Hoà
Giải Dân Tộc: Hiện Trạng Và Triển
Vọng
Đỗ Kim Thêm |
Bức ảnh “Hai người lính”
VNCH và CSVN mang thông điệp ḥa giải, ḥa hợp dân
tộc. Hiện trạng Kể từ
ngày 30/4/1975, đất nước được
thống nhất, sau 47 năm, nh́n chung thời gian đă
quá đủ để cho Việt Nam có thể hàn
gắn mọi vết thương chiến tranh và
lật qua một trang sử mới cho sự an b́nh,
thịnh vượng và phát triển. Ngược
lại, thực tế cho đến ngày 30/4/2022,
những nỗ lực ḥa giải dân tộc đă
thất bại. Phe thắng cuộc thu tóm được
lănh thổ nhưng không chinh phục ḷng người
miền Nam và dân miền Bắc càng hiểu rơ hơn
về ư nghĩa sâu xa của “giải phóng”. Thành quả
của chiến thắng vinh quang là toàn dân đại
bại và những người thành tâm chưa hề có
chỗ đứng trong ḷng dân tộc. Tuy thế, nhà
cầm quyền vẫn chưa bừng tỉnh mà
lại c̣n tiếp tục né tránh sự thật. Do
đó, mối quan hệ của nhà cầm quyền
đối với đại gia đ́nh dân tộc
vẫn mờ mịt và c̣n tiếp tục thất
bại hiển nhiên là khó tránh. Dĩ nhiên, không
thể phủ nhận là không có những nỗ lực
ḥa giải từ hai phía thắng lẫn thua, mà
những thí dụ sau đây là điển h́nh. Phe thắng cuộc Ư thức ḥa
giải không thể hiện ngay sau Hiệp định
Paris hay ngày 30/4/1975 v́ phe thắng cuộc c̣n đang say
men chiến thắng. Về sau, có ít nhiều nhà lănh
đạo càng tiếp xúc nhiều với dân miền
Nam, đă bắt đầu có ư thức này, mà tiêu
biểu nhất là cố Thủ tướng Vơ Văn
Kiệt. Về mặt t́nh cảm, ông đă nhận xét
rất đúng về hậu quả chiến tranh: “… khi nhắc lại có hàng triệu
người vui mà cũng có hàng triệu người
buồn. Đó là một vết thương chung
của dân tộc cần được giữ lành, thay
v́ lại tiếp tục làm nó thêm rỉ máu”. Khi so sánh
nỗ lực ḥa giải của nhà cầm quyền
với kẻ thù Mỹ và toàn dân, ông Nguyễn Đ́nh
Bin, cựu Chủ nhiệm Ủy ban về người
Việt Nam ở nước ngoài cũng ngạc nhiên
khi tự hỏi: “Sự đô hộ và xâm lược
của nước ngoài … gây ra cảnh huynh đệ
tương tàn trên đất nước ta, thế mà
ta đă ḥa giải được với họ, c̣n chúng
ta, anh em một nhà … th́ lại chưa ḥa giải
được với nhau”. Dù một vài
nhân vật của phe thắng cuộc nhận thức
được vai tṛ của ḥa giải, nhưng lúc
đầu, họ vẫn chưa tạo được
các chuyển biến cho tiến tŕnh ḥa giải, v́ c̣n
cần đến cả một trào lưu. Về sau, khi
Nghị quyết 36, một chính sách mới của Đảng
ra đời để chiêu dụ các “khúc ruột ngàn dậm”,
th́ mới có một sự thay đổi đáng
kể. Thực ra,
Nghị quyết của Đảng là quyết định
có thái độ ban phát một chiều, không phải là
sự tương thuận của hai phía trong tinh
thần ḥa giải và tôn trọng lẫn nhau. Đảng
cũng không có một khuôn khổ pháp luật nào để
xây dựng cho tiến tŕnh thêm vững chắc, mà
chỉ xem số lượng kiều hối hằng năm
làm thước đo xem ḥa giải có thành công hay không. Tuy biết
thế, nhưng một vài khuôn mặt quan trọng
của phe thua cuộc cũng tham gia qua nhiều h́nh
thức khác nhau, mà các trường hợp sau đây là
các thí dụ. Phe thua cuộc Tiêu biểu
nhất cho tiếng nói phe thua cuộc là cựu Phó
Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ. Khi về nước
để làm chiếc cầu nối khởi đầu
cho người Việt hải ngoại, ông tuyên bố:
“… nhiệm vụ của mỗi công
dân trên toàn thế giới là đoàn kết nhau
lại, hợp sức xây dựng đất nước.
