Hoài niệm và phản tỉnh về ngày 30 tháng 4 năm 1975 để giải ảo ngụy sử, hoà giải dân tộc và xây dựng đất nước Đỗ Kim Thêm |
Tóm
lược: Ngày 30 tháng 4 năm 1975 là ngày toàn
thắng của ĐCSVN và là ngày đại bại
của toàn dân tộc Việt Nam. Chúng ta có các lư do
chính đáng để không tham gia mừng lễ
kỷ niệm chiến thắng, nhưng cần giúp
đỡ nhau để có ư thức phản tỉnh
về ư nghĩa tưởng niệm, hoà giải và trách
nhiệm đối với những hậu quả
của ngày này. Hiện
t́nh Việt Nam là đang bị nguy cơ hơn bao
giờ hết; v́ về mặt nội trị có quá
nhiều bất ổn mà vẹn toàn lănh thổ, tham
nhũng và nợ công là chính; về mặt đối
ngoại có quá nhiều tổn thương, v́ lănh
đạo đặt quyền lợi Trung Quốc và
quyền lợi riêng lên trên quyền lợi của dân
tộc là chính. Hoa Kỳ sẽ không là một lá
chắn an toàn cho Việt Nam v́ Hoa Kỳ không có phép
lạ để biến đổi nội t́nh và
ngoại cảnh cho Việt Nam. Hoa Kỳ cũng đủ
thông minh để không bao giờ chống Trung
Quốc thay cho Việt Nam. Mọi
vấn đề hiện nay của Việt Nam có
thể sẽ được giải quyết
được một phần nào khi có sức
mạnh dân tộc mà sự hiểu biết của toàn
dân, đồng thuận chính trị, và quyết tâm
chuyển hướng là chính và đường
lối thực tiễn là thay đổi hiến pháp dân
chủ, nâng cao đạo đức và giáo dục, tăng
trưởng kinh tế, tôn trọng trí thức và pháp
luật, thực thi nhân quyền và dân quyền và
bảo vệ thiên nhiên. Ngày
30 tháng 4 năm 2015 đánh dấu một ngày khởi
đầu cho trang sử Việt, mà một thế
hệ hậu chiến trưởng thành và sẽ
đảm nhận trách nhiệm chính trị cho đất
nước. Thế hệ hậu chiến không cần
có một lư tưởng cầu toàn để canh tân
đất nước hay các biện pháp xé rào để
cứu Đảng, mà cần nhất là có một ư
thức bừng tỉnh về sự tồn vong
của dân tộc. *** Kư
ức thay ngụy sử? Ngày
30 tháng 4 năm 2015 đánh dấu một ngày quan
trọng trong lịch sử của Việt Nam, v́ là ngày
kỷ niệm 40 năm chiến tranh kết thúc.
Hiện nay, các thế hệ tham chiến hầu như
đă lần lượt ra đi hay đang quên đi
những hậu quả của chiến cuộc.
Thời gian dài này cũng đủ để làm
một thế hệ hậu chiến trưởng thành
mà không vướng bận với kư ức thuộc
về lịch sử. Tuy
thế, có một sự khác biệt giữa kư ức
và lịch sử. Kư ức là một điều
kiện thiết yếu tự tại và có một giá
trị đặc biệt cho lịch sử. Kư ức
riêng tư tạo nên bản sắc cá nhân và kư
ức tập thể tạo nên bản sắc xă
hội. Cả hai đặc thù văn hoá này nếu
kết hợp nhau được sẽ làm thành
một lịch sử chung cho dân tộc. Để phác
thảo lịch sử, sử gia cần có kư ức văn
hoá, một sự thật của lịch sử và
đây là một trong những điều kiện khách
quan làm khởi điểm cho chính sử. Nhưng
trong hiện tại vấn đề soi sáng lịch
sử ít được quan tâm, bởi v́ chúng ta
đang có những nhu cầu bức thiết, đó là
hiểm hoạ Bắc thuộc và bất lực
của chính quyền trước những khát vọng
của toàn dân về toàn vẹn lănh thổ, xây
dựng dân chủ, phát triển kinh tế, nâng cao công
b́nh và tôn trọng nhân quyền. Nh́n
lại sau 40 năm dài th́ thực tế cho thấy dù
là kư ức của các chứng nhân lịch sử
đang nhạt nhoà và bản sắc của đất
nước đang tàn phai, nhưng người
Việt vẫn c̣n bị ám ảnh bởi những
chiến tuyến trong quá khứ, đề cao thành
quả chiến thắng măi làm cho việc hoà giải
giữa người Việt c̣n khó khăn và những
giá trị phổ quát trong xu thế thời đại
như tự do, dân chủ, nhân quyền và trọng pháp
lại chưa áp dụng. Lư do chính là người
Việt đă không có và sẽ không thể chia sẻ
một quá khứ chung của lịch sử cận
đại. Nếu
chúng ta muốn xây dựng một chính sử Việt
Nam cho hôm nay và mai sau, th́ giải ảo ngụy sử
là một nhu cầu tất yếu. Vậy vấn
đề là liệu có nên khơi động lại
kư ức cá nhân hay tập thể hoàn toàn độc
lập với mọi dị biệt và đối kháng
với ngụy sử để làm cơ sở
được không? Thế
hệ tham chiến và quá khứ Thế
hệ tham chiến nghĩ ǵ về quá khứ và để
làm ǵ trong hiện t́nh? Chiến tranh Việt Nam
nằm trong bối cảnh quốc tế của
Chiến tranh Lạnh và lại là một thí dụ
điển h́nh trong khu vực về Chiến tranh
Ủy nhiệm. Không riêng Việt Nam mà hầu như
nhiều quốc gia đều h́nh thành bằng
bạo lực. Trong cả một thời kỳ dài,
tranh đấu bằng bạo lực là một phương
tiện hiển nhiên, nó tạo nên một loại văn
hoá chung và trở thành một sự thực khách quan
của lịch sử. Chiến thắng ngày 30 tháng 4 năm
1975 là một bạo lực cách mạng để
thống nhất đất nước và là một
sản phẩm của lịch sử. Công
việc chọn lọc quá khứ để giải
ảo lịch sử cũng có nghĩa là làm sống
lại quá khứ, một phần hay toàn bộ kư
ức của cá nhân hay tập thể. Phủ nhận
hay quên đi quá khứ, cả hai nỗ lực này là
bất khả. Không ai muốn quên lăng quá khứ oai hùng,
v́ mục đích kéo dài hạnh phúc đă hết là
để làm quên đi thực tế bất hạnh.
