Thay lời
tựa: Là một
cựu uỷ viên Hội đồng Đại
diện Công nhân Xí nghiệp từ năm 2004 đến
năm 2010 trong hăng AO, tôi ghi lại những nét chính
về cơ cấu tổ chức, quyền hạn và
trách nhiệm của nó.
Trước
hết chúng ta nên biết rằng Hội đồng Đại diện Công nhân Xí
nghiệp (HĐĐDCNXN) tiếng Đức gọi là
Betriebsrat khác với Nghiệp đoàn Công nhân, gọi
tắt là Công đoàn (Gewerkschaft). HĐĐDCNXN đóng
vai tṛ khá quan trọng trong hăng xưởng, bảo
vệ trực tiếp quyền lợi của công nhân
và được luật pháp quy định minh
bạch. Hội đồng nầy cũng có thể
được tổ chức trong các hăng xưởng
ở một số quốc gia khác, tuy nhiên mức
độ bảo vệ quyền lợi người công
nhân nhiều hay ít c̣n tuỳ thuộc ở mỗi
quốc gia.
Mong
rằng trong tương lai tại Việt Nam ở các
hăng xưởng cũng nên tổ chức HĐĐDCNXN
để quyền lợi của công nhân được
bảo vệ và từ đó công nhân sẽ hăng
say làm việc và góp phần vào việc phát triển
kinh tế bền vững.
1) Dẫn
nhập:
Trong nền
kinh tế thị trường tự do cạnh tranh hoàn
toàn chính quyền cũng như doanh nhân, chủ nhân
thường chú ư đến "định
luật cung cầu" để có những
biện pháp thích hợp nhằm mục đích ổn
định nền kinh tế.
Khi cầu > cung: Tiêu thụ
nhiều mà hàng hoá ít sẽ đưa đến
việc khuyến khích đầu tư và tạo công
ăn việc làm.
Khi cầu < cung: Giá cả rẻ, giảm nhân công.
Như vậy phải t́m thị trường tiêu
thụ.
Khi cầu = cung: Có 3 trường hợp xảy ra:
a) Kinh tế phát triển:
Đó là lư tưởng, dân giàu nước mạnh
b) Kinh tế suy bại: Đưa đến t́nh
trạng nghèo đói
c) Kinh tế trung b́nh: Dân chúng đủ ăn, đủ
mặc
(Mời xem bài viết cùng tác giả: Vai tṛ của Chính
quyền và một số Luật lệ cần
thiết trong Phát triển Kinh tế)
Như
vậy, các doanh nhân, chủ nhân luôn theo dơi thị
hiếu của người tiêu thụ, nghiên cứu
thị trường để có sản phẩm thích
ứng từ phẩm chất cho tới số lượng
nhằm mục đích thâu về cho xí nghiệp ḿnh
nhiều lợi nhuận. Muốn được
vậy, trong thị trường kinh tế tự do
cạnh tranh hoàn toàn th́ chủ nhân tính toán giá thành
của sản phẩm càng thấp càng tốt trước
khi tung ra thị trường, trong khi đó chủ nhân
mong có giá bán càng cao, số lượng sản
phẩm được bán càng nhiều để có
nhiều lợi tức. Muốn được vậy
th́ chủ nhân một mặt cũng phải chú ư
đến những chi phí dùng để mua nguyên
vật liệu, chi phí công nhân, cơ sở vật
chất, thuế má, quảng cáo, chuyển vận hàng
hoá v.v. Một trong những chi phí mà chủ nhân
nhắm đến v́ là phần tổn phí nhiều
nhất đó là tiền lương công nhân.
Ngoài ra,
nếu chủ nhân không thu được lợi
nhuận mà măi bị lỗ lă th́ hăng xưởng có
thể sẽ bị đóng cửa, sẽ tạo ra
nạn thất nghiệp. C̣n nếu công nhân bị bóc
lột, lương không đủ nuôi sống gia
đ́nh, đời sống chật vật th́ công nhân
cũng không thể hăng say làm việc, năng
suất sẽ yếu kém và cũng có thể sinh ra
nhiều trạng thái không tốt trong hăng xưởng.