Hăy quên quá khứ để nh́n về tương
lai”. Sau nhiều
lần vận động dư luận, ông Kỳ thú
nhận là không đạt kết quả: “… cả hai phía vẫn có thiểu số c̣n quá
nặng về dĩ văng, chưa có tầm nh́n về tương
lai… tư duy của họ vẫn măi bị ám ảnh
bởi những chuyện hận thù, chủ nghĩa hay
phe phái… muốn ḥa hợp th́ rất không nên nói
nhiều mà phải làm”. Kết quả
là ông Kỳ không giúp được ǵ cho mục tiêu
chính của nhà cầm quyền. Ông mất năm 2011 và
không được ca tụng hay thương tiếc;
nhưng ông đă tạo thêm phân hoá cho người
Việt hải ngoại, hầu hết kết án ông là
phản bội, thiếu liêm khiết và can trường
của người chiến bại. Có nhiều
giải thích về động lực của ông Kỳ
khi về nước, không ai có thể tin là ông có tinh
thần tự nguyện, mà do sự thu xếp của nhà
cầm quyền, trực tiếp nhất là ông
Nguyễn Đ́nh Bin. Về sau, Trịnh Xuân Thanh khi
trốn chạy sang Đức có lên tiếng tố giác
là ông Kỳ bị mua chuộc bằng rất nhiều
tiền cho việc trở về này. Nhạc sĩ
Phạm Duy, dù không phải nhà một nhân vật quan
trọng trong chính giới miền Nam, nhưng là một
cây đại thụ trong làng âm nhạc. Ông theo
Việt Minh tham gia kháng chiến rồi lại bỏ
quay về Hà Nội. Sau năm 1954, ông di cư vào Nam và
năm 1975 sang Mỹ tỵ nạn. Trong các thời
kỳ khác nhau, ông có những nhạc phẩm đấu
tranh nổi danh. Tuổi già
xế bóng, ông không c̣n quan tâm đến chính trị và
muốn trở về Việt Nam sống, nhưng
gặp phải phản ứng dữ dội của
nhiều người yêu nhạc. Cuối cùng, bất
chấp dư luận, ông quyết định: “người Việt Nam ở
Mỹ, hay đi hải ngoại rồi, muốn nghĩ
ǵ th́ nghĩ, tôi không quan tâm”. Đối
với sự thay đổi trên quê hương, ông không
lo cho đại cuộc ḥa giải, mà chỉ nhận xét
đơn thuần: “Đời sống của dân ḿnh
tôi thấy đă thay đổi hoàn toàn, ngay
cả làng mạc nay cũng khang trang, sạch sẽ. Người
nông dân tuy c̣n đi cày, nhưng trên bờ ruộng
lại có chiếc Honda, không phải lội bộ như
ngày xưa”. Ông qua đời
năm 2013 và không có một đóng góp đáng kể nào
cho việc ḥa giải ngoài việc làm sống lại
một số nhạc phẩm đă bị cấm
phổ biến trước đây. Trào lưu thưởng ngoạn
của thế hệ hậu chiến thay đổi,
họ không c̣n hâm mộ nhạc của ông, mà là
nhạc Boléro. Một cao tăng
Phật giáo lừng danh quốc tế trong phong trào kêu
gọi cho ḥa b́nh Việt Nam và có nhiều công đức
hoằng pháp qua phép tu Chánh niệm tại phương
Tây là Thiền sư Nhất Hạnh cũng về nước. Không trực
tiếp dấn thân cho việc ḥa giải mà thực ra
Thiền sư Nhất Hạnh muốn chấn hưng
Phật giáo đang suy đồi bằng cách truyền
dạy Pháp môn Làng Mai và xây dựng chùa Bát Nhă ở
Đà Lạt, Lâm Đồng làm nơi tu tập cho môn
sinh. Lúc đầu,
Thiền sư được các cấp lănh đạo
hoan nghênh chào đón, hội kiến và cho phép Làng Mai
hoạt động. Sau khi Làng Mai bắt đầu
hoạt động từ năm 2005, Thiền sư
Nhất Hạnh có yêu cầu là Ban Tôn giáo Chính phủ
và công an không có quyền can dự sinh hoạt của
tu viện Bát Nhă, Làng Mai không cần liên hệ đến
Giáo hội Phật giáo Quốc doanh và chịu sự lănh
đạo của Đảng. Từ sự
dị biệt quan điểm này, nhà cầm quyền
quyết định giải tán tu viện v́ xem Bát Nhă
là mối đe dọa cho an ninh quốc gia và xem
