Hoà Giải Dân Tộc: Hiện Trạng Và Triển Vọng

Đỗ Kim Thêm

https://nguoivietboston.com/wp-content/uploads/2022/04/linh-vnch-2.jpg

Bức ảnh “Hai người lính” VNCH và CSVN mang thông điệp ḥa giải, ḥa hợp dân tộc. 

Hiện trạng

Kể từ ngày 30/4/1975, đất nước được thống nhất, sau 47 năm, nh́n chung thời gian đă quá đủ để cho Việt Nam có thể hàn gắn mọi vết thương chiến tranh và lật qua một trang sử mới cho sự an b́nh, thịnh vượng và phát triển.

Ngược lại, thực tế cho đến ngày 30/4/2022, những nỗ lực ḥa giải dân tộc đă thất bại. Phe thắng cuộc thu tóm được lănh thổ nhưng không chinh phục ḷng người miền Nam và dân miền Bắc càng hiểu rơ hơn về ư nghĩa sâu xa của “giải phóng”.

Thành quả của chiến thắng vinh quang là toàn dân đại bại và những người thành tâm chưa hề có chỗ đứng trong ḷng dân tộc. Tuy thế, nhà cầm quyền vẫn chưa bừng tỉnh mà lại c̣n tiếp tục né tránh sự thật. Do đó, mối quan hệ của nhà cầm quyền đối với đại gia đ́nh dân tộc vẫn mờ mịt và c̣n tiếp tục thất bại hiển nhiên là khó tránh.

Dĩ nhiên, không thể phủ nhận là không có những nỗ lực ḥa giải từ hai phía thắng lẫn thua, mà những thí dụ sau đây là điển h́nh.

Phe thắng cuộc

Ư thức ḥa giải không thể hiện ngay sau Hiệp định Paris hay ngày 30/4/1975 v́ phe thắng cuộc c̣n đang say men chiến thắng. Về sau, có ít nhiều nhà lănh đạo càng tiếp xúc nhiều với dân miền Nam, đă bắt đầu có ư thức này, mà tiêu biểu nhất là cố Thủ tướng Vơ Văn Kiệt. Về mặt t́nh cảm, ông đă nhận xét rất đúng về hậu quả chiến tranh: “… khi nhắc lại có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là một vết thương chung của dân tộc cần được giữ lành, thay v́ lại tiếp tục làm nó thêm rỉ máu”.

Khi so sánh nỗ lực ḥa giải của nhà cầm quyền với kẻ thù Mỹ và toàn dân, ông Nguyễn Đ́nh Bin, cựu Chủ nhiệm Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài cũng ngạc nhiên khi tự hỏi: “Sự đô hộ và xâm lược của nước ngoài … gây ra cảnh huynh đệ tương tàn trên đất nước ta, thế mà ta đă ḥa giải được với họ, c̣n chúng ta, anh em một nhà … th́ lại chưa ḥa giải được với nhau”.

Dù một vài nhân vật của phe thắng cuộc nhận thức được vai tṛ của ḥa giải, nhưng lúc đầu, họ vẫn chưa tạo được các chuyển biến cho tiến tŕnh ḥa giải, v́ c̣n cần đến cả một trào lưu.

Về sau, khi Nghị quyết 36, một chính sách mới của Đảng ra đời để chiêu dụ các “khúc ruột ngàn dậm”, th́ mới có một sự thay đổi đáng kể.

Thực ra, Nghị quyết của Đảng là quyết định có thái độ ban phát một chiều, không phải là sự tương thuận của hai phía trong tinh thần ḥa giải và tôn trọng lẫn nhau. Đảng cũng không có một khuôn khổ pháp luật nào để xây dựng cho tiến tŕnh thêm vững chắc, mà chỉ xem số lượng kiều hối hằng năm làm thước đo xem ḥa giải có thành công hay không.

Tuy biết thế, nhưng một vài khuôn mặt quan trọng của phe thua cuộc cũng tham gia qua nhiều h́nh thức khác nhau, mà các trường hợp sau đây là các thí dụ.