Quên lăng quá khứ thương đau th́ không thể
dễ dàng v́ là một ám ảnh c̣n vang động
trong hồn như một loại bịnh tâm thần
kinh niên không trị được. Khép lại quá
khứ và cảm nhận nó trong mối quan hệ
với hiện tại và tương lai, cả hai
việc đ̣i hỏi chúng ta có một ư thức
phản tỉnh mà không bị dồn ép cực đoan
bằng một ư thức hệ đă lỗi thời
hay xí xoá dễ dăi bằng những thành tựu kinh
tế nay đang sa sút. Để
trả lời các vấn đề này, thế hệ
tham chiến lập luận là kư ức của các
chứng nhân lịch sử sẽ mai một và kư
ức của tập thể chỉ có tính địa
phương. Đoàn kết dân tộc là một
vấn đề trọng đại của lịch
sử đất nước, chúng ta hăy để cho
sử gia làm việc, v́ họ có khả năng
gạn đục khơi trong các tồn đọng
cuả quá khứ để tŕnh bày khách quan hơn và
có tác động hữu hiệu hơn. Bất
hạnh cho chúng ta là sử Việt bị ngụy
tạo quá nhiều, nên không thể lư giải và
thuyết phục các sự thật lịch sử
cận đại. Ngụy
tạo chính sử Có
một sự khác biệt giữa quan điểm
về lịch sử của người phương Tây
và Việt Nam. Khi người Mỹ nói đó là
chuyện lịch sử, mọi người cùng yên tâm
nghĩ là toàn bộ vấn đề xảy ra
được ghi chép cẩn thận và nghiên cứu
nghiêm túc (That is history; it is totally a record). Khi
người Việt nói đó là chuyện lịch
sử, chúng ta phải dè dặt hơn, v́ đó là
một biến cố quan trọng đă xảy ra (It
is a most importat thing); sự kiện c̣n ngờ
vực, đúng sai hay hay dở c̣n cần xét lạ, v́
tùy theo thời điểm và quan điểm chính
trị. Đây không phải là một khám phá mới
lạ, v́ đă có vô số các bằng chứng
về các sai lầm trong sử Việt, mà những ví
dụ chính cho thấy các tầm mức tác hại
nghiêm trọng của vấn đề ngụy
tạo. Thứ
nhất, theo sử
th́ Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN)
giải tán ngày 11 tháng 11 năm 1945, nhưng thực
tế th́ Đảng tiếp tục hoạt động
trong bí mật, sau đó lại công khai cho đến
ngày hôm nay. Không có sử gia nào bỏ công cải chính
sự kiện này của ĐCSVN và Đảng Lao
Động, dù là h́nh thức. Thứ
hai, vai tṛ
của ĐCSVN trong việc giành độc lập. Thực
ra, Việt Nam chưa độc lập vào ngày 2 tháng
9 năm 1945 khi Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn, v́
Đảng không cướp được chính
quyền từ tay Nhật và Pháp, mà của chính
phủ Trần Trọng Kim vào ngày 19 tháng 8 năm 1945
và về sau gọi đó là Cách mạng tháng Tám. Việt
Nam thâu hồi chủ quyền độc lập ngày 8
tháng 3 năm 1949
theo Hiệp Định Elysée. Điểm đặc
biệt của Hiệp định là Việt Nam
thống nhất và độc lập nằm trong Liên
Hiệp Pháp. Sau đó, ngày 23 tháng 4 năm 1949 Quốc
Hội Nam Kỳ đă giải tán chế độ
Nam Kỳ tự trị và sát nhập Nam Phần vào lănh
thổ Việt Nam. Do đó, Việt Nam đă
được thống nhất năm 1949 về
ngoại giao và chính trị. Không
ai bỏ công phân biệt
ư nghĩa cao cả của công cuộc đấu tranh
giành độc lập dân tộc do ngoại xâm và phương
cách bất chánh để cướp chính quyền
trong nội chính. Xác minh thời điểm chính
xác cho sự độc lập cũng bị quên lăng.
Thứ
ba, cuộc
đời của Hồ Chí Minh là một chuyện dài
không đoạn kết. Bao nhiêu sách vở khác nhau
viết về xuất xứ, hành tung, khả năng,
quá tŕnh hoạt động và tư cách đạo
đức của ông. Mỗi lúc lại có một khám
phá mới làm cho sự thật về cuộc đời
của ông càng huyền bí hơn. Nhu
cầu tuyên truyền chính trị nhất thời là
lời giải thích quen thuộc. Các nhà nghiên cứu
đă (phải) suy tôn ông lên làm thần thánh, rồi
một thời gian sau, v́ lư do chính trị khác,
lại hạ bệ. Nhiều tác phẩm viết
về ông, nhưng ông không có một chỗ đứng
vững chắc trong lịch sử. V́ ông là một
nạn nhân của lịch sử quái ác nên các
vấn đề tiểu sử, công nghiệp, đời
tư của ông c̣n cần phải tiếp tục soi
sáng. Thứ
tư, đấu
tranh quân sự có phải là một giải pháp
tối ưu duy nhất hay kết hợp với các
giải pháp nghị trường và ngoại giao cũng
là điều kiện khả thi? Trước
trào lưu đấu tranh giành độc lập
tại các nước Á Phi đang dâng cao nên Pháp
đă ư thức vấn đề này. Từ năm
1947 Pháp đă quyết định không tái lập
chế độ thuộc địa và tôn trọng
nguyện vọng độc lập của nhân dân
Việt Nam bằng cách đăng kư Việt Nam là
một quốc gia độc lập nằm trong Liên
Hiệp Pháp tại Liên Hiệp Quốc. Đó là
một thắng lợi ngoại giao và pháp lư mà Đảng
Cộng Sản đă phủ nhận và về sau
giải thích là Pháp đem quân trở lại Việt
Nam để tái lập chế độ thuộc
địa. Do
đó, khi nhân danh giành lại độc lập dân
tộc, họ chiến đấu vũ trang chống
Pháp, nhưng bằng cách độc quyền yêu nước
và độc quyền lănh đạo quốc gia. Trái
lại, các nước châu Á khác đă chủ trương
đấu tranh ôn ḥa, không bạo động và không
liên kết với Cộng sản Quốc tế, mà thành
công của Ấn Độ (1947) là một thí dụ,
dù bối cảnh phức tạp hơn Việt Nam
nhiều. Thứ
năm, ĐCSVN
sử dụng chiêu bài đấu tranh chống Pháp và
chống Mỹ như một chiến thuật để
đạt mục tiêu chiến lược là cướp
chính quyền. Họ đă chống đối bất
cứ giải pháp chính trị và ngoại giao nào không
cho họ độc quyền đấu tranh và lănh
đạo quốc gia, mà Hiệp định Genève và
Paris là hai cơ hội lịch sử. Dù
Hiệp định Genève chỉ là để định
ranh giới ngưng bắn và không áp đặt
những giải pháp chính trị, nhưng thống
nhất Nam Bắc thuộc quyền dân tộc tự
quyết, một cơ hội mới về tổng
tuyển cử mở ra và sẽ do hai miền ấn
định. Lănh đạo cả hai miền đă không
đủ nỗ lực để thực thi biện
pháp tổng tuyển cử, một cơ hội không
tốn xương máu. Đó là một quan điểm
sai lầm của cả hai và trở thành một
bất hạnh cho dân tộc hiếu hoà. Hiệp
định Paris là một hiệp ước ngoại
giao và có tác dụng chính trị, nhưng là một cơ
hội khác mở ra nếu các bên đồng ư “thực
hiện từng bước bằng phương pháp hoà
b́nh trên căn bản thương nghị và thỏa
thuận giữa Miền Bắc và Miền Nam, không bên
nào cưỡng ép bên nào, không bên nào thôn tính bên nào.”