thiền sư Nhất Hạnh là “vi phạm pháp luật” và có “ư đồ chính trị”. Biến cố
Bát Nhă gây nhiều chấn động trong công luận
v́ công an không chính thức ra tay mà lại mượn côn
đồ gây mọi tṛ bỉ ổi để không cho
tu viện hoạt động, buộc tăng sinh
phải ra đi và cuối cùng để chiếm đoạt
toàn bộ cơ sở khang trang trị giá nhiều
triệu đô la. Một sự
kiện liên hệ đến ḥa giải là Phật giáo
Quốc doanh trực tiếp can thiệp nghi thức
cầu siêu, do Thiền sư Nhất Hạnh đứng
ra tổ chức. Trong cả ba buổi cầu siêu,
Thiền sư muốn cầu nguyện cho tất cả
mọi nạn nhân trong chiến tranh, trong đó có các
binh sĩ Mỹ, binh sĩ VNCH và tù nhân bị cải
tạo và thuyền nhân vượt biên. Ngược
lại, Hoà thượng Thích Trí Quảng, hiện đang
là Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Trung ương, lúc
đó dựa theo quan điểm chính thức của
Đảng để phản đối và yêu cầu các
buổi lễ chỉ nên riêng dành cho những “liệt sĩ hy sinh trong
cuộc chiến chống Pháp và chống Mỹ”. Nhiều
vấn đề liên quan đến Thiền sư trong
chuyến về nước đă được công
luận bàn cải sôi nổi mà các điểm có liên
quan đến ḥa giải cần nêu lên ở đây. Một là,
Việt Nam không có chủ trương ḥa giải,
cụ thể là không cho phép cầu siêu những người
khác chiến tuyến đă nằm xuống. Ban Tôn giáo
cũng không phân biệt hai phạm vi tự do tôn giáo và
chính trị. Hai là,
Thiền sư Nhất Hạnh thất bại trong
việc ḥa giải giữa Giáo hội Quốc doanh và
Giáo hội Thống nhất, một tổ chức
tiền thân do Thương Toạ Thích Quảng Độ
lănh đạo. Ba là, Thiền
sư Nhất Hạnh đă không dám công khai đối
đầu với nhà cầm quyền để tranh
đấu cho tự do tôn giáo. Khi tu viện Bát Nhă
bị tịch thu và các môn sinh bị trục xuất,
Thiền sư sử dụng tên Nguyễn Lang, một bút
danh trước đây, để viết thư
thỉnh nguyện. Đây là một việc làm ôn ḥa,
nhưng né tránh, không mang chính danh, chính ngữ và đạt
hiệu quả. Các thí dụ
điển h́nh cho thấy, nỗ lực ḥa giải
thất bại đối với thế hệ trước
đây. Ngược lại, thế hệ hậu
chiến không có vấn đề quá khứ nên không có
nhu cầu ḥa giải, nhưng việc xây dựng đất
nước và dân chủ hoá mang nhiều sắc thái khác
hơn, nếu thành công, Việt Nam sẽ không c̣n
việc ḥa giải. Người Việt hải
ngoại và du học sinh là những đối tượng
tiêu biểu cho trào lưu này. Người Việt hải ngoại Người
Việt hải ngoại không trực tiếp nêu lên nhu
cầu ḥa giải chính trị, mà chỉ lo đóng góp
vật chất cho việc xây dựng đất nước,
dù có một số không nhỏ có quá khứ tham
chiến. Hai lĩnh vực mà nhà cầm quyền luôn
tự hào về các thành quả của người
Việt hải ngoại là đầu tư kinh tế và
kiều hối. Tính đến
cuối năm 2020, người Việt hải ngoại
đă có trên 360 dự án ở Việt Nam với
tổng số vốn 1,6 tỉ đô la. Số lượng
kiều hối trong năm 2021 đạt 18,06 tỉ
đô la, tương đương 5% GDP của
Việt Nam. Thực tâm, người
Việt hải ngoại muốn dùng kiều hối
để giúp cho thân nhân là chính, nhưng hậu
quả cuối cùng là tiếp tay dung dưỡng cho
chế độ. Đối với nhà cầm
quyền, kiều hối là ân huệ trời ban, v́ không
phải lo các điều kiện hoàn lại và bị
kiểm soát như khi phải đàm phán với các nước
phương Tây trong các chương tŕnh viện
trợ phát triển. Nếu đem
hai thành tích này so với số trên năm triệu người