Phe thua cuộc

Tiêu biểu nhất cho tiếng nói phe thua cuộc là cựu Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ. Khi về nước để làm chiếc cầu nối khởi đầu cho người Việt hải ngoại, ông tuyên bố: “… nhiệm vụ của mỗi công dân trên toàn thế giới là đoàn kết nhau lại, hợp sức xây dựng đất nước. Hăy quên quá khứ để nh́n về tương lai”.

Sau nhiều lần vận động dư luận, ông Kỳ thú nhận là không đạt kết quả: “… cả hai phía vẫn có thiểu số c̣n quá nặng về dĩ văng, chưa có tầm nh́n về tương lai… tư duy của họ vẫn măi bị ám ảnh bởi những chuyện hận thù, chủ nghĩa hay phe phái… muốn ḥa hợp th́ rất không nên nói nhiều mà phải làm”.

Kết quả là ông Kỳ không giúp được ǵ cho mục tiêu chính của nhà cầm quyền. Ông mất năm 2011 và không được ca tụng hay thương tiếc; nhưng ông đă tạo thêm phân hoá cho người Việt hải ngoại, hầu hết kết án ông là phản bội, thiếu liêm khiết và can trường của người chiến bại.

Có nhiều giải thích về động lực của ông Kỳ khi về nước, không ai có thể tin là ông có tinh thần tự nguyện, mà do sự thu xếp của nhà cầm quyền, trực tiếp nhất là ông Nguyễn Đ́nh Bin. Về sau, Trịnh Xuân Thanh khi trốn chạy sang Đức có lên tiếng tố giác là ông Kỳ bị mua chuộc bằng rất nhiều tiền cho việc trở về này.

Nhạc sĩ Phạm Duy, dù không phải nhà một nhân vật quan trọng trong chính giới miền Nam, nhưng là một cây đại thụ trong làng âm nhạc. Ông theo Việt Minh tham gia kháng chiến rồi lại bỏ quay về Hà Nội. Sau năm 1954, ông di cư vào Nam và năm 1975 sang Mỹ tỵ nạn. Trong các thời kỳ khác nhau, ông có những nhạc phẩm đấu tranh nổi danh.

Tuổi già xế bóng, ông không c̣n quan tâm đến chính trị và muốn trở về Việt Nam sống, nhưng gặp phải phản ứng dữ dội của nhiều người yêu nhạc. Cuối cùng, bất chấp dư luận, ông quyết định: “người Việt Nam ở Mỹ, hay đi hải ngoại rồi, muốn nghĩ ǵ th́ nghĩ, tôi không quan tâm”.

Đối với sự thay đổi trên quê hương, ông không lo cho đại cuộc ḥa giải, mà chỉ nhận xét đơn thuần: “Đời sống của dân ḿnh tôi thấy đă thay đổi hoàn toàn, ngay cả làng mạc nay cũng khang trang, sạch sẽ. Người nông dân tuy c̣n đi cày, nhưng trên bờ ruộng lại có chiếc Honda, không phải lội bộ như ngày xưa”.

Ông qua đời năm 2013 và không có một đóng góp đáng kể nào cho việc ḥa giải ngoài việc làm sống lại một số nhạc phẩm đă bị cấm phổ biến trước đâyTrào lưu thưởng ngoạn của thế hệ hậu chiến thay đổi, họ không c̣n hâm mộ nhạc của ông, mà là nhạc Boléro.

Một cao tăng Phật giáo lừng danh quốc tế trong phong trào kêu gọi cho ḥa b́nh Việt Nam và có nhiều công đức hoằng pháp qua phép tu Chánh niệm tại phương Tây là Thiền sư Nhất Hạnh cũng về nước.

Không trực tiếp dấn thân cho việc ḥa giải mà thực ra Thiền sư Nhất Hạnh muốn chấn hưng Phật giáo đang suy đồi bằng cách truyền dạy Pháp môn Làng Mai và xây dựng chùa Bát Nhă ở Đà Lạt, Lâm Đồng làm nơi tu tập cho môn sinh.

Lúc đầu, Thiền sư được các cấp lănh đạo hoan nghênh chào đón, hội kiến và cho phép Làng Mai hoạt động. Sau khi Làng Mai bắt đầu hoạt động từ năm 2005, Thiền sư Nhất Hạnh có yêu cầu là Ban Tôn giáo Chính phủ và công an không có quyền can dự sinh hoạt của tu viện Bát Nhă, Làng Mai không cần liên hệ đến Giáo hội Phật giáo Quốc doanh và chịu sự lănh đạo của Đảng.

