Khối
NATO
và cuộc chiến Ukraine Đỗ Kim Thêm |
Với cuộc tấn công của Nga tại
Ukraine, vai tṛ của Tổ chức Minh ước
Bắc Đại Tây Dương (North Atlantic Treaty
Organization, NATO) như là một liên minh pḥng thủ
đă được thảo luận sôi nổi.
Vấn đề là khối NATO, kể từ khi thành
lập cho đến nay, đă có các chiến lược
phát triển nào ở Đông Âu và từ khi cuộc
chiến Ukraine bùng nổ thay đổi ra sao? Chống
Liên Xô Trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh
khởi đầu, Liên Xô đă công khai cạnh tranh
với Hoa Kỳ và các quốc gia châu Âu để giành
quyền lănh đạo tối thượng về chính
trị và kinh tế. Để tự bảo vệ trước
sự bành trướng của Liên Xô, khối NATO
được thành lập vào năm 1949 với mười
hai quốc gia. Là một liên minh quốc pḥng, mục
đích chính của khối NATO nhằm "đảm
bảo tự do và an ninh cho các thành viên bằng các
biện pháp chính trị và quân sự.” Cộng ḥa Liên bang Đức không phải là
một trong những quốc gia sáng lập. Tuy nhiên,
về sau, nước Đức bị chia cắt đă
nhanh chóng phát triển thành đấu trường chính
của cuộc xung đột Đông-Tây. Do đó,
cuối cùng, vào năm 1955, các đồng minh phương
Tây đă cho Đức gia nhập khối NATO, với
mục đích là để ràng buộc Đức trong
một liên minh quân sự. Hiện nay, Liên minh này quy tụ được
31 quốc gia thuộc châu Âu và Bắc Mỹ, thành viên
mới nhất là Phần Lan tham gia từ tháng 4/2023.
Kể từ năm 2014, ông Jens Stoltenberg, người Na
Uy, đảm nhiệm chức vụ Tổng Thư kư. Để phản ứng trước t́nh
thế khi khối NATO khởi đầu hoạt động,
Liên Xô cũng thành lập khối Hiệp ước
Warsaw, một Liên minh quân sự gồm có các nước
Đông Âu cũng với mục tiêu tương tự. Chiến
dịch Đông tiến Sau khi Liên Xô và Khối Hiệp ước Warsaw
sụp đổ năm 1991, tầm quan trọng về
chiến lược pḥng thủ chung của liên minh quân
sự không c̣n. Khối NATO đă nhanh chóng thay đổi
các khái niệm cơ bản, từ một hệ
thống pḥng thủ tập thể chuyển sang thành
một hệ thống an ninh tập thể. T́nh thế đổi thay làm cho các nước
Đông và Trung Âu, với những trải nghiệm như
là chư hầu của Liên Xô, mong t́m kiếm sự
che chở về an ninh chung cho toàn khu vực. Trong
chiều hướng này, khối NATO đem lại đúng
lúc một viễn cảnh hấp dẫn, thúc đẩy
cho sự phát triển theo hướng của mô h́nh dân
chủ tự do, kinh tế thị trường và
ổn định chính trị. Do đó, hầu hết
các quốc gia Trung và Đông Âu đều mong muốn
được gia nhập vào khối NATO. Không bao lâu sau, Cộng ḥa Séc và Hungary gia
nhập khối NATO năm 1999; Bulgaria, Estonia, Latvia,
Lithuania, Romania, Slovakia và Slovenia cũng tiếp tục
tham gia năm 2004. Đe
doạ Nga? Năm 1990, Cộng ḥa Liên bang Đức và
Cộng ḥa Dân chủ Đức tham gia đàm phán
về vấn đề thống nhất nước
Đức trong khuôn khổ Hiệp ước Hai
cộng bốn. Bốn nước Pháp, Liên Xô, Anh và
Hoa Kỳ cũng tham gia trong khuôn khổ hợp tác này. Trong
khi đó, các nước phương Tây thành lập
một Hội đồng NATO - Nga nhằm vào việc
tạo điều kiện cho một số sĩ quan quân
đội Nga có thể tham dự các cuộc họp
của khối NATO. Qua mối quan hệ này, Nga hy
vọng sẽ có nhiều hơn các hợp tác mới. Vào đầu những năm 1990, Ngoại trưởng
Hoa Kỳ James Baker đă nói với người đồng
cấp Nga rằng khối NATO sẽ không mở rộng
và việc này chưa bao giờ có một văn bản
thỏa thuận. Có những lời tuyên bố riêng
biệt của các nhà ngoại giao phương Tây khác
cũng theo chiều hướng này, nhưng một cam
kết như vậy không nằm trong chương tŕnh