(Điều 15). Phát
động chiến dịch Hồ Chí Minh để thôn
tính miền Nam không phải là phương pháp ḥa b́nh
như đă kư kết. Vi phạm Hiệp định
Paris lại là một thành tích tự hào về sự
phản bội của chính ḿnh và chấp nhận hy
sinh xương máu của thế hệ thanh niên
cuối cùng của miền Bắc. Thứ
sáu, Đại
Thắng Mùa Xuân là đỉnh cao chói lọi trong trang
sử đấu tranh của ĐCSVN, nhưng Ted
Gunderson (1928 – 2011), nhân viên của FBI tại Los
Angeles và Wahsington DC tiết lộ là sau chiến
dịch Operation Linebacker của Hoa Kỳ, Bắc
Việt tuyên bố đầu hàng đầu hàng vô
điều kiện. Ngũ giác Đài nhận điện
tín này nhưng CIA buộc ép nhẹm nguồn tin và
thuyên chuyển tất cả các nhân viên có trách
nhiệm ra khỏi nhiệm sở. Dĩ nhiên, Việt
Nam không hề kiểm chứng nguồn tin này. Tóm
lại, các vấn đề quan trọng trong chính
sử cận đại như ư nghiă đích thực
của chiến tranh, kết hợp các phương
tiện khả thi để giải quyết xung đột,
những hy sinh và thành tích cần được
giải ảo trong một phương cách mới hơn,
khi mà có vô số các nguồn tài liệu được
liên tục giải mật. Quan trọng nhất là chúng
ta phải có can đảm nh́n vào sư thật
của lịch sử trong một nhăn quan mới. Cho
dù ngày nay ngụy sử đă không thể phản
ảnh được toàn bộ quá khứ và chính
sử cũng không hẳn là mất đi hết trong
những ǵ c̣n sót lại nơi ḷng người, nhưng
điều may mắn hơn cho chúng ta là lịch
sử vẫn c̣n được truyền tụng, mà
kư ức cá nhân và tập thể cần hồi tưởng
là thí dụ điển h́nh. Những
người Việt đang ở vào lớp tuổi
bốn mươi hay trẻ hơn không có kư ức
về chiến cuộc, v́ họ chưa sinh ra. Dĩ
nhiên, họ có quyền đặt câu hỏi v́ sao
Việt Nam chưa thể canh tân đất nước
và hưởng độc lập dân tộc và họ
phải gánh chịu một di sản tồi tệ như
ngày hôm nay. Khi ngụy sử không thuyết phục
được họ, th́ kư ức của các bậc
cha ông c̣n sống sót sẽ đóng vai tṛ ǵ? Kư
ức chiến cuộc nhạt nhoà T́nh
yêu về dĩ văng vốn bẩm sinh trong tâm hồn
người Việt; họ thích ôm ấp kỷ
niệm trong mơ hồ và không muốn dùng ngôn
ngữ để diễn đạt những cảm xúc
trân qúy. Kư ức là nhớ lại; một người
không có trí nhớ là một người không c̣n
bản sắc riêng. Nhưng ngược lại
với kư ức là quên lăng; ai phải dồn ép quá
khứ, thường là người không b́nh thường
và hoặc sẽ mang bịnh ức chế. Một người
trưởng thành không có kư ức sẽ măi là
một trẻ con. Kư
ức tập thể theo Maurice Halbwach quan trọng
hơn. Nó vượt qua khuôn khổ kinh nghiệm
sống của một cá nhân, hằn sâu, tiêm
nhiễm vào một tầng lớp xă hội, một
thế hệ trong một giai đoạn của dân
tộc và tạo thành bản sắc chung. Một dân
tộc không có kư ức lịch sử cũng là
một dân tộc chưa trưởng thành. Khi
xưa, Tản Đà có than thở "Dân hai lăm
triệu, ai người lớn?, Nước bốn ngh́n
măm vẫn trẻ con." Lời thơ ai oán
được truyền tụng như một lời
cảnh tỉnh về t́nh trạng dân trí trong
thời Pháp thuộc. Trong chiến tranh, Trịnh Công
Sơn cũng đă nhắc nhiều đến thân
phận đất nước, nhưng thê thiết
nhất là “Ôi, đất nước u mê ngàn
năm“. Điều ngạc nhiên là cả hai danh tài
này sống trong hai thế hệ cách biệt nhau, nhưng
lại cùng một tâm trạng, dù không hề quan tâm
đến chính sử và kư ức. Nhưng
làm sống lại kư ức không dễ, v́ có một
cái ǵ đó thiếu b́nh thường mà có quá
nhiều thí dụ làm cho chúng ta ngạc nhiên. Thứ
nhất, nhân
ngày 30 tháng 4 mà nhân dân thủ đô Hà Nội kéo băng
và biểu ngữ với nội dung "Hân Hoan Chào
Mừng Ngày Giải Phóng Thủ Đô". Vô
ư hay là trớ trêu trong một kư ức nhạt nhoà?
Không ai biết. Thứ
hai, ngược
lại, nhân ngày này mà một số người
Việt hải ngoại cũng có tổ chức "Ngày
Diễn Hành Cho Tự Do". V́ là buổi diễn
hành nên ít có thuyết tŕnh về ư nghĩa trọng
đại về một ngày lịch sử của
đất nước để người tham
dự cảm thấy có trách nhiệm hơn đối
với những hậu quả của ngày này. V́
tự do hoài niệm mà đôi khi cũng có nhiều nơi
c̣n có kết hợp với lễ Lao Động
với dạ tiệc và khiêu vũ thâu đêm là chính.
Đó là sáng kiến giải trí cuối tuần kéo dài
trong hoàn cảnh mới, nên không đem lại một
âm vang tưởng niệm nào trong đau buồn,
nhớ những nguời nằm xuống và người
trốn chạy. Thứ
ba là
chuyện không có quyền công khai tưởng niệm
những người nằm xuống trong chiến tranh
biên giới Trung - Việt. Khơi động kư
ức lại cần có ư kiến chỉ đạo?
