy cái ǵ mà đánh đấm nữa trên
ván bài “chuyển trục về Á Châu”
(“Pivot/Rebalancing to Asia”) của ḿnh?
2.
Không ǵ trớ trêu hơn là sự
thể, chỉ sau hơn 2 thập niên khi Liên Bang Xô
Viết và Cộng Sản Đông Âu sụp đổ - kéo
theo sự sụp đổ của “liên minh ma quỷ
Nga-Hoa” và nước Nga dân chủ dưới
quyền Tổng Thống Boris Yeltsin đang trên
đường trở thành một “đồng
minh” của Mỹ và các nước dân chủ,
tự do khác, nước Nga ngày nay của Tổng
Thống Vladimir Putin, với lề lối cai trị
chẳng khác ǵ của một tổng bí thư đảng
cộng sản, đang biến Hoa Kỳ trở
lại thành kẻ thù của ḿnh, đồng thời
c̣n quyết tâm phục hồi cái “liên minh ma quỷ
Nga-Hoa” trước đây - qua việc Nga chấp
nhận bán khí đốt và vũ khí tối tấn -
cỡ máy bay chiến đấu SU-35 và hỏa
tiễn pḥng không S-400 cho Trung Cộng mà không c̣n
sợ sệt ǵ cho an ninh biên giới của ḿnh
nữa- để chống lại Hoa Kỳ và Âu Châu.
Chiến lược “Trợ Tàu, diệt Nga” của
Tổng Thống Nixon và Cố Vấn An Ninh Quốc Gia
Kissinger nhằm đánh sụp cái “liên minh ma quỷ
Nga- Hoa” nay đă trở thành công dă tràng xe cát. 3.
Hơn bất cứ nước nào khác trên
thế giới, Nhật Bản, chứ không phải
Cộng Sản Việt Nam, rất có nguy cơ bị
Trung Cộng đánh trước nay mai v́ mối thù
truyền kiếp giữa 2 cường quốc Á Châu
này, nhất là v́ cái nhục mà nước Trung Hoa vào
thời trước khi cộng sản nắm quyền
tại lục địa (1949) phải hứng chịu
dưới bàn tay quân phiệt Nhật, từ vụ
Quân Đội Thiên Hoàng Nhật tấn công vào Lư
Cầu Kiều cho tới vụ tàn sát hằng
chục ngh́n dân Trung Hoa ở Nam Kinh (The Nanking Massacre) -
mà thế giới vẫn ưa gọi là Vụ Cưỡng
Hiếp Nam Kinh (The Rape of Nanking)- trong 2 năm 1937 và 1938.
Giới lănh đạo Trung Cộng đă không
giấu giếm ư đồ muốn rửa hận
bằng một trận huyết chiến máu chảy thành
sông, xương chất thành núi với Nhật
Bản, chỉ ngặt một điều là Chú Sam
hiện vẫn c̣n hùng mạnh và đang có hiệp
ước an ninh chung với xứ Phù Tang nên Trung
Cộng đành nghiến răng kèn kẹt mà nuốt
giận. Nếu một mai Hoa Kỳ suy yếu và co
cụm lại th́ Nhật Bản sẽ biết tay
Trung Cộng ngay. Ngày 22 Tháng Chạp năm 2014, thông
tấn xă Kyodo của Nhật loan tin Trung Cộng đang
ráo riết xây dựng một căn cứ quân sự
lớn ngoài khơi tỉnh Chiết Giang gần
quần đảo Diaoyu Dao (Điếu Ngư) - mà
Nhật gọi là quần đảo Senkaku- nơi Trung
Cộng và Nhật Bản vẫn tranh chấp chủ
quyền dằng dai. Nguồn tin thông tấn xă AFP hôm
29 Tháng Giêng năm 2015 cho hay Quân Giải Phóng Nhân Dân
Trung Quốc đă khởi đầu một loạt các
cuộc tập tận trên bộ, trên không và trên
biển nhằm “cải thiện khả năng
chiến đấu” của các lực lượng vơ
trang của họ để giành chiến thắng
trong các cuộc chiến tranh cục bộ (local
wars).” Rơ ràng là Trung Cộng đang ráo riết
chuẩn bị cho một cuộc đối đầu
quân sự quyết liệt với Nhật Bản trong
vùng Biển Hoa Đông, chưa cần tính tới các nước
nhỏ trong vùng Biển Nam Hoa. 4.