nghị sự và là chủ đề của một tương
thuận. Khi Tổng thống Mỹ Bill Clinton thảo
luận vấn đề này với Tổng thống Nga
Boris Yeltsin, trong thực tế, đă có sự chấp
nhận miễn cưỡng của Nga đối
với việc mở rộng của khối NATO, nhưng
các kỳ vọng của cả hai bên đều khác
nhau. Tại Hội nghị Thượng đỉnh
Bucharest năm 2008, khối NATO quyết định
về những thành viên tiềm năng trong tương
lai, bao gồm Ukraine và Georgia, đây chỉ đơn
giản là xác nhận những kỳ vọng tồi
tệ nhất của Putin về phương Tây. Quyết
định này của khối NATO năm 2008 có thể
sai lầm, tuy nhiên, sự thay đổi thái độ
của Putin đă có trước đó, mà bài phát
biểu tại Hội nghị An ninh Munich năm 2007 là
một thí dụ. Putin chua chát về thái độ
của phương Tây trước khi Hội nghị Thượng
đỉnh Bucharest tiến hành. Ngay sau khi Hội
nghị Thượng đỉnh NATO tại Bucharest
kết thúc, Pháp và Đức thông báo rằng sẽ
phủ quyết tư cách thành viên của Ukraine trong
khối NATO. Do đó, khả năng mở rộng và
đe doạ Nga của khối NATO chỉ là một
trong một số nguyên nhân trung gian, không nhất
thiết nên xem là chủ yếu và cực kỳ nghiêm
trọng. Ngược lại, có các lối giải thích khác hơn để bảo vệ cho quan điểm gây hấn của Putin. Nh́n chung trong toàn cảnh địa chiến lược, Putin có cảm tưởng là khối NATO đang thắng thế và ngấm ngầm đe doạ Nga. Đó là một lư do chính đáng để cho Putin có cơ sở hành động ngăn chận. Can
thiệp quân sự Là một liên minh pḥng thủ chung, hoạt
động ưu tiên của khối NATO nhằm đem
lại một biện pháp pḥng ngừa cho nền ḥa b́nh
và an ninh mà Điều 5 của Hiệp Ước quy
định cụ thể. Khi một quốc gia đồng
minh bị tấn công, các đồng minh khác sẽ cam
kết bảo vệ. Trong trường hợp này
xảy ra, Hội đồng NATO sẽ quyết định,
có nghĩa là, tất cả các nước trong
khối. Trong những năm 1990, sự thay đổi
quan điểm chiến lược đầu tiên đặc
biệt là rơ ràng trong các hoạt động ngoài khu
vực (out of area) của khối NATO ở Bosnia và
Herzegovina (IFOR) và Kosovo (Chiến dịch Lực lượng
Đồng minh và KFOR). Các cuộc không kích của
khối NATO để chấm dứt chiến tranh Kosovo
đă được thực hiện mặc dù
thiếu sự ủy nhiệm từ Hội đổng
Bảo an Liên Hiệp Quốc. Sau cuộc tấn công
ngày 11 tháng 9 năm 2001, biện pháp can thiệp quân
sự chính thức của khối NATO là "Chiến
dịch Tự do Bền vững" ở Afghanistan vào
tháng Mười cùng năm. Tuy nhiên, các diễn biến bất thường
này của khối NATO cũng đă gây ra những tranh
chấp nội bộ khá gay gắt về việc định
hướng nhiệm vụ mới. Sau nhiều tranh
luận, cuối cùng, khối NATO đồng thanh xác
định ba khuôn khổ nhiệm vụ trong t́nh h́nh
mới là: – Pḥng thủ tập thể theo Điều 5
của Minh ước Bắc Đại Tây Dương
(trường hợp liên minh), – Quản lư khủng hoảng chính trị và
quân sự, và – Hợp tác an ninh với các nước
thứ ba
Năm 2014, Nga sáp nhập bán đảo Crimea và
hậu thuẫn cho một cuộc chiến ở
miền đông Ukraine. Hành vi này đă chứng minh là
Nga vi phạm luật quốc tế và làm suy yếu
nền trật tự ḥa b́nh tại châu Âu sau năm
1990. Do đó, các nước Baltic và Ba Lan cảm
thấy bị đe dọa, đặc biệt nhất
là khi Nga tổ chức các cuộc diễn tập quân
sự quy mô lớn với khoảng 100.000 quân dọc biên
giới. Sau đó, tại các cuộc Hội
nghị Thượng đỉnh Wales (2014) và Warsaw (2016),
khối NATO đă đặt lại việc bảo
vệ lănh thổ các quốc gia thành viên trong bối
cảnh nguy cơ mới và quyết định đề
ra một sáng kiến hỗ trợ mệnh danh là “Tăng
cường sự hiện diện tiền phương.”