Hồi sinh kư ức càng thêm chua chát khi lănh đạo
hân hoan đón tiếp lănh đạo bạn để
cùng "Thành Kính Tưởng Niệm Các Liệt sĩ
Trung Quốc Hy Sinh V́ Chính Nghĩa" trong Tiết
Thanh Minh, một việc làm đúng theo chính sách đề
ra. C̣n
nhớ về Ngày Hoàng Sa và Trường Sa lại càng
khó hơn, cụ thể nhất là vụ thảm sát
Gạc Ma. Trước đây binh sĩ không được
phép chống trả với Trung Quốc nên đem
lại một cái chết tập thể; chính
quyền luôn che dấu sự thật và nay lại không
cho phép tưởng niệm và ghi công và không nêu tên
kẻ thù, đó là một hành vi xoá bỏ kư ức
có định hướng. Những
người chiến đấu c̣n sống không
được tri ân, đăi ngộ và chỉ c̣n âm
thầm xót thương cho đời nhau. Họ cũng
bất hạnh giống như các cựu chiến binh
Mỹ, làm điều vô ích cho kẻ vô ơn và
cuối cùng lại chứng kiến trớ trêu
của lịch sử mà đó lại là định
mệnh của ḿnh. Thứ
tư là
chuyện những người di tản buồn
lại càng buồn hơn, khi phải nhớ tới
những thuyền nhân qua cơn phong ba bảo táp, chưa
hưởng được tự do và cuối cùng
phải yên nghỉ nơi đảo vắng xứ người.
Trùng tu mộ phần đă khó, sơn tặng cho
họ một lá cờ trên mộ phần và lập
đài tưởng niệm trên các đảo cũng
bị nhà nước CSVN t́m cách áp lực ngoại
giao nên không được phép. Thân nhân cũng đành
khép lại quá khứ theo chính sách. Thứ
năm là
vấn đề gọi tên kư ức. Thảm sát hay
chiến thắng Mậu Thân? Định danh kư ức
cũng cần thảo luận như gọi tên cho
cuộc chiến. “Chống Mỹ xâm lược“ mà
hơn 5000 ngàn thường dân Việt và vài ân nhân
người Đức phải chết oan uổng, th́
không thể nào gọi là thắng lợi huy hoàng và có
thể giải thích thuần lư. Những
hung thủ c̣n sống sót cũng không đủ can
đảm đính chánh về cáo giác của các nhân
chứng trong “Giải Khăn Sô Cho Huế“. Dù
tai họ c̣n nghe và mắt họ c̣n thấy phản
ứng của nạn nhân khác c̣n sống, nhưng khác
với Hitler đă tự xử, hung thủ yên tâm hơn
để nghiên cứu về Huế học, mà họ
quên đi đối tượng nghiên cứu khẩn
thiết nhất của Huế học là làm sáng
tỏ việc tàn sát. Tên tuổi và hành vi của
họ vẫn bị ràng buộc với lương tâm
và lịch sử. Chúng
ta là có vô số kư ức cá nhân có giá trị
lịch sử: Giải Khăn Sô Cho Huế, Muà Hè
Đỏ Lửa, Dấu Binh Lửa, Đường
Đi Không Đến, Xương Trắng Trường
Sơn, Thiên Đường Mù, Nổi Buồn
Chiến Tranh và Đèn Cù là những thi
dụ chính. V́ là tự truyện cá nhân nên có sự
đăi lọc nhất định theo ư nghĩ cảm
nhận và tùy theo cái gọi là lieux de mémoire
của tác giả (các địa điểm liên
hệ tới biến cố xăy ra để trở thành
kư ức, một khái niệm của Pierre Nora).
Thực ra, nhân chứng lưu giữ kư ức, họ
chỉ là một người sống trong những
biến cố kinh hoàng trong lịch sử, mà họ không
hiểu tại sao, không lường đoán được
hậu quả và giải thích các tầm mức
phức tạp của diễn biến. Do
đó, chúng ta cần có sử gia, v́ kư ức cần
khách quan hoá theo phương pháp sử học, một
tiến tŕnh đến sau và có chọn lọc.
Sử gia đối thoại với nhân chứng, v́
nhân chứng biết rơ hơn các biến cố.
Họ diễn dịch, sưu tầm và biên tập
theo một hệ thống nhất định thành
một loại đề tài chung. Dù
kư ức về chiến cuộc nhạt nhoà, nhân
chứng lần lượt ra đi, quá ít sử gia chân
chính, nhưng lịch sử không thể nguy tạo kư
ức. Chính kư ức làm nên lịch sử. Kư ức
không phải là vấn đề riêng của sử
gia. Lịch sử không thuộc về sử gia, mà cho
tất cả những người có liên quan và có
tinh thần trách nhiệm. Những người đứng
ra tổ chức các lễ tưởng niệm với
các phương tiện truyền thông hiện đại
cũng là một thí dụ. Các
buổi lễ truy điệu, báo chí, sách vở
sẽ làm sống lại các kư ức tập thể.
Những h́nh thức nghi lễ “hoành tráng“ của
phe thắng cuộc không mang nhiều ư nghĩa đích
thực để t́m ra bản chất của tưởng
niệm. Những đề tài thảo luận nghiêm
chỉnh về ư nghĩa của tưởng niệm là
quan trọng hơn. Nhờ
thế, chúng ta viết lại lịch sử bằng cách
khám phá những sự dị biệt trong kư ức
với tinh thần trách nhiệm. Kư ức dị
biệt của cá nhân là một phương tiện
thông đạt dùng trong sinh hoạt hằng ngày khi
thảo luận về những biến cố lịch
sử. Ngược lại, kư ức tập thể là
một sản phẩm xă hội, đẩy mạnh
cho việc h́nh thành một bản sắc văn hoá dân
tộc. Nhưng biết t́m đâu bản sắc văn
hoá truyền thống của dân tộc Việt? Bản
sắc dân tộc tàn phai Dù
là gọi là đất nước hay dân tộc cũng
chỉ là một. Dân tộc là một ngôi nhà chung
chứa đựng một linh hồn chung. Hồn thiêng
này có hai phần: phần một nằm trong quá
khứ, là một di sản thuộc toàn dân và kư
ức lịch sử là một thành phần. Phần
hai nằm trong hiện tại. Đó là tinh thần
đồng thuận, cùng ước mơ chung sống
để phát triển và lưu truyền giá trị
của một di sản không thể phân chia. Khái
niệm dân tộc này của Ernest Renan không
phải là chủ nghiă dân tộc đă bị lạm
dụng quá nhiều trong quá khứ. Bản
sắc văn hóa dân tộc gồm các đặc tính
được duy tŕ trong quá tŕnh của lịch
sử và được kết tinh thành những
biểu tượng để phân biệt với các
dân tộc khác. Nó tạo thành những chuẩn
mực giá trị cho xă hội và thể hiện tâm lư
dân tộc mà các kư ức văn hoá là thí dụ. Kư
ức văn hoá theo Jan Assman gồm có việc
sử dụng chính sử, tự truyện, h́nh
ảnh và nghi lễ đặc biệt cho một xă
hội trong một thời kỳ; mọi sự vun
bồi này sẽ tạo nên một h́nh ảnh chung cho
bản sắc dân tộc. Nhờ thế mà chúng ta có
thể hiểu được giá trị truyền
thống. Chúng
ta có thói quen ca ngợi bản sắc dân tộc và
đơn giản hoá vấn đề, nhưng kỳ
thực, bản sắc cá nhân phức tạp, v́
dựa vào hoàn cảnh và điều kiện xă
hội địa phương, thuộc về một
thế hệ nhất định, một tôn giáo,
một đoàn thể nghề nghiệp và tŕnh độ
giáo dục nào đó. Bản sắc thay đổi liên
tục trong suốt cuộc đời qua những
biến cố của riêng ḿnh. Mô
tả về bản sắc đất nước càng
khó hơn v́ theo ḍng lịch sử, có quá
nhiều biến chuyển sẽ thay thế cho các kư
ức cũ phai mờ, tạo thành những bản
sắc mới. Tùy theo thời điểm hay địa
điểm mà bản sắc đất nước có
thể tiến hay thoái hoá. Các thay đổi về giá
trị qua từng thế hệ kết hợp nhau trong
liên tục và tái tạo. Trong
một thời kỳ dài đấu tranh, Đảng
đă bao nhiêu lần nói là "thống nhất
đất nước ta sẽ xây dựng lại ngàn
lần tươi đẹp hơn". Nhưng
chiến thắng năm 1975 cho phép Đảng có lư do
tự phong một bản sắc mới là "trung
tâm phẩm giá của loài người và lương
tâm của thời đại". Bản sắc cường
điệu này không thuộc truyền thống chân thành
của dân tộc. Đảng đă không thể trau
dồi bản sắc, và chiến thắng không đem
lại tự do và cơm áo cho toàn thể dân chúng
trong thời b́nh.