Một bài báo của Michelle FlorCruz trên
tờ International Business Times, ngày 29 Tháng Giêng năm
2015, cho biết Hoa Kỳ tuyên bố cần đến
sự trợ giúp của các máy bay tuần thám
Nhật trên Biển Nam Hoa nhằm theo dơi cuộc tranh
chấp lănh hải đang gây căng thẳng giữa
Trung Cộng và các quốc gia Đông Nam Á. Hoa Kỳ,
Ấn Độ, Nhật Bản và các quốc gia Đông
Nam Á ngày nay càng lo lắng về chủ nghĩa bành
trướng bá quyền của Trung Cộng tại
Biển Nam Hoa chừng nào th́ việc Hoa Kỳ bỏ
rơi Việt Nam Cộng Ḥa vào tay cộng sản
hồi thập niên 1970 trong thế kỷ trước
càng trở nên một lỗi lầm chiến lược
tày trời của Quốc Hội Hoa Kỳ thời
đó. 5.
Theo tài liệu “Hải Chiến Hoàng
Sa” của Wikipedia tiếng Việt, hồi năm 1970,
Đô Đốc Elmo Zumwalt, tham mưu trưởng Hải Quân
Hoa Kỳ, đă họp báo tuyên bố tại Guam
rằng Hoàng Sa và Trường Sa không nằm trong
chiến lược triển khai các hải đảo
tiền đồn của Đệ Thất Hạm Đội
Hoa Kỳ. Theo nhận định của Hải Quân
Việt Nam Cộng Ḥa th́ đây là sự kiện trao
đổi giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, và là nguy
cơ cho Việt Nam Cộng Ḥa trong việc bảo
vệ Hoàng Sa. Nếu vậy, việc Hoa Kỳ làm ngơ
cho Trung Cộng chiếm Hoàng Sa là chủ trương
đă có từ lâu (1970) của (Hải Quân) Hoa Kỳ
- nhằm tránh những cuộc đụng độ
không cần thiết giữa lực lượng
Mỹ và lực lượng các quốc gia đang lăm
le tranh đoạt những ḥn đảo và băi đá
thuộc Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa,
trong đó, ngoài Việt Nam Cộng Ḥa, c̣n có Cộng
Ḥa Nhân Dân Trung Hoa (Trung Cộng) và Trung Hoa Dân Quốc
(Đài Loan) trong số các nước khác - chứ không
phải là cuộc trao đổi quyền lợi
giữa Nixon và Chu Ân Lai sau này, bởi v́ chính sách
“ngoại giao bóng bàn” giữa Hoa Kỳ và Trung
Cộng chỉ khởi sự từ hồi Tháng Tư
năm 1971, và 1 năm sau đó, tức Tháng Hai năm
1972, mới diễn ra cuộc viếng thăm lịch
sử (nhưng tai hại) của Tổng Thống Hoa
Kỳ Richard Nixon đến Bắc Kinh. 6.
Theo Thông Tấn Xă Australian Associated Press,
Edward Snowden, cựu nhân viên Cơ Quan NSA của Mỹ,
đă tiết lộ với tạp chí Đức Der
Spiegel rằng Trung Cộng đă đánh cắp
được bản vẽ máy bay F-35 Lightning II
từ công ty Lockheed Martin, nhà thầu chế tạo phi
cơ này, hồi năm 2007, rồi dùng các chi tiết
lấy được đó để chế tạo
ra các chiếc Chengdu J-20 và Shenyang J-31. 7.