gốc Việt đang sinh sống và làm việc
khắp thế giới, th́ phải xem đây là một
đóng góp c̣n quá khiêm tốn, chưa xứng đáng
với tiềm năng. Chính v́ thế mà nhà cầm
quyền c̣n mong t́m nhiều cơ hội khác để
khai thác nhiều hơn. Lư do chính là tài
sản của người gốc Việt không phải
chỉ có nơi kho báo vật chất, mà là tài năng
trí tuệ. Hiện nay, trên 700.000 chuyên gia khoa học khác
nhau làm rạng danh cho người Việt tại các nước
đang định cư. Nếu tất cả đồng
loạt trở về để cống hiến tài năng
cho đất nước, th́ Việt Nam vừa không
mất phí tổn đào tạo, vừa sử dụng
ngay các kinh nghiệm quốc tế. Đó là lợi
thế tối ưu để chấp cánh thiên thần
bay cao trong nền kinh tế thế giới. Việt Nam
đă ư thức vấn đề này và đưa ra
nhiều chương tŕnh thu hút nhân tài, nhưng không gây
được tiếng vang. Thực tế
là trái lại. Theo một ước lượng,
số người về nước làm việc mỗi
năm chưa đến một ngàn, vài trăm là chính
xác hơn, đa số chỉ tham gia trong các dự án
đầu tư của các doanh nghiệp quốc tế
và hầu như không có ư định sống lâu dài
ở Việt Nam. Mặc dù
yếu tố văn hoá, kinh tế, thời tiết có
thuận lợi cho người Việt hải ngoại,
nhưng thể chế chính trị vẫn là mối
bận tâm chính. Chế độ độc tài đảng
trị, thái độ gia trưởng trong hệ
thống công quyền, quốc nạn tham nhũng, vi
phạm nhân quyền là các thí dụ. Nhà cầm
quyền phải thú nhận rằng, có nhiều người
Việt hải ngoại “c̣n thành kiến, mặc cảm đă thể
hiện sự bất măn, tiêu cực, đi ngược
lại lợi ích chung của dân tộc, tuyên truyền
sai sự thật, kích động kiều bào, phá
hoại mối quan hệ giữa nước sở
tại với Việt Nam, gây ảnh hưởng không
nhỏ đến quá tŕnh thực thi chủ trương,
chính sách về đại đoàn kết toàn dân
tộc của Đảng và Nhà nước”. Du học sinh Du học sinh
không bị ràng buộc bởi quá khứ chia rẽ, nên
việc ḥa giải không cần đặt ra. Nhiều
người thiết tha với việc dân chủ hóa
cho đất nước, cho rằng khi họ ra nước
ngoài, sẽ hấp thụ giá trị dân chủ và
về nước sẽ làm ngọn đuốc soi
đường để giúp dân chủ hoá quê hương.
Với thời gian, việc đổi mới cho đất
nước có cơ may thành tựu và việc ḥa
giải cũng nhờ thế mà âm thầm kết thúc. Theo một
thống kê gần đây, hiện đang có khoảng
190.000 du học sinh Việt Nam đang học tập, nghiên
cứu ở nước ngoài, nhiều nhất là ở
Úc 30.000, Mỹ 29.000, Canada 21.000, Anh 12.000, Trung Quốc
11.000. Sự thật
về các thành tựu của du học sinh cũng làm
cho các nhà đấu tranh dân chủ đau ḷng và nhà
cầm quyền cũng thất vọng không kém.
Nguyện vọng của hầu hết các du học sinh
đều không muốn về nước để
phục vụ. Có nhiều lư do để giải thích
cho thái độ này, không hẳn là lựa chọn cá
nhân mà phản ảnh một thái độ chính
trị. Các quốc gia
phương Tây có chủ trương thu hút nhân tài, không
quan tâm đến chính kiến hay lối sống riêng tư,
không phân biệt nguồn gốc hay gia thế, mà
mục tiêu chính là tạo điều kiện để
phát triển chuyên môn. Chủ trương này khác
hẳn với chính sách “hạt giống đỏ” của
Việt Nam hiện nay. V́ “hồng hơn chuyên”,
nên các “thái tử Đảng” có
ưu quyền để chiếm ưu thế trong các
chức vụ lănh đạo. Lư do ở
lại của các du học sinh c̣n có tiềm ẩn khác.