Dù
thành tựu đổi mới kinh tế có đem
lại cho sung túc cho một thiểu số, nhưng
Đảng không thể nâng cao bản sắc văn hoá
v́ giáo dục xuống cấp, đạo đức
suy đồi, thờ ơ của dân chúng và gương
xấu của chính quyền là trở lực. T́m
lại bản sắc dân tộc đă đánh mất
là điều không thể thực hiện được
trước mắt, v́ thành tựu của các biện
pháp cải cách giáo dục và nâng cao đạo đức
không thể là kết quả dễ được t́m
thấy trong một sớm một chiều. Đă
đến lúc đất nước cần có bản
sắc mới như là một vai tṛ kết nối,
một khái niệm và một thành tố để xây
dựng lịch sử. Nhưng làm sao nối kết
những kư ức văn hoá dị biệt trong bối
cảnh hiện nay. Thực ra, không ai có đủ
viễn kiến để tiên đoán chuyện lư
thuyết. Nhưng
sử gia không c̣n đi t́m những giá trị
biểu tượng xa xưa, v́ các biến động
mới có những giá trị làm cho lịch sử
độc đáo hơn. Họ dùng ngày 30 tháng 4 năm
1975 làm một phương tiện nhằm tạo ra
huyền thoại chính trị duy nhất cho khởi
điểm mới về kư ức lịch sử
cận đại. Với 40 năm trôi qua, thời gian
lắng đọng để họ cùng t́m hiểu
về ư nghĩa của ngày 30 tháng 4. Do đó,
giải ảo về nội dung ngày này cần
được đặt ra. Phản
tỉnh về ư nghĩa của ngày 30 tháng 4 năm
1975 Ngày
30 tháng 4 năm 2015 là một ngày để chúng ta
nhớ về ngày 30 tháng 4 năm 1975 và t́m hiểu
những ǵ mà dân tộc đă sống trong 40 năm
qua. Bằng kinh nghiệm sống với chế độ,
với các sử liệu mới, lư trí khách quan và
tự do phê phán giúp cho chúng ta nhận ra sự
thật. Sự thật sẽ giải phóng cho chúng ta. Ngày
30 tháng 4 năm 1975 là biểu tượng khởi
đầu cho một tiến tŕnh tương phản
phức tạp. Giá trị biểu tượng của
ngày này là một nghịch lư bi đát. Chiến tranh
kết thúc giải phóng cho tất cả mọi người
trong mọi hoàn cảnh, nhưng không phải chỉ là
vinh quang mà c̣n là tủi nhục; ngày miền Nam thoát
khỏi chiến tranh cũng là ngày mà miền Bắc
hiểu rơ hơn thế nào là giải phóng và hy sinh
cho chính nghĩa. Cả nước vừa được
giải phóng lại vừa bị hủy diệt trong
một hoàn cảnh mới, không phải chỉ là
thiệt hại vật chất mà c̣n là tinh thần,
một vấn đề bản sắc. Dĩ
nhiên, chúng ta phải chấp nhận những ǵ đă
xảy ra vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, v́ không thể
thay đổi được, dù c̣n bị ảnh hưởng
hậu quả cho đến hiện nay. Chúng ta không
thể tách rời ngày 30 tháng 4 năm 1975 với ngày
3 tháng 2 năm 1930, ngày thành lập ĐCSVN, đó là
một nguyên nhân khởi đầu mọi thay đổi
trong các trang sử Việt. Với
ư thức phản tỉnh chúng ta có thể nói cho nhau
hôm nay về ư nghĩa đích thực của ngày 30
tháng 4 là đây là một ngày toàn thắng trong
tiến tŕnh cướp chính quyền của ĐCSVN
và là một ngày đại bại của toàn dân
tộc Việt. V́ sao? V́
nh́n lại quá khứ của công cuộc tiến nhanh
tiến mạnh lên XHCN chúng ta chỉ thấy một bóng
tối kinh hoàng. Đó là các biện pháp truất
hữu ruộng đất, ngăn sông cấm chợ,
đánh tư sản mại bản, bài trừ văn
hoá đồi trụy, thanh niên xung phong, kinh tế
mới và học tập cải tạo. Theo sau là
thảm kịch thuyền nhân, chiến tranh Tây Nam và
phiá Bắc. Cuối cùng là kinh tế kiệt quệ
để rồi ĐCSVN phải chịu có biện pháp
xé rào và đối mới để nuôi dưỡng
chế độ. Với
một cơ hội mới và tiềm năng cao để
tái thiết hậu chiến và hàn gắn vết thương
chiến tranh, nhưng đến năm 2015 mà Việt
Nam c̣n tụt hậu thua Lào về canh tân công
nghiệp, tŕnh độ phát triển dân chủ kém hơn
Campuchia, cạnh tranh kinh tế suy yếu hơn Hàn
quốc, phát minh khoa học thua xa Thái Lan, năng
lực lao động thấp nhất trong khu vực,
nhưng t́nh trạng vi phạm nhân quyền và bất
công xă hội lại là trầm trọng nhất. V́
nh́n về tương lai chúng ta càng lo sợ hơn v́
không biết đất nước và con người
sẽ đi về đâu. Chủ nghĩa tư
bản thân tộc tạo ra một xă hội thị
trường hỗn loạn trong một nhà nước
sơ khai là nguyên nhân, mà tham nhũng lên ngôi thượng
đỉnh, đạo đức suy sụp tận
đáy, giáo dục băng hoại và môi sinh cạn
kiệt là hậu qủa. Trong khi hiểm hoạ
Bắc thuộc là hiện thực, th́ bất ổn cá
nhân, bất trắc kinh tế và bất công xă
hội vẫn c̣n kéo dài. Tóm
lại, chúng ta có các lư do chính đáng để không
hân hoan tham gia mừng lễ kỷ niệm chiến
thắng, nhưng cần giúp đỡ nhau để có
ư thức phản tỉnh về ư nghĩa tưởng
niệm, hoà giải và tỉnh thức trong ngày 30 tháng
4. Nhờ thế, chúng ta sẽ thấy có trách
nhiệm hơn đối với những hậu
quả của ngày này trong tương lai. Ngày
tưởng niệm Hồi
tưởng thuộc về một phần trong đời
sống tâm linh của chúng ta. Ai đă sống trong ngày
30 tháng 4 với đầy đủ ư thức và
nhận xét, th́ cũng tự hỏi là ngày này ḿnh làm
ǵ và ở đâu và sự ràng buộc của ḿnh
trong biến cố này. Ngày
30 tháng 4 là một ngày để chúng ta tưởng
