Kissinger và
ư nghĩa đích thực của t́nh trạng ḥa hoăn (Kỳ
cuối) Tác giả: Niall
Ferguson Đỗ Kim Thêm dịch |
Giảm căng
thẳng 2.0 Xét đến
những rắc rối mà Hoa Kỳ đang phải đối
mặt hồi đầu năm 1969, t́nh trạng ḥa hoăn
như Kissinger quan niệm về nó là hợp lư. Không
thể đánh bại Bắc Việt Nam, bị ảnh
hưởng bởi t́nh trạng vừa lạm phát
vừa đ́nh trệ, và phân hoá sâu đậm về
mọi thứ, từ quan hệ chủng tộc đến
nữ quyền, Washington không thể chơi tṛ cứng
rắn với Moscow. Thật vậy,
nền kinh tế Mỹ trong thập niên 1970 không có
điều kiện để duy tŕ kinh phí quốc pḥng
tăng trong tổng thể. (Giảm căng thẳng cũng
có lư do về tài chính, mặc dù Kissinger hiếm khi
đề cập đến vấn đề này). Việc hoà hoăn không
có nghĩa là – như giới chỉ trích Kissinger cáo
buộc – chấp nhận, tin tưởng hay xoa dịu
Liên Xô. Điều đó cũng không có nghĩa là cho
phép họ đạt được ưu thế
về hạt nhân, kiểm soát thường trực
Đông Âu hoặc là một đế chế ở
thế giới thứ ba. Điều đó có nghĩa là,
nhận ra giới hạn về sức mạnh của
Mỹ, giảm nguy cơ chiến tranh nhiệt hạch
bằng cách sử dụng kết hợp cả hai chính
sách dùng cà rốt và cây gậy, kéo dài thời gian
để cho Mỹ phục hồi. Việc này đă
vận hành. Đúng vậy, Kissinger đă không bảo
đảm “khoảng thời gian thích hợp”
giữa việc Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam
và cuộc chinh phục miền Nam của miền
Bắc, một khoảng thời gian mà ông hy vọng
sẽ đủ dài để hạn chế thiệt
hại cho uy tín và thanh danh của Washington. Nhưng việc ḥa
hoăn cho phép Mỹ tập hợp lại các vấn đề
trong nước và ổn định chiến lược
của Mỹ về Chiến tranh Lạnh. Nền kinh
tế Mỹ sớm đổi mới theo cách mà Liên Xô
không bao giờ có thể, tạo ra các tài sản kinh
tế và công nghệ, cho phép Washington giành chiến
thắng trong Chiến tranh Lạnh. Giảm căng
thẳng cũng cho Liên Xô sợi dây tḥng lọng để
tự treo cổ tự tử. Được khuyến
khích bởi những thành công của họ ở Đông
Nam Á và Nam Phi, họ đă thực hiện một
loạt các can thiệp sai lầm và tốn kém trong
thế giới kém phát triển, mà đỉnh điểm
là cuộc xâm lược Afghanistan vào năm 1979. Với sự thành
công hiếm khi được thừa nhận của
việc ḥa hoăn trong các điều kiện này, vấn
đề đáng để đặt ra là, liệu có
những bài học nào mà Hoa Kỳ ngày nay có thể
học được mà nó có liên quan đến
cuộc cạnh tranh với Trung Quốc không. Kissinger
chắc chắn tin như vậy. Trong khi phát biểu
tại Bắc Kinh hồi năm 2019, ông tuyên bố
rằng Mỹ và Trung Quốc đă “ở chân đồi
của một cuộc chiến tranh lạnh”. Năm
2020, giữa ḷng trận đại dịch COVID -19,
Kissinger đă nâng cấp nó thành “lối thoát trên núi”.
Và một năm trước khi qua đời, ông
cảnh báo rằng, cuộc chiến tranh lạnh
mới sẽ nguy hiểm hơn cuộc chiến đầu
tiên v́ những tiến bộ trong công nghệ,
chẳng hạn như về trí tuệ nhân tạo,
đe dọa chế tạo vũ khí không chỉ nhanh hơn
và chính xác hơn mà c̣n có tiềm năng tự động.
Ông kêu gọi cả hai siêu cường hợp tác
bất cứ khi nào có thể được để
hạn chế những nguy cơ sinh tồn của
cuộc chiến tranh lạnh mới này – và đặc
biệt là để tránh một cuộc hạ màn
đầy thảm khốc trong tiềm tàng về t́nh
trạng tranh chấp của Đài Loan. Như trong thập
niên 1970, nhiều chuyên gia chỉ trích phương cách
này trong cuộc tranh luận hiện nay về chính sách
của Mỹ đối với Trung Quốc. Elbridge Colby, người
có suy nghĩ sâu sắc nhất trong thế hệ
mới của các chiến lược gia bảo
thủ, đă khuyến khích chính quyền Biden áp
dụng “chiến lược phủ nhận” để
ngăn chặn Trung Quốc thách thức về mặt
quân sự trong hiện trạng mà Đài Loan được
hưởng quyền tự trị trên thực tế và
một nền dân chủ thịnh vượng. Đôi khi, dường
như chính quyền Biden tự đặt vấn đề
về chính sách mơ hồ trong chiến lược
về Đài Loan kéo dài nửa thế kỷ, trong đó
không rơ liệu Mỹ có sử dụng quân lực
để bảo vệ ḥn đảo này không. Và
gần như có một sự đồng thuận trong
lưỡng đảng rằng, kỷ nguyên cam kết
trước đây với Bắc Kinh là một sai
lầm, dựa trên giả định lầm lạc
rằng, tăng cường thương mại với
Trung Quốc sẽ tự do hóa hệ thống chính
trị một cách kỳ diệu. Tuy nhiên, không có lư
do chính đáng là tại sao các siêu cường của
thời đại chúng ta, giống như những người
tiền nhiệm của họ trong thập niên 1950 và
1960, phải chịu đựng 20 năm bên miệng
hố của chiến tranh trước khi có giai đoạn
giảm căng thẳng của Chiến tranh Lạnh. Giảm căng
thẳng 2.0 chắc chắn sẽ được yêu
chuộng hơn là chạy theo một phiên bản
mới như cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba
hay đối với Đài Loan, nhưng với vai tṛ
đảo ngược: Nhà nước cộng sản
phong tỏa ḥn đảo tranh chấp gần đó và
Hoa Kỳ phải tiến hành phong tỏa, với
tất cả các rủi ro kèm theo. Đó chắc
chắn là những ǵ mà Kissinger tin tưởng trong năm
cuối cùng của cuộc đời dài của ḿnh.
