HƠI NÓNG TRÊN
BIỂN ĐÔNG TRUNG HOA Đại-Dương |
Biển
Đông Trung Hoa (East China Sea, ESC) gồm có Trung Quốc,
Nhật Bản, Đại Hàn, Đài Loan tiềm
ẩn một cuộc chiến tranh có thể kéo theo
nhiều lực lượng Hải quân trên thế
giới tham gia. Đó là một quả bom nổ
chậm không-hẹn-giờ. Độ
nóng của chiến tranh tuỳ thuộc vào những
quốc gia trên thế giới có liên quan trực
tiếp hoặc gián tiếp tới các sinh hoạt trên
Biển Đông Trung Hoa. Khi
chiến tranh bùng nổ có thể lan tới Khối
quốc gia Đông Nam Á cũng như các nước trên
thế giới có liên hệ sinh hoạt tới khu
vực này. Trong
tranh chấp chủ quyền biển, các quốc gia liên
hệ tới Biển Đông Trung Hoa thường
viện dẫn những hoạt động trong quá
khứ xa xôi và lỗi thời mà lảng tránh các quy
định pháp lư nằm trong Công ước Liên
Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 (United
Nations Convention on the Law of the Sea, UNCLOS) đă được
157 quốc gia kư kết. Nhưng,
sự tuân thủ UNCLOS thường bị một
số quốc gia kư kết cố t́nh “bẻ cong” cho
phù hợp với lợi ích riêng tư nên tranh chấp
trên Biển cứ kéo rê trong sinh hoạt trên Biển
Đông Trung Hoa (ECS) cũng như trên Biển Nam Trung Hoa
(SCS). T́nh
trạng này chỉ có lợi cho các cường
quốc biển trong khi các quốc gia duyên hải chưa
có Lực lượng Hải quân hùng hậu đành
phải ngậm đắng, nuốt cay hầu tránh các
trận hải chiến bất lợi. Tham
vọng Đế quốc của Trung Hoa đă thể
hiện rơ trong 7 chuyến chuyến “hành quân” của
Hạm đội Kho báu vào đời Nhà Minh của
Trung Quốc từ 1405 đến 1433. Hoạn quan
Trịnh Hoà được phong chức Đô đốc
để xây dựng Hạm đội Kho báu từ năm
1403 và Tổng chỉ huy cho cuộc Chinh chiến
bằng đường biển. Mục
đích chính của 7 chuyến “hành quân” nhằm áp
đặt sự thống trị của Đế
quốc Trung Hoa lên các quốc gia ven biển Nam Trung Hoa,
Ấn Độ Dương và Trung Đông. Mỗi
lần Hạm đội Kho báu trở về Triều
đ́nh đều mang theo những tài sản cướp
bóc trong chuyến xuất dương. Món hàng triều
cống ngoài sơn hào hải vị c̣n có các quân vương
hoặc đại diện cho các quốc vương
đă bị Trịnh Hoà dẫn về để tạ
tội với Hoàng đế Trung Hoa. Tập
Cận B́nh đang nắm ba chức vụ bao trùm Trung
Quốc: Tổng Bí thư Đảng Cộng sản,
Chủ tịch nước Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa,
Chủ tịch Quân ủy Trung ương nên quyền uy
c̣n lớn hơn các vị tiền nhiệm. Tập
muốn làm sống lại uy quyền của Triều
đ́nh Trung Hoa nên thường ca tụng, thán phục
hoạt động của Hạm đội Kho báu. Tổng
thống Joe Biden thường công khai kể lại
thời gian c̣n làm Phó cho Tổng thống Barack Obama
đă từng theo chân Phó chủ tịch Tập Cận
B́nh đi thị sát nhiều tỉnh ở Trung Quốc
như đôi cánh chim giang hồ. Trái lại, cũng có
dư luận nghi ngờ sự phóng đại của
Biden nhằm che đậy hoạt động kinh doanh