niệm về tất cả những người quá
cố của hai miền, những người đă
tin là ḿnh chiến đấu cho chính nghĩa của
đất nước. Chúng ta không thể quên họ
và cầu mong họ siêu thoát. Đau đớn
nhất là các chiến sĩ giải phóng quân; bây
giờ họ không c̣n cơ hội để nhận
ra rằng họ đă bị phản bội; tất
cả công lao của họ là vô ích và vô nghĩa; cái
chết của họ chỉ là phục vụ cho các
mục tiêu cướp chính quyền của giới lănh
đạo vô nhân đạo. Chúng
ta sống trong gọng kềm của lịch sử dân
tộc và là nạn nhân phải hy sinh cho quyền
lợi của giới lănh đạo. Cả một dân
tộc không ai có tội cá nhân; không ai có tội
với lịch sử. Có tội ít hay nhiều chỉ
có thể quy kết cho tập thể lănh đạo,
v́ họ thiếu trí tuệ và thiếu bản lănh;
họ chỉ phục vụ cho ngoại bang, chủ nghĩa
phi dân tộc và không t́m cách tiết kiệm máu xương. Chúng
ta cũng hoài niệm về những nổi đau
khổ của thân nhân c̣n sống; đặc biệt
là nữ giới, đau khổ v́ sự mất mát
về tất cả những ǵ không thể giữ
được từ vật chất cho đến tinh
thần. Đó là đau khổ qua bị thương
tổn và tật nguyền, đau khổ v́ buộc
phải chịu mất tài sàn, mất người thân
yêu, mất nhân phẩm, cảm xúc bị tổn thương,
cưỡng bức lao động, bất công nghiêm
trọng và tra tấn dă man, đói khổ, giam cầm
và trốn chạy. Ngày
hoà giải Ngày
30 tháng 4 là ngày mà chúng ta không những tưởng
niệm cho những người nằm xuống mà c̣n
muốn ḥa giải giữa người Việt c̣n
sống với nhau. Chúng ta t́m kiếm ḥa giải, nhưng
không thể ḥa giải với những người
đă nằm xuống và những người không c̣n
kư ức. Số phận chung của dân tộc liên
kết chúng ta với nhau thành một định
mệnh chung trong ước muốn chung sống trong ḥa
b́nh và thịnh vượng. Trong
đời sống hằng ngày, người Việt
chỉ muốn sống an vui trong hiện tại và không
muốn nhớ những chuyện vô nhân đạo
trong quá khứ. Chúng ta chấp nhận và chịu
đựng sự khắc nghiệt do số phận an
bài, đó là chuyện tinh thần được
đặt ra bên cạnh các nhiệm vụ khác. Nhưng
ngày 30 tháng 4 là một vết rạch hằn sâu trong
lịch sử cho toàn thể, nên có một nghịch lư
xảy ra, người Việt có tinh thần hồi tưởng
và sẽ luôn hồi tưởng khi có cơ hội.
Bốn mươi năm sau khi kết thúc chiến
tranh, dân Việt vẫn c̣n bị phân chia. Chúng ta
cảm thấy chưa thuộc về nhau bởi v́ chúng
ta đă sống và nghĩ không cùng trong một
nhận thức về quan điểm đấu tranh.
Đó là một gánh nặng trong lịch sử mà chúng
ta vẫn c̣n bị mang ít nhiều tổn thương. Làm
sao chúng ta có thể xoá bỏ vết hằn khôn nguôi
nếu không có hoà giải? Thực ra, kinh nghiệm
quốc tế cho thấy hoà giải không chỉ là
tha thứ của nạn nhân về sai trái của
thủ phạm, mà c̣n là một đồng thuận
giá trị về chính trị. Đầu hàng là
một thay đổi thái độ của phe thua
cuộc trước phe thắng cuộc, một quyết
định hợp lư của lư trí của phe thua
cuộc và cần được thể chế chính
trị của phe thắng cuộc bảo vệ. Vai tṛ
luật pháp là điều kiện thể chế
tiên quyết để bảo vệ họ. Khuôn
khổ cho hoà giải là b́nh đẳng trước
pháp luật, thực thi dân chủ, tôn trọng nhân
quyền và dân quyền của phe thắng cuộc. Sự
đồng t́nh của cả hai phe sẽ đem
lại ư nghiă chung sống. Đó là một khuôn
khổ xây dựng lại mối quan hệ và
niềm tin cho xă hội và tạo lập một
cộng đồng cho tương lai. Dầu
bối cảnh tranh chấp khác nhau, các nước Nam
Phi, Nam Tư củ, Bắc Ái Nhĩ Lan, Sierra Leone, El
Salvador, Guatemala và Rwanda đă t́m ra một căn
bản đồng thuận cho tiến tŕnh hoà
giải, mà đạo đức là mục tiêu và
luật pháp là phương tiện. V́ say men chiến
thắng mà kinh nghiệm hoà giải chính trị
hậu xung đột không là vấn đề quan
trọng để Việt Nam quan tâm học tập,
cải tạo tập trung là trường hợp minh
chứng ngược lại. Sau
ngày Đổi Mới, Việt Nam khởi đầu
tiến tŕnh hoà giải chính trị bằng Nghị
Quyết để nhằm thu hút tài năng trí
tuệ và đóng góp tài chánh. Nghị Quyết không
đề ra sư tương thuận của phe thua
cuộc; khuôn khổ pháp luật làm nền tảng và
tinh thần đạo đức dân tộc làm
nội dung cho hoà giải cũng không có. Việt Nam
chỉ đo thành tựu Nghị Quyết bằng lượng
kiều hối, du lịch và giao lưu văn nghệ
trong ngoài. Hoà giải loại này không đem lại
một niềm tin chung hướng về tương
lai. Trong
nỗ lực hoà giải có một thử thách chung
cho hai phía. Sẵn ḷng ḥa giải phải phát sinh
từ trong nội tâm và do ngoại cảnh, không
phải là vấn đề mà phe thắng cuộc
đ̣i hỏi nơi phe thua cuộc theo tinh thần
Nghị Quyết, nhưng là tự nội tâm của
mỗi phe đ̣i hỏi nơi chính ḿnh, đó là
khởi điểm quan trọng nhất. Cụ
thể là liệu phe thắng cuộc có thể
thực sự tự đặt ḿnh trong hoàn cảnh
của phe thua cuộc đựợc không hay phe thua
cuộc có tin tưởng vào thành tâm hoà giải
của phe thắng cuộc được không?