Đó là động lực chính cho chuyến thăm
cuối cùng của Kissinger tới Bắc Kinh ngay sau sinh
nhật lần thứ 100 của ông. Giống như t́nh
trạng ḥa hoăn 1.0, một sự ḥa hoăn mới sẽ
không có nghĩa là xoa dịu Trung Quốc, càng không mong
đợi đất nước này thay đổi.
Điều đó có nghĩa là, lại một lần
nữa, tham gia vào vô số cuộc đàm phán: Về
kiểm soát vũ khí (rất cần thiết khi Trung
Quốc điên cuồng xây dựng lực lượng
của ḿnh trong mọi lĩnh vực); về thương
mại; về chuyển giao công nghệ, biến đổi
khí hậu, trí tuệ nhân tạo; và trên không gian.
Giống như SALT, các cuộc đàm phán này sẽ kéo
dài và tẻ nhạt – thậm chí có thể không có
kết quả. Nhưng chúng sẽ là “cuộc chạm
trán” mà Thủ tướng Anh Winston Churchill thường
thích là có chiến tranh hơn. Đối với Đài
Loan, các siêu cường có thể làm tồi tệ hơn
là phủi sạch lời hứa cũ của họ, do
Kissinger đưa ra, là đồng ư các vấn đề
không đồng ư. Tất nhiên, t́nh
trạng giảm căng thẳng không làm nên điều
kỳ diệu. Trong thập niên 1970, nó đă bị bán
đổ bán tháo và mua với giá quá mắc. Chính sách
này chắc chắn đă mang lại cho Hoa Kỳ
nhiều thời gian, nhưng đó là một chiến lược
cờ vua có lẽ đ̣i hỏi quá nhiều sự hy
sinh nhẫn tâm của các quân cờ nhỏ hơn trên
bàn cờ. Bối rối trước
sự phản đối của Hoa Kỳ đối
với sự can thiệp của đất nước
ông vào Angola, một nhà phân tích Liên Xô đă nhận xét:
“Người
Mỹ các bạn đă cố gắng bán việc ḥa hoăn
như chất tẩy rửa và tuyên bố rằng nó
sẽ làm mọi thứ mà một chất tẩy
rửa có thể làm”. Cuối cùng,
giới phê b́nh đă thành công trong việc đầu
độc thuật ngữ này. Vào tháng 3 năm 1976, Ford
đă cấm sử dụng nó trong chiến dịch tái
tranh cử của ông. Nhưng không bao giờ có một
sự thay thế khả thi. Khi được
hỏi liệu ông có một thuật ngữ thay thế
không, Kissinger đưa ra một câu trả lời dí
dỏm đặc trưng. Ông nói: “Tôi
đă nhảy múa xung quanh ḿnh để t́m một người,
giảm căng thẳng, giảm căng thẳng. Chúng
ta cũng có thể kết thúc với từ cũ
một lần nữa”. Hiện nay, chính
quyền Biden đă giải quyết vấn đề
bằng cách dùng từ riêng của ḿnh: “giảm
rủi ro”. Nó không phải là tiếng Pháp, nhưng nó
hầu như cũng không phải là tiếng Anh.
Mặc dù khởi điểm của cuộc chiến
tranh lạnh này là khác biệt, v́ sự tương
thuộc về kinh tế ngày nay lớn hơn nhiều
giữa các siêu cường, về cơ bản,
chiến lược tối ưu có thể trở nên
giống như trước đây. Nếu sự ḥa hoăn
mới bị chỉ trích, th́ giới phê b́nh không nên
giải thích sự sai lầm của nó theo cách mà
sự ḥa hoăn của Kissinger thường bị xuyên
tạc bởi nhiều kẻ thù của ông – kẻo
họ thấy ḿnh giống như Reagan trước
đây, về cơ bản cũng làm như vậy khi
họ ngồi ở Pḥng Phân tích T́nh h́nh. _______ Tác giả:
Naill Ferguson là thành viên nghiên cứu cấp cao của
Học viện Hoover, Đại học Standford. Ông là tác
giả cuốn sách Kissinger:
1923–1968; The Idealist. Bài liên quan: Đánh
giá Henry Kissinger — Di
sản của Henry Kissinger — Henry
Kissinger đă bỏ rơi miền Nam như thế nào? — Richard
Nixon, Henry Kissinger và Sự Sụp Đổ Của
Miền Nam — Hồ
sơ tội trạng của Henry Kissinger (Hết) |