Tại cuộc hội thảo về
“Quan Hệ Việt Nam-Hoa Kỳ: 20 năm thành công hơn
nữa” (“Vietnam-United States: 20 more successful years”) do
Học Viện Ngoại Giao Việt Nam, Ṭa Đại
Sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội, Trung Tâm Nghiên
Cứu Chính Trị Quốc Tế của Hoa Kỳ và
Đại Học Portland của Hoa Kỳ phối hợp
tổ chức ở Hà Nội vào ngày 26 Tháng Giêng năm
2015, Đại Sứ Hoa Kỳ tại Cộng Sản
Việt Nam, ông Ted Osius, có tuyên bố rằng “Hoa
Kỳ mong muốn giúp Việt Nam trở thành một
quốc gia lớn mạnh, giàu có và độc
lập.” Hai nhân vật khác cũng lạc quan không kém
về mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt
Nam là Murray Hiabert và Phương Nguyễn thuộc Trung
Tâm Nghiên Cứu Chính Trị Quốc Tế, đồng
tác giả bài báo nhan đề “An Assertive China Opens
the Door to Closer US-Vietnam Naval Ties,” tức “Một Nước
Trung Hoa Hùng Hổ Đưa Đến Mối Quan Hệ
Hải Quân Mỹ-Việt,” cho rằng nhờ Trung
Cộng quá hung dữ nên Cộng Sản Việt Nam
phải hợp tác quân sự với Hoa Kỳ. Cũng
nhờ lạc quan, hồi năm ngoái, Hoa Kỳ đă
băi bỏ một phần lệnh cấm bán vũ khí
sát thương cho Việt Nam, mở đường
cho các nhà buôn vũ khí Mỹ bán ra các máy bay,
chiến hạm và súng ống tân tiến cho kẻ thù
cũ của ḿnh tại Đông Nam Á mà không chút e dè
rằng đây có thể là một con dao 2 lưỡi
nếu nghĩ tới các bí mật về vũ khí
của Hoa Kỳ từng được sang tay cho Trung
Cộng qua ngă 2 đồng minh thân thiết của
Mỹ (thời Chiến Tranh Lạnh) nhưng cũng có
quan hệ này nọ với Trung Cộng, là Pakistan và
Đài Loan (Trung Hoa Dân Quốc xưa). 8.
Trái với tính toán của các chiến lược
gia lỗi lạc của Hoa Kỳ trong mưu đồ
cung cấp một nền giáo dục siêu đẳng
để thâu tóm tinh hoa quốc tế, một số
không nhỏ các khoa học gia ưu hạng gốc
Trung Hoa, từng được đào tạo chuyên môn
hoàn hảo tại các học viện kỹ thuật
lừng lẫy của Hoa Kỳ, đă chọn con
đường về nước cũ để
phục vụ nhằm sớm đưa đất nước
họ tiến lên địa vị siêu cường trên
thế giới, bởi v́, bên trong mỗi một người
Trung Hoa, luôn tiềm ẩn giấc mộng Đại Hán,
coi Trung Hoa là trung tâm hội tụ những ǵ là tinh
hoa của thế giới. Việc các khoa học gia
Mỹ gốc Trung Quốc ưa đánh cắp các bí
mật của Mỹ trong lănh vực kinh tế (trường
hợp ông Kexue Huang hồi năm 2011) và quân sự (trường
hợp của kỹ sư Chi Mak hồi năm 2005)
để trao cho Trung Cộng và sự thể một
số tướng lănh đồng minh Đài Loan của
Mỹ đánh cắp bí mật quân sự và vũ khí
rồi giao cho Trung Cộng (trường hợp các Tướng
La Hiền Triết hồi năm 2011 và Hứa Năi
Quyền hồi năm 2015) đă chứng minh rằng
người Trung Hoa có tinh thần dân tộc (Đại
Hán) cao hơn bất cứ giống người nào khác
trên thế giới. 9.
Từ đầu thế kỷ 21 tới
nay, Hoa Kỳ luôn tránh né chuyện đụng độ
với Trung Cộng v́ quyền lợi kinh tế
chằng chịt của các tập đoàn tư
bản Mỹ (chuyên giật dây các nhà lănh đạo
ở Washington) cũng có mà v́ tâm lư “dại ǵ
lại đem chén kiểu đổi chén sành” cũng
có. Hồi Tháng Tư năm 2001, lúc Tổng Thống
George W. Bush mới lên cầm quyền, vị tổng
thống thuộc loại “cao-bồi Texas” này cũng
không dám dùng hải và không quân phong tỏa đảo
Hải Nam (như người ta cứ tưởng
thế) để lấy lại chiếc máy bay thám thính
đă bị Trung Cộng cưỡng ép hạ cánh
xuống đảo này v́ bị coi là đă xâm
phạm không phận Trung Cộng trong một chuyến
bay do thám. Trung Cộng bắt được chiếc
phi cơ đó, một chiếc EP-3E ARIES II, và đă
lấy đi nhiều bí mật quân sự cũng như
tháo gỡ một số máy móc kỹ thuật trên
chiếc phi cơ trước khi đem trả “cái xác
không hồn” này về cho Mỹ. Cũng thế, trong
vụ Iran tịch thu chiếc máy bay drone của Hoa
Kỳ, một chiếc RQ-170 Sentinel, lạc đường
bay qua biên giới nước này, hồi Tháng Chạp
năm 2011, thời Tổng Thống Barack Obama, Mỹ
đâu có dám hành quân lấy lại chiếc máy bay này.