Liệu Nghị Quyết một chiều có phải là
một cơ sở ràng buộc nhau không? Cả hai
phải nhận ra những gánh nặng của nhau, xem
có chịu đựng nhau không và có quên quá khứ
được không? Cả
hai phe làm ǵ trong tiến tŕnh này? Chủ yếu là phe
thắng cuộc cần có ư thức hơn để
t́m lại nguyện vọng trung thực của phe thua
cuộc; thay v́ diễn binh mừng chiến thắng
chỉ khơi động lại ḷng thù nghịch, phe
thắng cuộc nên can đảm hơn là đem tàu
ngầm hiện đại ra biển Đông để
bày tỏ quyết tâm trước Trung Quốc, phô trương
này sẽ gây tác động hoà giải dân tộc cao
hơn. Thay v́ ngăn cản tưởng niệm, nên
thành tâm bày tỏ thương tiếc những người
của hai phiá đă hy sinh bằng cách xây một tượng
đài chung, một h́nh thức tỉnh ngộ về
sự lầm lạc chung của cả dân tộc trong
cả một giai đoạn lịch sử. Họ nên
đăi ngộ người đóng góp c̣n sống,
một h́nh thức xoa dịu thương đau xă
hội; nỗ lực hoà giải với người
đối kháng và trực tiếp đối thoại
trong tinh thần dân chủ là thực tế hơn, v́
không phải ai có quan điểm đối lập chính
trị với chính quyền cũng đều là
những phần tử suy thoái đạo đức và
phản động. Phe
thua cuộc cũng cần có nhận định nghiêm
chỉnh hơn về ư nghĩa cao cả của tha
thứ. Tha thứ là t́m hiểu và mến yêu người
sai phạm. Hiểu nhau là v́ đă t́m thấy lại
nhau trong một quá khứ chung lầm lạc. Yêu
mến nhau là v́ cùng có một số phận và ư chí
chung sống để xây dựng tương lai đất
nước.Thực tế ngược lại. Một
số không nhỏ của phe thua cuộc tự
nguyện t́m đến phe thắng cuộc v́
những bả lợi danh cuối đời, những
lạc thú do những chênh lệch giá cả tại quê
nhà, ngay cả những hạnh phúc thoáng qua như
tiếng c̣i hụ đưa đón. Đó là một
sự sĩ nhục mà một số trong phe thua
cuộc tự tạo ra, v́ trong khi cho đến ngày hôm
nay, vẫn c̣n có rất nhiều người khả kính,
can trường và liêm chính trong chiến bại. Tương
lai của hoà giải không ai biết được,
nhưng khởi động một trào lưu nhận
thức mới về tinh thần hoả giải là
khẩn thiết, v́ các thế hệ tham chiến
sẽ lần lượt ra đi và các thế hệ
nối tiếp sẽ không đủ quan tâm để
giải quyết. Ngày
tỉnh thức Ngày
30 tháng 4 năm 2015 bắt đầu một chương
mới trong lịch sử Việt Nam và một thế
hệ mới đang trưởng thành. Giới
trẻ không có các kư ức dị biệt và không
chịu trách nhiệm về những ǵ đă xảy
ra trong quá khứ, nhưng họ đang và sẽ có trách
nhiệm đối với những ǵ sẽ trở thành
lịch sử. Họ sẽ đóng một vai tṛ chính
về số phận của con người, đất
nước và dân tộc trong khoảng thời gian
bốn mươi năm tới. Nhưng ngày 30 tháng 4
năm 1975 lại có ư nghĩa tỉnh thức v́ kư
ức cá nhân kéo dài chỉ trong bốn mươi năm.
Nếu kư ức phai nhạt th́ những ǵ quan
trọng khác c̣n lại cũng không c̣n ư nghĩa.
Thế hệ tham chiến cần giúp cho giới
trẻ hậu chiến t́m hiểu về sự
thật của lịch sử, không thiên vị theo ư
thức hệ, trốn chạy trách nhiệm và nhân
danh đạo đức. Đâu là giá trị
tỉnh thức trong ngày 30 tháng 4? Chúng
ta cần can đảm để nói cho thế hệ
hôm nay biết là hiện t́nh Việt Nam là đang
bị nguy cơ hơn bao giờ hết; v́ về
mặt nội trị có quá nhiều bất ổn mà
vẹn toàn lănh thổ, tham nhũng và nợ công là chính;
về mặt đối ngoại có quá nhiều
tổn thương, v́ lănh đạo đặt
quyền lợi Trung Quốc và quyền lợi riêng lên
trên quyền lợi của dân tộc là chính; nay
lại hy vọng là Hoa Kỳ đoái thương dân
Việt. Nhưng thực tế, Hoa Kỳ sẽ không có
phép lạ nào để biến đổi nội t́nh
Việt Nam hôm nay và sẽ không là một lá chắn
an toàn cho Việt Nam mai sau. Mỹ đủ thông minh
để không bao giờ chống Trung Quốc cho đến
xương máu của người Mỹ cuối cùng
thay cho Việt Nam, như miền Bắc Việt Nam
đă hănh diện chống Mỹ thay cho Trung Quốc
trong quá khứ. Do
đó, giới trẻ nên tỉnh thức để tránh
lầm lạc của bậc cha ông. Đó là do
khuấy động các ư thức hệ đối
nghịch, hận thù lầm lạc và gian dối
lẫn nhau mà Việt Nam đă có chiến tranh. Do
bất tài, bất xứng và bội t́nh mà thế
hệ cha ông đă không để lại được
một non sông gấm vóc cho con cháu thừa hưởng;
“Gia tài của mẹ, một nuớc Việt
buồn“, nếu nói theo nhạc của Trịnh Công
Sơn. Từ
tỉnh thức này mà giới trẻ sẽ lưu
truyền các kư ức lịch sử và không để
bị lôi cuốn vào những hận thù và chống
đối nhau, mà cố gắng liên tục học
hỏi để t́m cách chung sống với nhau trong t́nh
hiếu hoà và nhất là sẽ có ư thức trách
nhiệm nhiều hơn cho tương lai đất nước.
