Kissinger
và ư nghĩa đích thực của t́nh trạng ḥa
hoăn (Kỳ
1) Tác giả: Niall Ferguson Đỗ Kim Thêm dịch |
Số tháng 3 và tháng
4-2024 Tóm tắt:
Tái tạo chiến lược Chiến tranh Lạnh cho
việc cạnh tranh với Trung Quốc Rất ít từ nào
được liên kết một cách chặt chẽ
với Henry Kissinger hơn là từ “ḥa hoăn”.
Thuật ngữ này lần đầu tiên được
sử dụng trong ngành ngoại giao vào đầu
thập niên 1900, khi vị đại sứ Pháp tại
Đức đă cố gắng – nhưng thất
bại – để cải thiện mối quan hệ
đang xấu đi của đất nước ông
với Berlin, và vào năm 1912, khi các nhà ngoại giao Anh
cố gắng làm điều tương tự. Nhưng t́nh
trạng ḥa hoăn chỉ trở nên nổi tiếng trong
phạm vi quốc tế vào cuối thập niên 1960 và
1970, khi Kissinger, đầu tiên là cố vấn an ninh
quốc gia Hoa Kỳ và sau đó là ngoại trưởng
Hoa Kỳ, đi tiên phong trong chính sách trở thành tên
của ông: Giảm bớt các việc căng thẳng
giữa Liên Xô và Hoa Kỳ. Không nên nhầm
lẫn việc ḥa hoăn với t́nh thân hữu. Đó không
phải là việc thiết lập một t́nh bạn
với Moscow mà là việc giảm thiểu các rủi ro
để một cuộc chiến tranh lạnh sẽ
trở thành nóng. Kissinger giải thích trong hồi kư
của ḿnh: “Hoa
Kỳ và Liên Xô là đối thủ về ư thức
hệ. Giảm căng thẳng không thể thay đổi
điều đó. Thời đại hạt nhân
buộc chúng ta phải cùng tồn tại. Các cuộc
thập tự chinh về hùng biện cũng không
thể thay đổi điều đó”. Đối với
Kissinger, ḥa hoăn là một con đường trung dung
giữa sự xâm lược đă dẫn đến
Đệ nhất Thế chiến, “khi
châu Âu, bất chấp sự tồn tại của
một sự cân bằng quân sự, cuốn hút vào
trong một cuộc chiến không ai muốn” và
sự nhân nhượng mà ông tin rằng đă dẫn
đến Đệ nhị Thế chiến, “khi
các nền dân chủ không hiểu được âm mưu
của một kẻ xâm lược toàn trị”. Để theo đuổi
việc ḥa hoăn, Kissinger t́m cách kết giao với Liên Xô
trong nhiều vấn đề, bao gồm việc
kiểm soát vũ khí và thương mại. Ông cố
gắng thiết lập “sự liên kết”, một
từ khóa khác của thời đại, giữa
những thứ mà Liên Xô dường như muốn (ví
dụ, tiếp cận tốt hơn với nền công
nghệ Mỹ) và những thứ mà Hoa Kỳ biết
họ muốn (ví dụ, hỗ trợ cho việc
tự thoát ra khỏi Việt Nam). Đồng
thời, Kissinger sẵn sàng chiến đấu bất
cứ khi nào ông nhận ra rằng Liên Xô đang làm
việc để mở rộng phạm vi ảnh hưởng
của họ, từ Trung Đông đến Nam Phi. Nói cách
khác và như chính Kissinger đă nói, ḥa hoăn có nghĩa
là chấp nhận “cả
răn đe và cộng sinh, cả ngăn chặn và
nỗ lực giảm căng thẳng”. Nếu t́nh cảm
thực dụng đó cộng hưởng trong năm
thập niên sau, đó là bởi v́ các nhà hoạch
định chính sách ở Washington dường như
đă đi đến một kết luận tương
tự về Trung Quốc, quốc gia mà Tổng
thống Mỹ Joe Biden và toán cộng sự về an
ninh quốc gia dường như đă sẵn sàng
thử một phiên bản của riêng ḿnh về ḥa hoăn. Ông Biden nói với
nhà lănh đạo Trung Quốc Tập Cận B́nh ở
California hồi tháng 11: “Chúng
ta phải bảo đảm rằng, cạnh tranh không