Đó là
những yếu tố mà một chính quyền đặt
quyền lợi quốc gia và của người dân lên
trên hết cần phải lưu ư và có thể
phối hợp với cơ quan lập pháp để
có những biện pháp hỗ trợ không những dành
cho chủ nhân mà ngay cả cho công nhân để cho
nền kinh tế phát triển bền vững.
Tại
CHLB Đức một thể chế chính trị đa
nguyên đa đảng, tự do dân chủ, pháp
quyền và tam quyền phân lập được toàn
dân Đức áp dụng để xây dựng và phát
triển đất nước. Thể chế đó
được các cơ quan công quyền Đức
bảo vệ và toàn dân Đức ủng hộ.
Sự can thiệp nhẹ nhàng của chính quyền
trong nền kinh tế qua luật pháp đặt căn
bản trên nền tảng xă hội của đất
nước có tự do dân chủ là những mấu
chốt hỗ tương cho sự phát triển.
Pháp
quyền ở đây có nghĩa là tất cả
mọi cơ quan công quyền, mọi cơ sở kinh
doanh thương mại, mọi công ty xí nghiệp liên
quan tới thành phần chủ nhân và công nhân v.v.
tất cả đều phải thượng tôn pháp
luật và hiến pháp, đặc biệt là các điều
khoản đề cập đến nhân quyền và dân
quyền. Bất cứ bộ luật nào, sắc
luật nào cũng đều phải hợp hiến
trước khi được ban hành. Nhờ vào định
chế chính trị tam quyền phân lập đích
thực, khi pháp luật đă được ban hành
th́ mọi đối tác phải tuân theo và cơ quan
hành pháp có nhiệm vụ thi hành. Bất cứ ai vi
phạm sẽ bị cơ quan tư pháp chiếu theo
pháp luật mà xét xử phân minh.
Cũng nhờ vào thể chế chính trị tam
quyền phân lập như thế mà trong xí nghiệp
tư nhân, quyền lợi công nhân được
bảo vệ trước pháp luật một cách minh
thị. Tuy vậy, giai cấp công nhân, thợ
thuyền th́ không thể nắm vững và hiểu rơ
pháp luật. Do đó tại CHLB Đức, trong xí
nghiệp có một bộ phận đại diện
cho thành phần công nhân để bảo vệ
quyền lợi cho họ một cách trực tiếp
đă được luật pháp quy định rơ ràng
về t́nh trạng của doanh nhân, chủ nhân đối
với giới công nhân trong nền kinh tế thị
trường tự do cạnh tranh hoàn toàn.
Tiếng Đức gọi là Betriebsrat.
"Betrieb" có nghĩa là hăng xưởng, xí
nghiệp. "Rat" có nghĩa là hội đồng.
Như vậy có thể gọi là Hội đồng
Xí nghiệp. Nhưng gọi như thế th́ không
rơ nghĩa lắm, vậy dựa vào sự h́nh thành,
nhiệm vụ, quyền hạn và hoạt động
của nó người ta có thể dịch sang Việt
ngữ là Hội đồng Đại diện Công
nhân Xí nghiệp.
2) Xuất xứ của
Hội đồng Đại diện Công nhân Xí
nghiệp (HĐĐDCNXN) và Luật Định
Trạng Xí nghiệp (LĐTXN):
HĐĐDCNXN
là những đại diện của công nhân, do công nhân bầu ra,
nhằm bảo vệ các đồng quyết
định đối với chủ nhân.
Những việc làm cơ bản của HĐĐDCNXN
được quy định rơ trong Luật Định
trạng Xí nghiệp, tiếng Đức gọi là
Betriebsverfassungsgesetz (BetrVG).
a)
Xuất xứ: Xét về nguồn gốc th́ HĐĐDCNXN
xuất phát từ năm 1900 tại tiểu bang Bayern
ở miền Đông Nam Đức quốc trong xí
nghiệp than mỏ, lúc đó c̣n được
gọi là Uỷ ban Lao động. Uỷ ban nầy cũng
đă được mở rộng lên vùng Preussen
miền Đông Bắc Đức vào năm 1905. Vào năm
1920 thời cộng ḥa Weimer, lần đầu tiên
Uỷ ban Lao động được hợp thức
hoá bằng luật pháp. Dưới thời Đức
quốc xă tất cả các hoạt động cho
quyền lợi của công nhân xí nghiệp đă
bị cấm theo Luật Lao động năm 1934.