Từ sự dị biệt quan điểm này, nhà cầm quyền quyết định giải tán tu viện v́ xem Bát Nhă là mối đe dọa cho an ninh quốc gia và xem thiền sư Nhất Hạnh là “vi phạm pháp luật” và có “ư đồ chính trị”.

Biến cố Bát Nhă gây nhiều chấn động trong công luận v́ công an không chính thức ra tay mà lại mượn côn đồ gây mọi tṛ bỉ ổi để không cho tu viện hoạt động, buộc tăng sinh phải ra đi và cuối cùng để chiếm đoạt toàn bộ cơ sở khang trang trị giá nhiều triệu đô la.

Một sự kiện liên hệ đến ḥa giải là Phật giáo Quốc doanh trực tiếp can thiệp nghi thức cầu siêu, do Thiền sư Nhất Hạnh đứng ra tổ chức. Trong cả ba buổi cầu siêu, Thiền sư muốn cầu nguyện cho tất cả mọi nạn nhân trong chiến tranh, trong đó có các binh sĩ Mỹ, binh sĩ VNCH và tù nhân bị cải tạo và thuyền nhân vượt biên. Ngược lại, Hoà thượng Thích Trí Quảng, hiện đang là Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Trung ương, lúc đó dựa theo quan điểm chính thức của Đảng để phản đối và yêu cầu các buổi lễ chỉ nên riêng dành cho những “liệt sĩ hy sinh trong cuộc chiến chống Pháp và chống Mỹ”.

Nhiều vấn đề liên quan đến Thiền sư trong chuyến về nước đă được công luận bàn cải sôi nổi mà các điểm có liên quan đến ḥa giải cần nêu lên ở đây.

Một là, Việt Nam không có chủ trương ḥa giải, cụ thể là không cho phép cầu siêu những người khác chiến tuyến đă nằm xuống. Ban Tôn giáo cũng không phân biệt hai phạm vi tự do tôn giáo và chính trị.

Hai là, Thiền sư Nhất Hạnh thất bại trong việc ḥa giải giữa Giáo hội Quốc doanh và Giáo hội Thống nhất, một tổ chức tiền thân do Thương Toạ Thích Quảng Độ lănh đạo.

Ba là, Thiền sư Nhất Hạnh đă không dám công khai đối đầu với nhà cầm quyền để tranh đấu cho tự do tôn giáo. Khi tu viện Bát Nhă bị tịch thu và các môn sinh bị trục xuất, Thiền sư sử dụng tên Nguyễn Lang, một bút danh trước đây, để viết thư thỉnh nguyện. Đây là một việc làm ôn ḥa, nhưng né tránh, không mang chính danh, chính ngữ và đạt hiệu quả.

Các thí dụ điển h́nh cho thấy, nỗ lực ḥa giải thất bại đối với thế hệ trước đây. Ngược lại, thế hệ hậu chiến không có vấn đề quá khứ nên không có nhu cầu ḥa giải, nhưng việc xây dựng đất nước và dân chủ hoá mang nhiều sắc thái khác hơn, nếu thành công, Việt Nam sẽ không c̣n việc ḥa giải. Người Việt hải ngoại và du học sinh là những đối tượng tiêu biểu cho trào lưu này.

Người Việt hải ngoại

Người Việt hải ngoại không trực tiếp nêu lên nhu cầu ḥa giải chính trị, mà chỉ lo đóng góp vật chất cho việc xây dựng đất nước, dù có một số không nhỏ có quá khứ tham chiến. Hai lĩnh vực mà nhà cầm quyền luôn tự hào về các thành quả của người Việt hải ngoại là đầu tư kinh tế và kiều hối.

Tính đến cuối năm 2020, người Việt hải ngoại đă có trên 360 dự án ở Việt Nam với tổng số vốn 1,6 tỉ đô la. Số lượng kiều hối trong năm 2021 đạt 18,06 tỉ đô la, tương đương 5% GDP của Việt Nam.