(Enhanced Forward Presence). Kết quả là bốn
lực lượng tác chiến đă đóng quân
tại Estonia, Latvia, Lithuania và Ba Lan. Hoạt động
của bốn đội quân này nhằm bảo vệ
cạnh sườn phía Đông trong khu vực và tăng
cường khả năng răn đe Nga. Tuy nhiên, nh́n chung, quy mô của các hoạt động
này chỉ giới hạn dưới 5.000 quân. Do đó,
biện pháp này chủ yếu là nhằm cảnh báo cho
Nga về tinh thần tự vệ, nhưng cũng không
v́ thế mà kết luận là đe doạ tấn công
Nga một cách quá nghiêm trọng. Sau khi Nga xâm lược
Ukraine vào ngày 24/2/2022, t́nh h́nh an ninh khu vực đă
thay đổi triệt để. Khối NATO công khai lên
án Nga và ủng hộ các biện pháp trừng phạt
của phương Tây áp đặt cho Nga. Tuy nhiên, do
Ukraine không phải là thành viên, nên khối NATO không
thể trực tiếp can thiệp bằng biện pháp
quân sự. Đứng trước t́nh h́nh thay đổi,
để nhằm để kịp thời chống
lại các mối đe dọa, khối NATO đă đề
ra các kế hoạch pḥng thủ và tăng cường
việc bảo vệ cạnh sườn ở phía
Đông, bằng cách tái phối trí Lực lượng
Phản ứng thuộc khối NATO (NATO Response Force, NRF).
NRF gồm có bộ binh, không quân, hải quân và đặc
nhiệm với khoảng 50.000 binh sĩ, trong đó
Đức cung cấp 13.700 binh sĩ. Cho đến nay, có
khoảng 40.000 binh sĩ đang sẵn sàng ứng
chiến ở các vùng lănh thổ từ Estonia ở phía
bắc cho đến Romania trên Biển Đen. Mở
rộng lực lượng Tại cuộc Hội nghị Thượng
đỉnh cuả khối NATO ở Madrid vào ngày
29/6/2022, 30 quốc gia thành viên đă quyết định
đề ra một mô h́nh mới cho lực lượng
vũ trang để tăng cường pḥng
thủ tại cạnh sườn phía Đông. Các
lực lượng chiến đấu đa quốc gia
hiện nay sẽ được mở rộng đến
cấp lữ đoàn. Một lữ đoàn thông thường
gồm có khoảng 3.000 đến 5.000 binh sĩ. Ví
dụ như đơn vị của Lithuania bao gồm
1.600 binh sĩ. Tháng 6/2023, Đức tuyên bố sẽ lănh
đạo lữ đoàn chiến đấu với
khoảng 4.000 người và sẽ đồn trú thường
trực ở Lithuania. Chính phủ Lithuania hứa là
đến năm 2026 sẽ xây dựng xong các cơ
sở hạ tầng để nhằm phục vụ
cho các trại gia binh của Đức. T́nh h́nh ngày
càng bất ổn, khi toán quân đánh thuê Wagner đang
dần chuyển sang lănh thổ nước Belarus, nên các
đơn vị quân đội cần phải tái
phối trí. Quân đội Đức đă hiện
diện tại Lithuania từ năm 2017, hiện nay có
khoảng 800 binh sĩ. Biện pháp này sẽ làm cho
Lithuania trở thành một căn cứ quân sự
lớn nhất của Đức ở nước ngoài. Cho
đến khi kết thúc Chiến tranh Lạnh, nh́n chung
về mặt địa lư, Đức từ một nước
đứng ở vị thế trung tâm, nay thuộc
về cạnh sườn ở phía Đông. Do đó,
Đức đang nhận ra tầm quan trọng trong
việc hợp tác quân sự với các nước
Baltic mà việc đồn trú ở Lithuania được
coi như là một biểu tượng chiến lược
quan trọng. Trong tương lai, khối NATO cũng muốn
đặt các binh sĩ luôn trong t́nh trạng sẵn sàng
ứng chiến. Để đạt được
mục tiêu này, lực lượng NRF sẽ được
tân trang. Theo kế hoạch dự trù, số lượng
quân sẽ tăng từ 40.000 lên hơn 300.000. Những
binh sĩ này hiện nay đang được đặt
dưới quyền chỉ huy của từng quốc
gia, nhưng trong trường hợp khẩn cấp, có
thể được yêu cầu thuộc quyền điều
động chung của vị Tổng tư lệnh quân
đội khối NATO. Xác định thời gian sẵn sàng ứng
chiến cũng sẽ là một vần đề. Các
chi tiết về t́nh trạng này sẽ được
đặt ra trong các kế hoạch pḥng thủ và
sẽ chung quyết vào năm tới. Đức
và khối NATO Tại hội nghị thượng đỉnh
NATO Praha (2002) và Warsaw (2014), các nước đă
đồng ư về mức đóng góp ngân sách quốc
pḥng là tương ứng với khoảng 2% của
tổng sản phẩm quốc nội. Trong quá
khứ, Đức cùng với một số nước
thành viên khác đă không đạt được
mục tiêu này, mặc dù ngân sách quốc pḥng đă tăng
lên trong những năm gần đây. Tuy nhiên, Quân
đội Đức đă bị thu hẹp hoạt
động trong 20 năm qua, không có các khoản đầu
tư mới đáng kể và mức độ trang
thiết bị c̣n rất tệ hại. Trong nhiều năm,
việc đóng góp khiếm khuyết này của Đức
đă bị các đồng minh chỉ trích, nhưng gay
gắt nhất là Cựu Tổng thống Donald Trump, khi
ông đe doạ là Mỹ sẽ rút ra khỏi khối
NATO. Khi Nga xâm lược Ukraine, thái độ
của Đức đă thay đổi đáng kể.