Trong suốt thời kỳ đệ nhị thế
chiến Hội đồng ĐDCNXN đă bị thay
thế bởi Hội đồng Tín nhiệm,
tiếng Đức gọi là Vertrauensrat.
Sau
khi đệ nhị thế chiến chấm dứt vào
năm 1945, chiếu theo luật của hội đồng
kiểm tra số 22 của Đồng minh vào ngày 10 tháng
4 năm 1946, HĐĐDCNXN được phép hoạt
động trở lại tại Đức quốc.
Sau đó Luật Định trạng Xí nghiệp
đầu tiên của Đức được công
bố vào ngày 11.10.1952 đă quy định rơ về
sự thành lập, lănh vực hoạt động, trách
nhiệm và quyền hạn của HĐĐDCNXN.
Nội dung của đạo luật nầy vẫn
giữ nguyên truyền thống của pháp luật nói
về HĐĐDCNXN vào năm 1920 và những khái
niệm cơ bản ban đầu vẫn luôn
được tiếp nhận. Sau một cuộc tranh
luận công khai, đă đưa đến một phiên
bản bổ túc của Luật Định trạng Xí
nghiệp vào năm 1972 và đă được
cải cách một lần nữa vào năm 2001.
b)
Luật Định trạng Xí nghiệp: Cũng chính là luật đề cập
đến Hội đồng Đại diện Công
nhân Xí nghiệp. Văn bản định trạng xí
nghiệp quy định vấn đề cơ
bản của sự hợp tác trong xí nghiệp, khá
giống như Luật Cơ Bản của Cộng Ḥa
Liên Bang Đức liên quan đến các quyền
lợi và nghĩa vụ căn bản của người
dân. Trong Luật Định trạng Xí nghiệp quy
định rơ ràng những quyền tham gia của công
nhân trong xí nghiệp. Nó cũng xác định mối
quan hệ pháp lư giữa đại diện công nhân,
giữa các chủ nhân và giữa các công đoàn.
Trọng
tâm của Luật Định trạng Xí nghiệp là
thiết lập một HĐĐDCNXN và đề
cập đến sự bầu cử cũng như
nhiệm vụ và quyền hạn của nó. Theo pháp
luật, cuộc bầu cử của các HĐĐDCNXN
được áp dụng cho tất cả các công ty xí
nghiệp của nền kinh tế tư nhân.
3) Hội đồng Đại
diện Công nhân Xí nghiệp là ǵ và được
tổ chức như thế nào?
Hội
đồng Đại diện Công nhân Xí nghiệp
gồm những uỷ viên đại diện cho công
nhân trong xí nghiệp. Theo quy định, trong các xí
nghiệp nếu có ít nhất là năm công nhân trên
18 tuổi có quyền bầu cử và ba trong số
đó, có ít nhất sáu tháng làm việc trong xí
nghiệp sẽ có quyền ứng cử để
được bầu vào hội đồng nầy.
Tuỳ theo số lượng công nhân làm việc trong
hăng xưởng hội đủ điều kiện
bầu cử mà có số lượng uỷ viên
của HĐĐDCNXN khác nhau. Cuộc bầu cử HĐĐDCNXN
được tổ chức công khai, tự do và kín.
HĐĐDCNXN được bầu theo cá nhân
hoặc theo liên danh. Điều nầy tuỳ
thuộc vào quy định của ban tổ chức
bầu cử. Nhiệm kỳ của HĐĐDCNXN là
bốn năm.