biến thành xung đột, chúng ta cũng có trách
nhiệm với dân chúng và thế giới để
hợp tác khi chúng ta thấy nó có lợi ích của chúng
ta để làm như vậy”. Jake Sullivan, Cố
vấn An ninh Quốc gia của Biden, cũng đưa ra
một quan điểm tương tự trong bài
tiểu luận trên trang báo này hồi năm ngoái. Ông
viết: “Cuộc
thi tài thực sự mang tính toàn cầu, nhưng không
phải là tṛ chơi tổng bằng không. Những thách
thức chung mà hai bên phải đối mặt là chưa
từng có”. Để diễn giải lời
của Kissinger, Hoa Kỳ và Trung Quốc là những
đối thủ chủ yếu. Nhưng kỷ nguyên
hạt nhân và biến đổi khí hậu, chưa
kể đến trí tuệ nhân tạo, buộc cả
hai phải cùng cộng sinh. Nếu việc ḥa
hoăn đang tạo ra sự trở lại trong toàn
diện nhưng chỉ với cái tên, vậy th́
tại sao nó lại lỗi thời? Sau cái chết
của Kissinger hồi tháng 11-2023, giới chỉ trích ông
thuộc cánh tả đă nhanh chóng lặp lại danh sách
các cáo trạng cũ của họ, từ vụ ném bom
thường dân ở Campuchia cho đến việc
ủng hộ các nhà độc tài ở Chile, Pakistan và
những nơi khác. Đối với
giới cánh tả, Kissinger đă nhân cách hóa một chính
sách thực dụng máu lạnh mà nó đặt nhân
quyền ở Thế giới thứ ba phụ thuộc
vào việc ngăn chặn. Đây là khía cạnh
của việc ḥa hoăn mà Tổng thống Mỹ Jimmy
Carter phản đối. Nhưng gần đây, người
ta ít nghe nói về những lời chỉ trích đầy
bảo thủ đối với Kissinger, họ cho
rằng chính sách của Kissinger đồng nghĩa
với sự nhân nhượng. Là thống đốc
tiểu bang California, Ronald Reagan đă dành những năm
1970 để chỉ trích việc ḥa hoăn như là “con
đường một chiều mà Liên Xô đă sử
dụng để theo đuổi các mục tiêu của
ḿnh”. Ông chế nhạo Kissinger là đă
chấp nhận khi Liên Xô khai thác về sự ḥa hoăn
một cách đạo đức giả, chẳng
hạn như khi họ và đồng minh Cuba giành
được thế thượng phong ở Angola trong
thời hậu thuộc địa. Trong lần tranh
cử tổng thống đầu tiên hồi năm
1976, Reagan nhiều lần cam kết sẽ loại
bỏ chính sách đó nếu ông đắc cử. Ông
tuyên bố hồi tháng Ba năm đó: “Dưới
thời các ông Kissinger và Ford, quốc gia này đă
trở thành hạng nh́ về sức mạnh quân
sự trong một thế giới mà nguy hiểm –
nếu không muốn nói là do định mệnh an bài
– là đứng loại tốt vào hàng thứ hai”. Reagan hầu như
không phải là một ngoại lệ. Vào thời điểm
ông phát biểu, giới diều hâu trong cả chính
phủ đă chán ngấy với phương cách
của Kissinger. Theo lời của Thượng nghị sĩ
Clifford Case ở New Jersey, đảng Cộng ḥa thường
phàn nàn quen thuộc rằng: “Những
thắng lợi đạt được trong việc
giảm căng thẳng đă tăng tích luỹ cho phía
Liên Xô”. Vượt qua dị biệt về
chính kiến, Robert Byrd, Thượng nghị sĩ đảng
Dân chủ của tiểu bang West Virginia đă chọc
giận Kissinger bằng cách cáo buộc Kissinger đă “đặt
niềm tin to tát nơi nước Nga Cộng sản”
và thông qua việc ḥa hoăn, “ôm ấp” lấy Moscow. Trong khi đó, quân
đội Mỹ cho rằng việc theo đuổi ḥa