Thực tâm, người Việt hải ngoại muốn dùng kiều hối để giúp cho thân nhân là chính, nhưng hậu quả cuối cùng là tiếp tay dung dưỡng cho chế độ. Đối với nhà cầm quyền, kiều hối là ân huệ trời ban, v́ không phải lo các điều kiện hoàn lại và bị kiểm soát như khi phải đàm phán với các nước phương Tây trong các chương tŕnh viện trợ phát triển.

Nếu đem hai thành tích này so với số trên năm triệu người gốc Việt đang sinh sống và làm việc khắp thế giới, th́ phải xem đây là một đóng góp c̣n quá khiêm tốn, chưa xứng đáng với tiềm năng. Chính v́ thế mà nhà cầm quyền c̣n mong t́m nhiều cơ hội khác để khai thác nhiều hơn.

Lư do chính là tài sản của người gốc Việt không phải chỉ có nơi kho báo vật chất, mà là tài năng trí tuệ. Hiện nay, trên 700.000 chuyên gia khoa học khác nhau làm rạng danh cho người Việt tại các nước đang định cư. Nếu tất cả đồng loạt trở về để cống hiến tài năng cho đất nước, th́ Việt Nam vừa không mất phí tổn đào tạo, vừa sử dụng ngay các kinh nghiệm quốc tế. Đó là lợi thế tối ưu để chấp cánh thiên thần bay cao trong nền kinh tế thế giới. Việt Nam đă ư thức vấn đề này và đưa ra nhiều chương tŕnh thu hút nhân tài, nhưng không gây được tiếng vang.

Thực tế là trái lại. Theo một ước lượng, số người về nước làm việc mỗi năm chưa đến một ngàn, vài trăm là chính xác hơn, đa số chỉ tham gia trong các dự án đầu tư của các doanh nghiệp quốc tế và hầu như không có ư định sống lâu dài ở Việt Nam.

Mặc dù yếu tố văn hoá, kinh tế, thời tiết có thuận lợi cho người Việt hải ngoại, nhưng thể chế chính trị vẫn là mối bận tâm chính. Chế độ độc tài đảng trị, thái độ gia trưởng trong hệ thống công quyền, quốc nạn tham nhũng, vi phạm nhân quyền là các thí dụ.

Nhà cầm quyền phải thú nhận rằng, có nhiều người Việt hải ngoại “c̣n thành kiến, mặc cảm đă thể hiện sự bất măn, tiêu cực, đi ngược lại lợi ích chung của dân tộc, tuyên truyền sai sự thật, kích động kiều bào, phá hoại mối quan hệ giữa nước sở tại với Việt Nam, gây ảnh hưởng không nhỏ đến quá tŕnh thực thi chủ trương, chính sách về đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng và Nhà nước”.

Du học sinh

Du học sinh không bị ràng buộc bởi quá khứ chia rẽ, nên việc ḥa giải không cần đặt ra. Nhiều người thiết tha với việc dân chủ hóa cho đất nước, cho rằng khi họ ra nước ngoài, sẽ hấp thụ giá trị dân chủ và về nước sẽ làm ngọn đuốc soi đường để giúp dân chủ hoá quê hương. Với thời gian, việc đổi mới cho đất nước có cơ may thành tựu và việc ḥa giải cũng nhờ thế mà âm thầm kết thúc.

Theo một thống kê gần đây, hiện đang có khoảng 190.000 du học sinh Việt Nam đang học tập, nghiên cứu ở nước ngoài, nhiều nhất là ở Úc 30.000, Mỹ 29.000, Canada 21.000, Anh 12.000, Trung Quốc 11.000.

Sự thật về các thành tựu của du học sinh cũng làm cho các nhà đấu tranh dân chủ đau ḷng và nhà cầm quyền cũng thất vọng không kém. Nguyện vọng của hầu hết các du học sinh đều không muốn về nước để phục vụ. Có nhiều lư do để giải thích cho thái độ này, không hẳn là lựa chọn cá nhân mà phản ảnh một thái độ chính trị.

Các quốc gia phương Tây có chủ trương thu hút nhân tài, không quan tâm đến chính kiến hay lối sống riêng tư, không phân biệt nguồn gốc hay gia thế, mà mục tiêu chính là tạo điều kiện để phát triển chuyên môn. Chủ trương này khác hẳn với chính sách “hạt giống đỏ” của Việt Nam hiện nay. V́ “hồng hơn chuyên”, nên các “thái tử Đảng” có ưu quyền để chiếm ưu thế trong các chức vụ lănh đạo.