Căn
cứ vào Luật Định trạng Xí nghiệp
(BtrVG) quy định số lượng uỷ viên
được bầu trong HĐĐDCNXN như sau:
5 đến 20 công nhân
đủ điều kiện bầu cử: 1 uỷ viên
21-50 công nhân : 3 uỷ viên
51-100 công nhân : 5 uỷ viên
101-200 công nhân : 7 uỷ viên
201-400 công nhân : 9 uỷ viên
401-700 công nhân : 11 uỷ viên
701-1000 công nhân : 13 uỷ viên
1001-1500 công nhân : 15 uỷ viên
1501-2000 công nhân : 17 uỷ viên
tiếp tục, cứ mỗi 500 công
nhân th́ thêm được 2 uỷ viên
4501-5000 công nhân : 29 uỷ viên
tiếp tục, cứ mỗi 1000 công
nhân th́ thêm được 2 uỷ viên
5001-6000 công nhân : 31 uỷ viên
6001-7000 công nhân : 33 uỷ viên
7001-9000 công nhân : 35 uỷ viên
4) Tŕnh độ chuyên môn của
uỷ viên trong HĐĐDCNXN:
Để có thể đối thoại với chủ
nhân, mỗi uỷ viên của Hội đồng ĐDCNXN
phải có kiến thức và kỹ năng
trong các lănh vực sau:
- Luật
lao động: Bất cứ ai muốn đại
diện cho các đồng nghiệp ḿnh, phải
biết về luật lao động, về hợp
đồng theo ngành nghề (Tarif), vấn đề môi
trường và ảnh hưởng của công
nghệ mới. V́ vậy, các uỷ viên của HĐĐDCNXN
có thể được tham dự những khoá
học về những đề tài thuộc pháp
luật đề cập đến t́nh trạng xí
nghiệp và các vấn đề pháp lư liên quan đến
lao động để trau dồi kiến năng và
sự hiểu biết. Chủ nhân xí nghiệp
phải trả cho tổn phí nầy. Liên minh công đoàn
Đức quốc (Deutscher Gewerkschaftsbund)
và các công đoàn của liên minh cũng có thể
cố vấn cho những HĐĐDCNXN trong công
việc của hội đồng và cung cấp các chương
tŕnh hội thảo để trau dồi kiến
thức về luật lao động và gia tăng
khả năng hoạt động.
- Luật
Định trạng Xí nghiệp (BetrVG): Luật
Định trạng Xí nghiệp là "đạo
luật dành cho HĐĐDCNXN". Nó là nguồn
gốc pháp luật quan trọng nhất mà những
uỷ viên của Hội đồng cần phải
biết để có thể ứng dụng.
- Chuyên
môn pháp lư lao động: Những quyền hạn
để điều hoà mối tương quan làm
việc giữa chủ nhân và công nhân, là một
vấn đề cơ bản dành cho Hội đồng
ĐDCNXN mà các uỷ viên trong Hội đồng
cần phải biết. Từ sự tuyển dụng
cho tới chấm dứt hợp đồng lao động
của công nhân, các uỷ viên trong Hội đồng
ĐDCNXN phải hiểu rằng ḿnh là người
đại diện cho công nhân, vậy phải có
nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi cho công nhân.
5) Quyền
hạn của Hội đồng Đại diện Công
nhân Xí nghiệp:
5.1) Quyền tham
gia biểu quyết: Quyền tham gia biểu
quyết được đặc trưng bởi các
tính năng như là chủ nhân không thể đơn
phương thực hiện biện pháp mà không tôn
trọng các quyền hạn của HĐĐDCNXN.
Trong trường hợp không có thỏa ước
lao động theo luật định th́ Hội đồng
ĐDCNXN có thể tham gia biểu quyết trong các
vấn đề sau:
- Thời gian
bắt đầu và kết thúc làm việc hàng ngày
kể cả thời gian nghỉ trong ngày, cũng như
phân chia thời gian làm việc trong tuần.
- Việc làm thêm giờ của
công nhân.
- Vấn đề cư xử
của các nhân viên trong công ty, xí nghiệp.
- Thiết trí và sử dụng
các phương tiện kỹ thuật để có
thể kiểm tra năng suất lao động.
- Thiết kế hệ thống
an toàn lao động.
- Giới thiệu và ứng
dụng các nguyên tắc đăi ngộ, tưởng thưởng
mới.
- Sự chỉnh đốn các
nguyên tắc chung về kế hoạch nghỉ hè,
nếu chủ nhân và công nhân không thuận ư.
- Các cơ sở xă hội như
căng-tin v.v.
- Nguyên tắc làm việc nhóm.
Ngoài ra
Hội đồng ĐDCNXN có quyền tham gia biểu
quyết về việc tuyển nhận và sa thải công
nhân.
Trong trường
hợp không có sự thống nhất giữa chủ
nhân và Hội đồng ĐDCNXN th́ phải kháng cáo
lên Ṭa án Lao động.