hoăn là thừa nhận thất bại. Năm 1976, Elmo
Zumwalt, người vừa nghỉ hưu trong cương
vị Tư lệnh Hải quân Hoa Kỳ, lập
luận rằng, Kissinger tin rằng Hoa Kỳ đă “vượt
qua đỉnh cao lịch sử như rất nhiều
nền văn minh trước đó”. Cũng
giống như sự nhân nhượng, vốn bắt
đầu như một thuật ngữ đáng kính,
đă trở nên tai tiếng vào năm 1938, việc ḥa
hoăn đă trở thành một từ bẩn thỉu –
và nó như vậy ngay cả trước khi Kissinger
rời khỏi nhiệm sở. Tuy nhiên, việc ḥa
hoăn trong thập niên 1970 không giống như sự xoa
dịu trong thập niên 1930, cả về cách thức
hoạt động lẫn trong kết quả mà nó
tạo ra. Không giống như nỗ lực của Anh và
Pháp nhằm mua chuộc Adolf Hitler bằng những nhượng
bộ lănh thổ, Kissinger và các tổng thống
của ông ta cố gắng kiềm chế sự bành trướng
của đối thủ. Và không giống như
việc xoa dịu, ḥa hoăn đă tránh một cuộc
thế chiến một cách thành công. Viết vào giữa
thập niên 1980, nhà khoa học chính trị Harvey Starr
đă đếm được sự gia tăng đáng
kể về tỷ lệ giữa các hành vi hợp tác
và xung đột trong mối quan hệ Mỹ – Liên Xô
dưới thời chính quyền Nixon. Số lượng
các cuộc xung đột dựa trên nhà nước
thấp hơn trong thời của Kissinger (1969 – 1977) so
với những năm sau đó và ngay trước đó. Nửa thế
kỷ sau, khi Washington thích nghi với thực tế
của một cuộc chiến tranh lạnh mới,
sự ḥa hoăn một lần nữa có thể bị
trật đường rầy bởi phe diều hâu. Các
chính trị gia đảng Cộng ḥa thích miêu tả
đối thủ của họ là mềm mỏng
với Trung Quốc, giống như những người
tiền nhiệm của họ đă miêu tả đối
thủ của họ là mềm mỏng với Liên Xô
trong thập niên 1970. Chẳng hạn như Tom Cotton, Thượng
nghị sĩ của tiểu bang Arkansas, tuyên bố
rằng, Biden đang “bảo
vệ quá mức và xoa dịu những người
cộng sản Trung Quốc”. Chiến dịch
tranh cử của cựu Tổng thống Donald Trump cáo
buộc Biden “yếu
đuối” “tiếp tục tạo thêm gây hấn”
đối với Đài Loan. Những cáo
buộc này không có ǵ đáng ngạc nhiên; luôn luôn thu
hút đối với đảng Cộng ḥa để
làm sống lại tinh thần của Reagan và lặp
lại lời chỉ trích về ḥa hoăn. Nhưng có
một mối nguy hiểm là cả hai đảng đang
hiểu sai về những bài học của thập niên
1970. Khi ủng hộ
việc ngăn chặn Trung Quốc không khoan nhượng,
đảng Cộng ḥa có thể đang đánh giá cao
khả năng chiếm ưu thế của Mỹ trong
trường hợp xảy ra đối đầu.
Để tránh t́nh trạng leo thang, chính quyền Biden có
thể đánh giá thấp tầm quan trọng của
việc răn đe như một thành phần của
việc ḥa hoăn. Bản chất
của chiến lược của Kissinger là kết
hợp sự can dự và ngăn chặn theo một cách
được tư vấn tốt đẹp dựa trên
t́nh trạng của nền kinh tế Mỹ và dư
luận Mỹ trong thập niên 1970, hoặc điều
mà Liên Xô thích gọi là “tương quan lực lượng”.
Một sự kết hợp tương tự là
cần thiết cho ngày nay, đặc biệt là khi
mối tương quan của các lực lượng
thuận lợi hơn cho Bắc Kinh so với Moscow. (C̣n tiếp) |