Lư do ở lại của các du học sinh c̣n có tiềm ẩn khác. Hầu hết t́m cách nhập cư, t́m việc và kết hôn, mọi h́nh thức hợp pháp nhằm tạo cầu nối “đoàn tụ” cho cha mẹ và anh em.

Do cách hạ cánh an toàn này mà nhà cầm quyền nhận ra một thất bại khác. Du học sinh lạm dụng tiền đóng thuế của dân qua h́nh thức ngân sách tài trợ, cuối cùng, có kết quả là việc đoàn tụ gia đ́nh tại hải ngoại ngày càng gia tăng và cả hai việc thất thoát nhân tài và tiền ngân sách không có cách thu hồi.

Tóm lại, người Việt hải ngoại và du học sinh sẽ không đóng góp ǵ nhiều cho hai mục tiêu xây dựng đất nước và dân chủ hoá. Do đó, vấn đề ḥa giải cũng c̣n tồn động.

Triển vọng

Trước hiện t́nh này, vấn đề được đặt ra là liệu nhà cầm quyền có đủ can đảm để cải thiện tiến tŕnh ḥa giải dân tộc không. Cho đến nay, câu trả lời là không, hay đúng hơn là vẫn c̣n né tránh.

Né tránh là một thái độ khôn ngoan v́ thế hệ tham chiến lần lượt ra đi và thế hệ hậu chiến không quan tâm đến quá khứ lịch sử. Với thời gian trôi qua, nhu cầu ḥa giải sẽ được kết thúc trong âm thầm.

May mắn lớn nhất cho nhà cầm quyền là trào lưu quốc tế vô cùng biến động, dịch bịnh COVID-19 hoành hành và kinh tế suy sụp là những thách thức mới, nên các tiếng nói chống Cộng ở hải ngoại hay ḥa giải trong nước không c̣n nhiều và quốc tế không c̣n quan tâm như trước.

Do đó, mọi ước vọng của người dân trở nên thực tế hơn, đó là sức khoẻ cá nhân và b́nh yên gia đ́nh trong cuộc sống hằng ngày. Trực diện đấu tranh với nhà cầm quyền chỉ khi nào quyền lợi bị trực tiếp bị tổn thương.

Công nhân có thể c̣n tranh đấu cho quyền lợi, nông dân c̣n lên tiếng nói để đ̣i bồi thường trong các cụ tranh chấp đất đai thoả đáng hơn. Nhưng các đ̣i hỏi vật chất này không có nguy cơ làm náo động xă hội nghiêm trọng và ảnh hưởng đến sự tồn vong của chế độ.

Nh́n chung, toàn dân có một ước muốn là đất nước an b́nh và thịnh vượng, được nhà cầm quyền bảo vệ dân quyền. Đó là một khuôn khổ để xây dựng lại các mối quan hệ cho toàn xă hội.

Chính một tinh thần đồng thuận về mọi giá trị chính trị trở thành niềm tin trong việc tạo lập một cộng đồng xă hội cho tương lai. Trong tiến tŕnh này, luật pháp đóng vai tṛ quan trọng nhất.

Tuân hành luật pháp là điều kiện tiên quyết để cho thể chế chính trị bảo vệ các thành phần dị biệt trong xă hội. Khuôn khổ tuân hành là nhà cầm quyền phải tạo điều kiện cho tất cả các thành phần dân tộc, các xu hướng chính trị, các tôn giáo được b́nh đẳng trước pháp luật, thực thi dân chủ, tôn trọng nhân quyền và dân quyền. Sự đồng t́nh của toàn dân trong bối cảnh mới sẽ đem lại ư nghĩa cho sự chung sống.

Nh́n lại quá khứ, một thực tế không thể tranh căi là các vấn đề khuất tất lịch sử đă không được soi sáng. Kết quả là cho đến ngày nay, nhà cầm quyền vẫn c̣n tranh đoạt trắng trợn thành tích giành độc lập dân tộc, dùng các thủ đoạn gian dối, né tránh, độc quyền giải thích lịch sử, t́m mọi cách khơi dậy thù nghịch và đe dọa sử dụng bạo lực đảng quyền. Đó cũng chính là điểm bi thương nhất cho lịch sử cận đại.