5.2) Quyền
phủ nhận: Với những lư do chính đáng,
Hội đồng ĐDCNXN có thể không tán thành
chủ nhân trong việc tuyển dụng, phân loại,
tái cấu trúc hoặc hoán chuyển công nhân. Trái ngược
với quyền khiếu nại, theo như quyền
phủ nhận nầy th́ chủ nhân không thể
thực hiện các biện pháp, nếu Hội đồng
ĐDCNXN từ chối chấp thuận. Một sự
từ chối biểu quyết của HĐĐDCNXN
chỉ có thể được khắc phục
bởi chủ nhân qua một quyết định
của Ṭa án Lao động.
5.3) Quyền
khiếu nại: Với quyền khiếu nại, mặc
dù không thể ngăn chận chủ nhân sa thải công
nhân, nhưng nó có thể bảo đảm cho công nhân
tiếp tục làm việc cho tới khi vấn đề
được sáng tỏ rằng sự sa thải công
nhân có hợp pháp hay không. Như vậy sự
tồn tại của công nhân phải được
bảo đảm trong tiến tŕnh vụ kiện.
Đối với việc bố trí làm thêm giờ mà
không có sự chấp thuận trước của HĐĐDCNXN
th́ được xem như không hợp pháp.
5.4) Quyền
lắng nghe: Chhủ nhân
phải tham khảo ư kiến với Hội đồng
ĐDCNXN, có nghĩa là chủ nhân không thể chỉ
nói "Tôi không nói chuyện với bạn".
Quyền này được gọi là quyền chung
được lắng nghe. V́ vậy, các chủ nhân
không thể từ chối gọi điện thoại
để làm việc với Hội đồng ĐDCNXN.
Chủ nhân cũng không thể tự quyết định
một sự việc trước khi Hội đồng
ĐDCNXN được biết. Ngoài ra, các quyền
lắng nghe là để đảm bảo rằng các
dữ kiện dẫn chứng của Hội đồng
ĐDCNXN có thể ảnh hưởng đến
quyết định của chủ nhân. Một ví
dụ của quyền được lắng nghe khi công
nhân bị sa thải là nếu Hội đồng
ĐDCNXN không được biết th́ quyết định
của chủ nhân không có giá trị. Khi chủ nhân
muốn sa thải công nhân th́ phải thông báo cho HĐĐDCNXN
biết trước để Hội đồng t́m cách
giúp đỡ công nhân về mặt xă hội.
5.5) Quyền tham
vấn: Quyền tham vấn khác với quyền
lắng nghe là chủ nhân không những chỉ
lắng nghe ư kiến hoặc đề nghị
của Hội đồng ĐDCNXN mà c̣n phải cùng
nhau thảo luận với Hội đồng. Chủ
nhân không những phải thông báo mà c̣n phải tham
khảo ư kiến với HĐĐDCNXN
chẳng hạn như xây dựng cơ sở kỹ
thuật, sửa đổi các quy tŕnh công việc, thúc
đẩy đào tạo nghề, v.v. ở bất
cứ nơi nào mà chủ nhân có nhiệm vụ
phải thông tin v́ HĐĐDCNXN có quyền tham
vấn. Ở đây cũng đề cập đến
quyền tham vấn đặc biệt và tổng quát.
Trong số các quyền quan trọng nhất là
quyền tham vấn đặc biệt đối
với các vấn đề tài chính.
5.6) Quyền thông
tin: HĐĐDCNXN là
tổng kế hoạch nhân sự, phải kịp
thời được thông báo sự thay đổi
về kỹ thuật và tổ chức cũng như các
biện pháp đơn thuần có tính cách cá nhân như
việc tuyển dụng công nhân, tái bố trí công
việc, thay đổi nơi làm việc và việc sa
thải công nhân. Ngoài ra, HĐĐDCNXN có quyền thông
tin sau khi HĐĐDCNXN nhận được tất
cả các thông tin mà HĐĐDCNXN cần thiết cho
công việc của ḿnh. Ngay cả chủ nhân và
Hội đồng ĐDCNXN đều biết rằng
không có thông tin th́ người ta không thể đủ
khả năng làm một công việc tốt đẹp
được. Quyền được thông tin như
vậy sẽ tạo thành một trụ cột quan
trọng của Hội đồng ĐDCNXN.