mờ ám của gia tộc với Trung Quốc. Trong
Đệ nhị Thế chiến, Tổng thống
Quốc dân Trung Quốc, Tưởng Giới Thạch
đă hợp tác với Hoa Kỳ mà giải thoát Hoa
Lục khỏi ách thống trị của Nhật
Bản nên được xếp cùng hàng với các
Tổng thống siêu cường Franklin D. Roosevelt,
Thống chế Tưởng Giới Thạch, Nguyên soái
Josef Stalin, Thủ tướng Winston Churchill tại
Hội nghị Cairo, ngày 25-11-1943. Thực
tế, cuộc chiến chống Quân phiệt Nhật trên
đất Trung Hoa cũng có sự góp sức của
Đảng Cộng sản do Mao Trạch Đông lănh
đạo. Sau
Đệ nhị Thế chiến, Chủ nghĩa
Cộng sản lan rộng sang Đông Âu và khắp
thế giới gây nên ảnh hưởng chính trị mà
hậu quả là cuộc chiến Quốc-Cộng lan
rộng khắp thế giới, đặc biệt phát
triển mạnh tại Châu Á. Mao Trạch Đông đă
vận dụng được sức mạnh của
giai cấp nông dân và công nhân trong kháng chiến
chống Quân phiệt Nhật. Tưởng
Giới Thạch biết được xu thế phát
triển mạnh của Chủ nghĩa Cộng sản nên
tiến hành việc di tản chiến thuật khỏi
chiến trường Lục địa. Phần lớn
tài sản và di tích nền văn minh Trung Hoa được
chuyển ra khỏi Lục địa đưa tới
Đài Loan. Đài
Loan trở thành Thủ đô của Trung Hoa Dân
Quốc. Phần lớn di tích văn minh Trung Hoa
được Tưởng Giới Thạch và giới
tinh hoa bí mật chuyển tới Đài Loan mà không
bị Đảng Cộng sản của Mao Trạch
Đông huỷ diệt. Đảo
Kim Môn cách Thành phố Hạ Môn 2 km về Phía Đông
do 120,000 quân Tưởng Giới Thạch trú đóng
đă đánh bại triệt để Giải phóng quân
của Tư lệnh Diệp Phi khi đổ bộ lên
Đại Môn. Sau 3 ngày giao chiến mà Diệp Phi không
thể tiếp viện do biển ngăn cách nên 9,000 quân
của Trung Cộng đổ bộ lên Kim Môn ngày
25-10-1949 đă bị giết gần 4,000 và bị
bắt 5,000. Năm
1958, Mao Trạch Đông cho bố trí trên bờ biển
Hạ Môn một Giàn Đại pháo bắn vào Đảo
Kim Môn suốt cho tới năm 1979 sau khi thiết
lập được bang giao với Hoa Kỳ. Sau
khi rút khỏi Hoa Lục, Tổng thống Tưởng
Giới Thạch vẫn chuẩn bị cho công cuộc
giải phóng Hoa Lục khởi đầu tại
Quần đảo Mă Tổ thuộc địa hạt
Tỉnh Phúc Kiến. Mă Tổ cách Đài Loan 114 hải
lư và Kim Môn 152 HL và cách duyên hải Phúc Kiến
khoảng hơn 10 HL. Tưởng
Tổng thống từng chuẩn bị tấn công Hoa
Lục vào năm 1965, nhưng, bị Bắc Kinh phát
hiện đă đánh đắm hai chiến hạm
chở biệt kích làm chết 200 lính của Tưởng
nên kế hoạch phải ngưng. Dù
lực lượng Hải quân của Trung Cộng đă
lớn mạnh về số lượng mà phẩm
chất mà kinh nghiệm hải chiến chưa bảo
đảm nên Bắc Kinh không dám động tới Kim
Môn và Mă Tổ. Người
Đài Loan không vội vă giải phóng Hoa Lục mà lo
pḥng thủ các ḥn đảo cũng như Thủ
đô Đài Bắc chờ ngày quang phục thay v́ nóng
vội. V́
thế, hiện nay đa số cư dân Đài Loan
tự nhận không phải là người Trung Hoa
với khát vọng được sống tự do mà
không lệ thuộc vào Trung Hoa Cộng Sản. Đại-Dương |