Iran đă kéo chiếc máy bay đó về một nơi
thanh vắng và mời các chuyên gia quân sự háo
hức của Nga và Trung Cộng đến phanh thây,
xẻ thịt chiếc máy bay để ăn cắp
kỹ thuật, rồi mỗi nước từ đó
chế tạo ra những chiếc drone giống hệt
như chiếc máy bay đáng thương đó
của Mỹ. Giới lănh đạo đa mưu, túc
trí Bắc Kinh, chứ không phải Mạc Tư Khoa,
đă ngồi quan sát rất kỹ phản ứng
của Hoa Kỳ qua 2 vụ này để có thể
đi các nước cờ kế tiếp. Các quốc
gia Trung Cộng, Nga và Iran - không chừng c̣n có cả
Bắc Hàn nữa - những kẻ ưa thách thức
Hoa Kỳ, đều bắt mạch thấy Hoa Kỳ
bây giờ cũng vẫn chỉ là một “con
cọp giấy,” coi bộ c̣n tệ hơn thời
Chiến Tranh Lạnh ngày nào nữa, bởi v́ ngày nay
quyền lợi to lớn của các đại công ty
Mỹ luôn trói tay các chính quyền liên tiếp ở
Washington không cho đụng tới Trung Cộng, trong
khi các khoản chiến phí khổng lồ lại làm
cho Mỹ phải nghĩ đi, nghĩ lại, nếu
không nói là ngán ngẩm, trước viễn tượng
phải lâm chiến với các nước khác như
Nga hoặc Iran hoặc Bắc Hàn. 10.
Điều mỉa mai là sự tồn
tại của chế độ Cộng Sản tại
Việt Nam chỉ dựa vào cái “không biết” và cái
“biết” của chính người dân Việt Nam. Trước
năm 1975, v́ “không biết” chủ nghĩa Cộng
Sản là tồi tệ, đa số dân chúng ở
Việt Nam - kéo theo giới phản chiến tại
Mỹ và các nước Âu Châu - đă đi theo
hoặc hùa theo Cộng Sản để dẫn đến
chiến thắng cuối cùng của họ tại
Miền Nam Tự Do vào ngày 30 Tháng Tư năm 1975. Sau
năm 1975, chính v́ “biết” rằng Cộng Sản
Việt Nam sẽ tồn tại lâu dài nếu họ
cứ bám riết theo đàn anh Trung Cộng, một
số người Việt Nam, ở trong nước cũng
như ở hải ngoại, bằng cách này hay cách khác,
vẫn tiếp tục ủng hộ chính quyền Hà
Nội. Tuy nhiên, điều này sẽ không c̣n đứng
vững được nữa một khi nền kinh
tế Trung Cộng sụp đổ - kéo theo xuống
vực sâu giấc mộng tranh bá, đồ vương
của Trung Cộng - theo như sự tính toán của
một số kinh tế gia quốc tế hiện nay. 11. Nếu Cộng Sản Việt Nam chịu từ bỏ chủ nghĩa Cộng Sản để đi theo con đường dân chủ đa nguyên, đa đảng th́ Việt Nam sẽ không cần ǵ đến Trung Cộng. Nhưng nếu Cộng Sản Việt Nam vẫn cứ khư khư giữ lấy chế độ độc tài, đảng trị Cộng Sản (như họ đang làm hiện nay) th́ đương nhiên là họ phải bám riết theo Trung Cộng để được che chở mà sống c̣n, thay v́ chạy theo Mỹ để rồi cứ bị siêu cường này áp lực phải chuyển sang con đường tự do, dân chủ phóng khoáng mà họ cho là hay nhất (như họ đă từng làm đối với Miền Nam Việt Nam thời Đệ Nhất Cộng Ḥa dưới quyền của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, để rồi Việt Nam Cộng Ḥa suy yếu rồi mất luôn vào tay Cộng Sản). |