Một
số quyền ở trên của HĐĐDCNXN đă
phát sinh từ Đạo luật Bảo vệ Lao
động, ví dụ như quyền của Hội
đồng ĐDCNXN đối với những sự
sa thải công nhân, hay Luật Ṭa án Lao động nói
về năng lực của HĐĐDCNXN trong
những vụ kiện ở ṭa án lao động.
Trong
các cơ quan hành chánh và các cơ quan phục vụ công
cộng th́ có những đạo luật đại
diện cho tác nhân của liên bang và tiểu bang quy
định các quyền của Hội đồng Nhân
viên đại diện cho lợi ích của nhân viên
và các quan chức.
Ngoài
ra, HĐĐDCNXN c̣n có những quyền hạn để
quan sát chủ nhân, chẳng hạn như trong việc
xác định giờ làm việc, năng khiếu làm
việc, cũng như vấn đề trả phụ
cấp hay tiền thưởng cho công nhân.
6) Nhiệm
vụ của Hội Đồng Đại Diện Công
Nhân Xí Nghiệp:
-
Thực hiện sự b́nh đẳng giữa
phụ nữ và nam giới cũng như thực
hiện sự hoà hợp giữa gia đ́nh và
nghề nghiệp.
-
Xúc tiến và bảo đảm việc làm trong xí
nghiệp. Khi chủ nhân muốn sa thải một công
nhân th́ cũng phải thông báo cho Hội đồng
ĐDCNXN biết trước để Hội đồng
xem xét việc sa thải công nhân có hợp lư và
hợp pháp hay không. Trong trường hợp nầy
Hội đồng sẽ xét đến t́nh trạng
gia đ́nh và tuổi tác, thâm niên làm việc của
công nhân bị sa thải để có một kế
hoạch xă hội thích ứng cho công nhân đó ngay
cả tiền bồi thường nếu được.
-
Thúc đẩy các biện pháp an toàn lao động và
bảo vệ môi trường làm việc trong xí
nghiệp. HĐĐDCNXN phải để ư đến
biện pháp an toàn lao động trong xí nghiệp theo
luật định, ngay cả pḥng ốc làm việc
phải thích ứng với công việc và sức
khoẻ công nhân.
-
Thúc đẩy sự thích hợp làm việc của
người khuyết tật nặng cũng như giúp
đỡ việc làm đối với công nhân
lớn tuổi.
- Thúc
đẩy sự hội nhập của công nhân
ngoại quốc cũng như các sáng kiến
nhằm chống lại phân biệt
chủng tộc và bài ngoại trong xí
nghiệp.
7) Sự minh
bạch:
HĐĐDCNXN
không làm việc trong bí mật mà phải được
công khai. Ít nhất bốn lần trong một năm,
Hội đồng báo cáo rơ ràng trong những cuộc
họp toàn công nhân trong xí nghiệp về việc làm
của họ và giải quyết những vụ xung
đột nếu có. Cấp lănh đạo của xí
nghiệp được Hội đồng mời tham
dự buổi họp. Ở đây, công nhân có
thể tham gia và tham khảo ư kiến với HĐĐDCNXN
cũng như đối với cấp lănh đạo
của xí nghiệp để ghi nhận những
ảnh hưởng.
8) Sự khác
biệt giữa Hội đồng Đại diện
Công nhân Xí nghiệp (Betriebsrat) với Công đoàn
(Gewerkschaft)?
-
Hội đồng ĐDCNXN được xem như
bộ phận đại diện cho công nhân trong xí
nghiệp. Chiếu theo Luật Định trạng Xí
nghiệp (BetrVG) th́ Hội đồng nầy làm
việc chung với chủ nhân một cách đáng tin
cậy. C̣n vai tṛ của công đoàn và các hội viên
của họ là để thương lượng
những hợp đồng về Tarif (bậc lương
thuộc mỗi ngành nghề riêng biệt) giữa
nghiệp đoàn chủ nhân và công đoàn.
-
Một trong những quyền quan trọng nhất
của Hội đồng ĐDCNXN là quyền tham gia
biểu quyết khi có sự sa thải công nhân.
Nếu chủ nhân có một lư do để chấm
dứt hợp đồng làm việc bất thường
của công nhân, HĐĐDCNXN cũng phải
được biết trước khi việc sa
thải công nhân xảy ra. Thậm chí chủ nhân
muốn sa thải một uỷ viên của Hội
đồng ĐDCNXN cũng không đơn giăn.