Điều may mắn cho dân tộc là bia miệng vẫn c̣n truyền tụng các sự thật. Lịch sử truyền khẩu sẽ không bao giờ quên được tội ác của Việt Minh và Việt Cộng gây ra, mà việc sát hại Đức Huỳnh Giáo Chủ, đàn áp Phật giáo Hoà Hảo và thảm sát người dân vô tội ở Huế vào dịp Tết Mậu Thân là hai thí dụ chính. Trong thời đại văn minh, các h́nh thức độc quyền ban phát chân lư lịch sử không phải là tiếng nói của lương tri và đạo đức.

V́ sự thật sẽ măi măi tồn tại và giải phóng cho chúng ta, nên nhà cầm quyền không c̣n có lợi ǵ khi tiếp tục chính sách giáo dục ngu dân bằng cách xoá bỏ sự thật lịch sử. Thời thế đổi thay, mọi nhận thức về quá khứ vinh quang của một đất nước anh hùng cần được xét lại nghiêm chỉnh.

Đối với các tồn đọng trong quá khứ, không c̣n cách nào tốt đẹp hơn cho nhà cầm quyền là phải có trách nhiệm làm sáng tỏ những bí ẩn của lịch sử và hàn gắn những chấn thương tâm lư cho toàn dân.

C̣n trong hiện tại, sự sợ hăi thường trực đang làm cho nhà cầm quyền lo, tạo ra mọi phương tiện cần thiết để duy tŕ bạo lực độc tài, mà đúng ra là cần trực tiếp và thành tâm đối thoại với các thành phần đối kháng, không nên hoang tưởng xem tất cả là các thế lực thù địch đang chống phá chế độ. Không thể tổng quát hoá rằng ai có quan điểm đối lập chính trị cũng đều là những phần tử suy thoái đạo đức và phản động.

Trong chiều hướng này, nhà cầm quyền phải phản tỉnh để t́m lại nguyện vọng trung thực của toàn dân. Ư thức mới này, nếu nhận ra được, trở thành một giải pháp mới cần thực thi.

Các bế tắc về lư thuyết của đảng CSVN cần phải được bổ sung. Thực tế là nền kinh tế thị trường theo XHCH sinh ra một quái thai là tư bản thân tộc, một h́nh thức giai cấp bóc lột mới và gây bao bất công cho xă hội.

Thực thi chủ nghĩa xă hội trong bối cảnh mới, nếu được cải cách, có nghĩa là, không hô hào độc tôn đảng quyền và bạo lực sắt máu để bảo vệ cho thân tộc mà là trong tinh thần tôn trọng dân chủ, b́nh đẳng, luật pháp và đem phúc lợi cho toàn dân, đó chính là một mô h́nh mà các nước Bắc Âu đă áp dụng thành công.

Kết luận

Đất nước đang đứng trước các thách thức nghiêm trọng, Việt Nam không thể tiếp tục t́m sự bao che của các cường quốc để duy tŕ chế độ mà quên đi sức mạnh dân tộc. Ngược lại, chính sức mạnh dân tộc mới là chỗ dựa vững chắc và tinh thần đoàn kết Diên Hồng là một khởi điểm tất yếu cho việc khởi động lại tinh thần ḥa giải dân tộc.

Thành tâm xoá bỏ hận thù là t́m hiểu và mến yêu người sai phạm. Tha thứ và hiểu nhau là v́ đă t́m thấy lại nhau trong một quá khứ chung lầm lạc. Mọi người bắt đầu yêu mến nhau là v́ nhận ra rằng có cùng chung số phận và ư chí để lo xây dựng đất nước.

Nếu các nỗ lực soi sáng lịch sử và thành tâm khép lại quá khứ của nhà cầm quyền thành công, th́ một mạng lưới quang minh chính đại trong mối quan hệ toàn xă hội sẽ dần dà thành h́nh.

Trong triển vọng này, tiến tŕnh ḥa giải cho đại gia đ́nh dân tộc có điều kiện khả thi khởi đầu và hợp tác quốc tế để phát huy nội lực là vấn đề hỗ trợ thứ yếu.

Đỗ Kim Thêm
Ngày 1-5-2022

Trở lại