Hầu hết t́m cách nhập cư, t́m việc và
kết hôn, mọi h́nh thức hợp pháp nhằm
tạo cầu nối “đoàn tụ” cho cha mẹ và anh
em. Do cách hạ cánh
an toàn này mà nhà cầm quyền nhận ra một
thất bại khác. Du học sinh lạm dụng
tiền đóng thuế của dân qua h́nh thức ngân sách
tài trợ, cuối cùng, có kết quả là việc
đoàn tụ gia đ́nh tại hải ngoại ngày càng
gia tăng và cả hai việc thất thoát nhân tài và
tiền ngân sách không có cách thu hồi. Tóm lại, người
Việt hải ngoại và du học sinh sẽ không
đóng góp ǵ nhiều cho hai mục tiêu xây dựng
đất nước và dân chủ hoá. Do đó,
vấn đề ḥa giải cũng c̣n tồn động. Triển vọng Trước
hiện t́nh này, vấn đề được đặt
ra là liệu nhà cầm quyền có đủ can đảm
để cải thiện tiến tŕnh ḥa giải dân
tộc không. Cho đến nay, câu trả lời là không,
hay đúng hơn là vẫn c̣n né tránh. Né tránh là
một thái độ khôn ngoan v́ thế hệ tham
chiến lần lượt ra đi và thế hệ
hậu chiến không quan tâm đến quá khứ
lịch sử. Với thời gian trôi qua, nhu cầu ḥa
giải sẽ được kết thúc trong âm
thầm. May mắn
lớn nhất cho nhà cầm quyền là trào lưu
quốc tế vô cùng biến động, dịch
bịnh COVID-19 hoành hành và kinh tế suy sụp là
những thách thức mới, nên các tiếng nói
chống Cộng ở hải ngoại hay ḥa giải
trong nước không c̣n nhiều và quốc tế không
c̣n quan tâm như trước. Do đó,
mọi ước vọng của người dân
trở nên thực tế hơn, đó là sức
khoẻ cá nhân và b́nh yên gia đ́nh trong cuộc
sống hằng ngày. Trực diện đấu tranh
với nhà cầm quyền chỉ khi nào quyền
lợi bị trực tiếp bị tổn thương. Công nhân có
thể c̣n tranh đấu cho quyền lợi, nông dân c̣n
lên tiếng nói để đ̣i bồi thường
trong các cụ tranh chấp đất đai thoả
đáng hơn. Nhưng các đ̣i hỏi vật
chất này không có nguy cơ làm náo động xă
hội nghiêm trọng và ảnh hưởng đến
sự tồn vong của chế độ. Nh́n chung, toàn
dân có một ước muốn là đất nước
an b́nh và thịnh vượng, được nhà
cầm quyền bảo vệ dân quyền. Đó là
một khuôn khổ để xây dựng lại các
mối quan hệ cho toàn xă hội. Chính một
tinh thần đồng thuận về mọi giá
trị chính trị trở thành niềm tin trong việc
tạo lập một cộng đồng xă hội cho tương
lai. Trong tiến tŕnh này, luật pháp đóng vai tṛ quan
trọng nhất. Tuân hành
luật pháp là điều kiện tiên quyết để
cho thể chế chính trị bảo vệ các thành
phần dị biệt trong xă hội. Khuôn khổ tuân hành
là nhà cầm quyền phải tạo điều
kiện cho tất cả các thành phần dân tộc, các
xu hướng chính trị, các tôn giáo được b́nh
đẳng trước pháp luật, thực thi dân
chủ, tôn trọng nhân quyền và dân quyền. Sự
đồng t́nh của toàn dân trong bối cảnh
mới sẽ đem lại ư nghĩa cho sự chung
sống. Nh́n lại quá
khứ, một thực tế không thể tranh căi là các
vấn đề khuất tất lịch sử đă
không được soi sáng. Kết quả là cho đến
ngày nay, nhà cầm quyền vẫn c̣n tranh đoạt
trắng trợn thành tích giành độc lập dân
tộc, dùng các thủ đoạn gian dối, né tránh,
độc quyền giải thích lịch sử, t́m
mọi cách khơi dậy thù nghịch và đe dọa
sử dụng bạo lực đảng quyền. Đó
cũng chính là điểm bi thương nhất cho
lịch sử cận đại. Điều may