Hiện nay, t́nh trạng quân trang và quân dụng của
Đức được cải thiện khá
nhiều nhờ vào việc một quỹ đặc
biệt trị giá 100 tỷ euro đă được
Hiến pháp chấp thuận. Năm 2024, chi tiêu quốc
pḥng dự kiến sẽ tăng thêm từ 1,7 tỷ
euro lên mức kỷ lục là 51,8 tỷ euro, trong đó
với 19,2 tỷ euro trích từ quỹ đặc
biệt. Bằng cách này, phần đóng góp của
Đức cho khối NATO có thể sẽ đạt
được mục tiêu 2%. Ukraine
gia nhập khối NATO? Trong thời gian 16 tháng qua, Tổng thống
Zelensky đă nhiều lần kêu gọi cộng đồng
quốc tế ủng hộ cho Ukraine được gia
nhập khối NATO như là một thành viên chính
thức. Việc Ukraine gia nhập sẽ được
đề cập tại tại hội nghị thượng
đỉnh NATO vào ngày 11-12/7 tại Lithuania. Đây là
một trong các chủ đề quan trọng nhất
trong cuộc họp này. Thực ra, từ lâu, vấn
đề gia nhập đă gây nhiều tranh luận. Gần đây, Tổng thống Thổ Nhĩ
Kỳ Recep Tayyip Erdogan đă tỏ ra ủng hộ
nhiệt t́nh khi tuyên bố trước báo giới
Istanbul là "Không c̣n nghi ngờ ǵ
nữa, Ukraine xứng đáng là thành viên của
khối NATO”. Ngược lại, Mỹ, cho dù
viện trợ quân sự tối đa cho Ukraine để
chiến đấu, nhưng đă làm Ukraine giảm hy
vọng trong việc gia nhập. Theo Tổng thống Joe
Biden, Mỹ sẵn sàng bảo vệ cho Ukraine tương
tự như Israel sau khi kết thúc cuộc chiến
tranh xâm lược của Nga. Biden đề xuất là
nên có một khoảng thời gian bảo đảm
cần thiết từ khi kết thúc chiến tranh cho
đến khi Ukraine có đủ khả năng gia
nhập. Các quốc gia Lithuania và Ba Lan đang có các
yêu cầu khác hơn: Ukraine nên được hứa
hẹn sẽ kết nạp ngay sau khi chiến tranh
kết thúc. Trong khi đó Đức cho là việc gia
nhập nên liên kết với các điều kiện khác,
thí dụ như quân đội Ukraine phải chịu
sự kiểm soát của chính quyền dân sự và dân
chủ. Tổng thư kư NATO Jens Stoltenberg cho biết khi cuộc chiến vẫn tiếp diễn th́ hội nghị thượng đỉnh tại Vilnius cũng sẽ không đưa ra lời mời chính thức nào đối với Kiev. Đối với Ukraine và những người ủng hộ, triển vọng gia nhập khối NATO là quan trọng nhất, nhưng việc cuộc chiến leo thang hay hy vọng hạn chế hoặc đóng băng là một tương lai khó lường đoán. Nếu Kiev sẽ được mời gia nhập với một lịch tŕnh cụ thể trong t́nh trạng đầy bất trắc hiện nay, tự nó cũng sẽ không mang lại hứa hẹn nào gọi là tốt đẹp, mà hậu qủa trước mắt là khối NATO sẽ bị lôi kéo một cách tự động vào cuộc chiến bất định của một quốc gia thành viên. Những người khác tin rằng nếu quốc tế viện trợ quân sự hùng hậu và kịp thời cho Ukraine để nâng cao tinh thần chiến đấu đến thành công, phương sách này khả thi hơn là mang lại tư cách thành viên của Ukraine trong khối NATO. –
Đỗ Kim Thêm |