Bởi v́ theo Luật Bảo vệ sa thải công nhân
có điều khoản đặc biệt chống
lại việc sa thải. Trong khi đó công nhân nào
chỉ là hội viên của công đoàn (Gewerkschaft),
nhưng không phải là một uỷ viên của HĐĐDCNXN
(Betriebsrat), th́ không được hưởng sự
bảo vệ sa thải nầy. Các cuộc bầu
cử của HĐĐDCNXN không có tính năng đặc
biệt nào áp dụng cho các hội viên của công
đoàn.
- Để trở thành hội viên của công đoàn
th́ chính các công nhân xí nghiệp phải tự làm
đơn xin gia nhập vào công đoàn một cách
tự nguyện. Trong khi đó uỷ viên HĐĐDCNXN
phải được công nhân trong xí nghiệp
bầu lên.
9) Thay lời
kết:
Tôi đă làm việc trong hăng có số lượng công
nhân khắp thế giới khoảng 48.000 người.
Riêng tại thành phố Frankfurt am Main th́ có khoảng
trên 420 nhân viên. Hầu hết là ngành IT. Chiếu theo
Luật Định trạng Xí Nghiệp th́ chi nhánh
của hăng tôi tại địa phương phải
có HĐĐDCNXN với tổng số là 11 uỷ viên.
Mỗi 4 năm sẽ được bầu cử
một lần. Nếu có sự thay đổi bất
thường trong nhiệm kỳ, ví dụ như
những departments sáp nhập sau khi hăng mua thêm hăng
mới v.v. th́ con số uỷ viên trong HĐĐDCNXN
được thay đổi, vậy phải
được bầu lại. Có hai cách thức
bầu:
1) Bầu
theo từng cá nhân ứng cử viên. Sau đó tuỳ
theo thứ tự ứng cứ viên có số phiếu
được bầu cao thấp để chọn vào
HĐĐDCNXN.
2) Bầu
theo liên danh. Liên danh nào có số phiếu được
bầu nhiều nhất được xem như
thắng cử. Liên danh đó bầu ra Ban đại
diên gồm có chủ tịch, phó chủ tịch và thư
kư. Vị chủ tịch dường như làm
việc toàn thời cho HĐĐDCNXN.
Về
hoạt động th́ mỗi tuần HĐĐDCNXN
tổ chức họp một lần. Tất cả
uỷ viên phải tham dự đông đủ.
Nếu v́ lư do ǵ đó có những uỷ viên chính
thức của Hội đồng không thể tham
dự cuộc họp được th́ những
uỷ viên dự khuyết được đôn lên
thay thế. Trước khi cuộc họp xảy ra vài
ngày, các uỷ viên sẽ tham dự đều
được nhận chương tŕnh cuộc
họp trong tuần lễ đó.
Việc họp hành rất nghiêm túc, phải giữ
đúng giờ giấc làm việc. Khi uỷ viên ra vào
pḥng họp phải thông báo và thư kư buổi
họp phải ghi vào biên bản, nếu không th́
việc biểu quyết một vấn đề không
được chính xác. Thông thường th́ chủ
tịch của HĐĐDCNXN là người chủ
toạ buổi họp. Uỷ viên thư kư có
nhiệm vụ ghi biên bản. Trước khi vào
họp phải thiết lập danh sách tất cả
uỷ viên tham dự buổi họp và phải có
chữ kư của từng uỷ viên.
Các
uỷ viên đă tham dự cuộc họp th́ chủ
nhân hay cấp lănh đạo hăng không thể sa
thải uỷ viên đó trong ṿng một năm
nếu không nêu ra được lư do chính đáng.
Thông
thường th́ việc tuyển dụng nhân viên công
nhân mới của hăng, sau khi pḥng nhân viên (human
resources) nhận hồ sơ xin việc và trước
khi muốn có cuộc phỏng vấn với đối
tượng th́ cũng phải chuyển hồ sơ
xin việc qua HĐĐDCNXN xem trước có thích
hợp với nhu cầu của xí nghiệp hay không. HĐĐDCNXN
không những có nhiệm vụ bảo vệ quyền
lợi của công nhân mà c̣n có nhiệm vụ giúp hăng
phát triển…
KS Nguyễn Văn
Phảy
Cựu SVĐHLKSG - Ban Công Pháp
|