mắn cho dân tộc là bia miệng vẫn c̣n truyền
tụng các sự thật. Lịch sử truyền
khẩu sẽ không bao giờ quên được
tội ác của Việt Minh và Việt Cộng gây ra, mà
việc sát hại Đức Huỳnh Giáo Chủ, đàn
áp Phật giáo Hoà Hảo và thảm sát người dân
vô tội ở Huế vào dịp Tết Mậu Thân là
hai thí dụ chính. Trong thời đại văn minh, các
h́nh thức độc quyền ban phát chân lư lịch
sử không phải là tiếng nói của lương
tri và đạo đức. V́ sự
thật sẽ măi măi tồn tại và giải phóng cho
chúng ta, nên nhà cầm quyền không c̣n có lợi ǵ khi
tiếp tục chính sách giáo dục ngu dân bằng cách
xoá bỏ sự thật lịch sử. Thời thế
đổi thay, mọi nhận thức về quá khứ
vinh quang của một đất nước anh hùng
cần được xét lại nghiêm chỉnh. Đối
với các tồn đọng trong quá khứ, không c̣n cách
nào tốt đẹp hơn cho nhà cầm quyền là
phải có trách nhiệm làm sáng tỏ những bí
ẩn của lịch sử và hàn gắn những
chấn thương tâm lư cho toàn dân. C̣n trong
hiện tại, sự sợ hăi thường trực
đang làm cho nhà cầm quyền lo, tạo ra mọi phương
tiện cần thiết để duy tŕ bạo lực
độc tài, mà đúng ra là cần trực tiếp và
thành tâm đối thoại với các thành phần
đối kháng, không nên hoang tưởng xem tất
cả là các thế lực thù địch đang
chống phá chế độ. Không thể tổng quát
hoá rằng ai có quan điểm đối lập chính
trị cũng đều là những phần tử suy
thoái đạo đức và phản động. Trong chiều hướng
này, nhà cầm quyền phải phản tỉnh để
t́m lại nguyện vọng trung thực của toàn dân.
Ư thức mới này, nếu nhận ra được,
trở thành một giải pháp mới cần thực
thi. Các bế
tắc về lư thuyết của đảng CSVN cần
phải được bổ sung. Thực tế là
nền kinh tế thị trường theo XHCH sinh ra
một quái thai là tư bản thân tộc, một h́nh
thức giai cấp bóc lột mới và gây bao bất công
cho xă hội. Thực thi
chủ nghĩa xă hội trong bối cảnh mới,
nếu được cải cách, có nghĩa là, không hô
hào độc tôn đảng quyền và bạo lực
sắt máu để bảo vệ cho thân tộc mà là
trong tinh thần tôn trọng dân chủ, b́nh đẳng,
luật pháp và đem phúc lợi cho toàn dân, đó chính
là một mô h́nh mà các nước Bắc Âu đă áp
dụng thành công. Kết luận Đất nước
đang đứng trước các thách thức nghiêm
trọng, Việt Nam không thể tiếp tục t́m
sự bao che của các cường quốc để
duy tŕ chế độ mà quên đi sức mạnh dân
tộc. Ngược lại, chính sức mạnh dân
tộc mới là chỗ dựa vững chắc và tinh
thần đoàn kết Diên Hồng là một khởi
điểm tất yếu cho việc khởi động
lại tinh thần ḥa giải dân tộc. Thành tâm xoá
bỏ hận thù là t́m hiểu và mến yêu người
sai phạm. Tha thứ và hiểu nhau là v́ đă t́m
thấy lại nhau trong một quá khứ chung lầm
lạc. Mọi người bắt đầu yêu
mến nhau là v́ nhận ra rằng có cùng chung số
phận và ư chí để lo xây dựng đất nước. Nếu các
nỗ lực soi sáng lịch sử và thành tâm khép
lại quá khứ của nhà cầm quyền thành công,
th́ một mạng lưới quang minh chính đại
trong mối quan hệ toàn xă hội sẽ dần dà thành
h́nh. Trong triển
vọng này, tiến tŕnh ḥa giải cho đại gia
đ́nh dân tộc có điều kiện khả thi
khởi đầu và hợp tác quốc tế để
phát huy nội lực là vấn đề hỗ trợ
thứ yếu. Đỗ Kim Thêm
|