Thế
hệ hậu chiến và tương lai Ngày
30 tháng 4 năm 2015 đánh dấu một ngày khởi
đầu cho thế hệ hậu chiến trưởng
thành. Họ có trách nhiệm chính trị cho đất
nước trong thời kỳ mới. Nhưng họ
phải nghĩ ǵ và làm ǵ để canh tân đất
nước và t́m lại độc lập cho dân
tộc? Nghĩ
ǵ? Thách thức vô cùng to lớn khi thế hệ
hậu chiến cần có nhiều ư thức và kinh
nghiệm hơn để đảm nhiệm trọng
trách này. Đó là vấn đề c̣n mở rộng
để tranh luận, nhưng họ có bốn khó khăn
chính. Một
là, họ không
kế thừa một phương sách khả thi nào.
Đảng đă không thể lư giải được
cơ chế Kinh tế Thị trường và Nhà nước
Pháp quyền theo định hướng XHCH là ǵ.
Đảng cũng tự nhận là đă theo một
đường lối không có cho đất nước.
V́ nhận hư thành thực cho nên Đảng cũng
không thể hoàn thiện đường lối này
cho đến cuối thế kỷ XXI. Nhưng Đảng
sẽ vượt qua các chống đối bằng cách
dùng bạo lực đàn áp để duy tŕ chế
độ, một bất hạnh cho toàn dân. Hai
là, họ không
thể phát huy các kinh nghiệm cuả bậc cha ông. Các
kinh nghiệm của Cách Mạng Tháng Tám và Đại
Thắng Mùa Xuân không c̣n phù hợp với trào lưu
đấu tranh bất bạo động cho Việt
Nam, mà đó là một giải pháp tương ứng
khả thi. Thành quả cuả Cách Mạng Đông Âu,
Đông Đức, Miến Điện và Muà Xuân Á
Rập là những bài học mới thích hợp hơn,
nhưng họ chưa thể huy động được
dân chúng v́ thái độ vô cảm chính trị
của đa số. Ba
là, họ không
thể hy vọng là được Đảng
chuyển giao quyền lực cho dù họ có khả năng
và tâm huyết, v́ thân tộc của lănh đạo c̣n
vây quanh. Trong một xă hội thị trường
đang thay đổi hỗn loạn, họ không
thể tiên đoán được là đổi
mới chính trị sẽ h́nh thành như thế nào.
Tất cả đều tuỳ thuộc vào một
số quan niệm về tương lai, những cách
đánh giá khác nhau về ư nghĩa của xu hướng
hiện nay và về các chuẩn mực để
giải quyết các khác biệt, thí dụ như vi
phạm nhân quyền và tự do báo chí. Bốn
là điều
kiện ư thức về truyền thống lịch
sử và chuyển hoá chính trị. Từ thắng
lợi của việc cướp chính quyền mà
Đảng tự hào về thành tích làm nên "Ư
nghĩa Lịch sử" cho dân tộc. Nhưng ư nghĩa
lịch sử này không phải là những ǵ đă
được Đảng tuyên bố, mà giới
trẻ cần khám phá lại. Nhu cầu giải
ảo ngụy sử và niềm tin về tương
lai dân chủ cần đến các điều
kiện trí thức. Đó là kiến thức và ư
thức về chính sử và dân chủ, để
từ đó làm cơ sở cho tinh thần xây
dựng. Kiến thức là khởi điểm cho ư
thức và có kiến thức th́ mới có ư thức
để xây dựng một ư chí chung sống. Tuy
nhiên, thực tế bi quan hơn, v́ sử học và
kinh tế chính trị học không c̣n thu hút giới
trẻ, một môn mà người học không muốn
học và người dạy không muốn dạy.
Sự tụt hậu là do một hệ thống giáo
dục gian dối và ngụy sử làm mất niềm
tin về giá trị cuả toàn xă hội qua nhiều
thế hệ. Ư
thức về lịch sử và dân chủ do đào
tạo mà ra, có tính thuần lư v́ do lư trí hướng
dẫn và được đăi lọc qua thời
gian. Học chính sử giúp giới trẻ lư luận
và phán đoán về sự thật của lịch
sử. Ư thức về lịch sử sẽ tạo nên
một thái độ chung đối với lịch
sử, một khả năng để giải ảo,
một loại trách nhiệm cá nhân đối với
xă hội và có t́nh cảm dân tộc. Do
đó, hy vọng c̣n lại là giới trẻ sẽ
phát huy tinh thần t́m hiểu và mến yêu lịch
sử và giá trị của dân chủ. Sự thật
lịch sử sẽ là bước khởi đầu
và giới trẻ phải t́m kiếm sự thật
giữa ḍng lịch sử. Giới trẻ có thể
so sánh lịch sử tương lai như một ḍng
sông, nhưng các ḍng nước sẽ luôn biến
đổi mà họ đang khởi đầu bơi
lội và cũng không biết đi về đâu, như
một câu nói quen thuộc là "Người ta không
thể tắm hai lần trong cùng một ḍng sông".
Nhưng có ư thức lịch sử và dám dấn
thân làm lại lịch sử cho dân tộc là một
hy vọng khởi đầu. Làm
ǵ? Giới trẻ cần thảo luận để
nhận ra điều kiện đem lại hoà b́nh và
thịnh vượng cho đất nước. Mọi
vấn đề hiện nay có thể sẽ được
giải quyết được một phần nào khi
có sức mạnh dân tộc mà sự hiểu biết
của toàn dân, đồng thuận chính trị, và
quyết tâm chuyển hướng là chính và đường
lối thực tiễn là thay đổi hiến pháp dân
chủ, nâng cao đạo đức và giáo dục, tăng
trưởng kinh tế, tôn trọng trí thức và pháp
luật, thực thi nhân quyền và dân quyền và
bảo vệ thiên nhiên. Nhưng sự hợp tác
về một chính sách ngoại giao Trung-Việt ổn
định và tương kính là khả thi, khi
Việt Nam đủ khả năng chứng
tỏ là một người bạn đối tác
đích thực b́nh đẳng và không phải
chỉ bằng ngôn ngữ bóng bẩy như hiện
nay. Với nỗ lực của nhiều thế
hệ, chúng ta hy vọng là Việt Nam sẽ đạt
được một phần nào những mục tiêu
này. Việt Nam sẽ đi về đâu? Không ai biết rơ, nhưng chắc một điều là đất nước dù năng động đến đâu đi nữa, th́ Đảng cũng sẽ không c̣n phép lạ khi Đảng không tự chuyển hoá. Thế hệ hậu chiến không cần có một lư tưởng cầu toàn để canh tân đất nước, một ảo tưởng trí thức để thăng hoa bản sắc văn hoá hay các biện pháp xé rào để cứu Đảng, mà cần nhất là có một ư thức bừng tỉnh về sự tồn vong của dân tộc. |