Kissinger
và ư nghĩa đích thực của t́nh trạng ḥa
hoăn (Kỳ 2) Tác giả: Niall Ferguson Đỗ Kim Thêm dịch |
Bên bờ vực
thẳm Ngày nay, giới phê
b́nh khoa bảng của Kissinger tinh tế hơn, không phàn
nàn rằng Liên Xô đă thoát ra khỏi t́nh trạng ḥa
hoăn nhiều hơn Hoa Kỳ. Thay vào đó, họ
lập luận rằng Kissinger đă nhiều lần sai
phạm khi nh́n mọi vấn đề qua lăng kính
của Chiến tranh Lạnh và ứng xử với
mọi cuộc khủng hoảng như thể nó mang tính
quyết định đối với cuộc đấu
tranh chống lại Moscow. Như nhà sử
học Jussi Hanhimaki đă viết trong một bài cáo
buộc dài như một cuốn sách, Kissinger cho
rằng đó là hiển nhiên “khi kiềm chế
sức mạnh của Liên Xô – nếu không phải là
ư thức hệ cộng sản – phải là mục tiêu
chủ yếu trong chính sách đối ngoại của
Mỹ”. Bài phê b́nh này
phản ánh những nỗ lực mà các nhà sử
học đă thực hiện trong những năm
gần đây để tập trung vào những đau
khổ của những người dân sống ở các
quốc gia bị mắc kẹt trong cuộc chiến
tranh lạnh. Nhưng nó đánh giá thấp về
mức độ đe dọa của Liên Xô đối
với Hoa Kỳ ở Thế giới thứ ba. Bất
kể đại sứ Liên Xô xảo quyệt Anatoly
Dobrynin có thể nói ǵ với Kissinger, Điện Kremlin
không coi việc ḥa hoăn là bất cứ điều ǵ
khác ngoài vỏ bọc cho chiến lược giành
lợi thế trước Washington. Như trong một báo
cáo năm 1971 gửi cho Bộ Chính trị nêu rơ, Liên Xô
muốn Hoa Kỳ “tiến
hành các vấn đề quốc tế của ḿnh theo
cách không tạo ra nguy cơ của việc đối
đầu trực tiếp”, nhưng chỉ v́
làm như vậy có thể khiến cho Washington “nhận
ra được sự cần thiết của phương
Tây để thực hiện lợi ích của Liên Xô”.
Để đạt được mục tiêu này, báo
cáo kêu gọi Bộ Chính trị “tiếp
tục sử dụng lợi ích khách quan của chính
phủ Mỹ trong việc duy tŕ liên lạc và tổ
chức các cuộc đàm phán với Liên Xô”. Kissinger không
biết ǵ về tài liệu này, nhưng nó sẽ không
làm ông ngạc nhiên. Ông không có ảo tưởng
về tṛ chơi đang được bày ra bởi các
bậc thầy của Dobrynin. Rốt cuộc, Liên Xô cũng
tuyên bố công khai vào năm 1975, rằng việc ḥa hoăn
không ngăn cản họ tiếp tục “ủng
hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc”
chống lại “hiện
trạng về chính trị xă hội”. Như Kissinger đă
nói với nhà b́nh luận Joe Alsop vào năm 1970: “Nếu
Liên Xô nghĩ rằng một thỏa thuận về t́nh
trạng quân b́nh hạt nhân sẽ phục vụ cho
lợi ích của họ, một mặt, họ hoàn toàn
có khả năng đạt được một
thỏa thuận như vậy, trong khi mặt khác,
họ cố gắng cắt cuống bao tử của chúng
tôi”. Tuy nhiên, mặc dù
Kissinger biết rằng, Điện Kremlin có động
cơ thầm kín, ông vẫn tiến hành việc ḥa hoăn
v́ một lư do đơn giản: Lựa chọn tương
ứng bảo thủ, quay trở lại chính sách bên
miệng hố của chiến tranh trong thập niên 1950
và 1960, nó có nguy cơ của một cuộc chiến
tận thế bằng hạt nhân. Kissinger nói với
cử toạ ở Minneapolis hồi năm 1975: “Không
có lựa chọn nào khác cho việc cộng sinh. Cả
Liên Xô và Mỹ đều có khả năng phá hủy
đời sống văn minh”. Do đó,
việc ḥa hoăn là một mệnh lệnh đạo
đức. Kissinger lập luận vào năm sau: “Chúng
ta có một nghĩa vụ lịch sử để cam
kết với Liên Xô và đẩy lùi bóng tối
của thảm họa về hạt nhân”. Những quan tâm này
không khiến cho Kissinger trở thành người ủng
hộ cho việc giải trừ vũ khí hạt nhân.
Sau khi nổi danh như là một trí thức
của công chúng với cuốn sách có tựa đề
“Vũ
khí hạt nhân và Chính sách đối ngoại”,
ông vẫn c̣n quan tâm đến khả năng xảy
ra một cuộc chiến tranh hạt nhân hạn
chế, cũng như ông kinh hoàng trước viễn
cảnh của một cuộc chiến toàn diện. Vào
mùa xuân năm 1974, thậm chí Kissinger c̣n yêu cầu
Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân đề
ra một phản ứng về hạt nhân hạn
chế đối với một cuộc xâm lược
giả định của Liên Xô ở Iran. Nhưng khi ông
được tường tŕnh về bản dự
thảo kế hoạch vài tuần sau đó, ông ta
rất kinh hoàng. Lầu Năm Góc đề xuất
bắn khoảng 200 vũ khí hạt nhân vào các cơ
sở quân sự của Liên Xô gần biên giới Iran.
Kissinger hét lên: “Các
anh mất trí rồi sao? Đây là một lựa
chọn hạn chế sao?” Khi các tướng
lĩnh trở lại kế hoạch chỉ sử
dụng một quả nguyên tử và hai vũ khí
hạt nhân để làm nổ tung hai con đường
từ lănh thổ của Liên Xô vào đến Iran, ông
đă hoài nghi. “Đây là cuộc tấn công
hạt nhân thuộc loại nào?” ông
hỏi. Một tổng thống Mỹ sử dụng quá
ít vũ khí sẽ bị Điện Kremlin coi là “gà”.
Vấn đề, như ông biết rơ, là không bao
giờ có thể chắc chắn rằng Liên Xô sẽ
phản ứng một cách hạn chế đối
với bất kỳ cuộc tấn công hạt nhân nào
của Mỹ. Quan điểm
của Kissinger về vũ khí hạt nhân đă
khiến những giới bảo thủ chỉ trích ông,
đặc biệt là những người trong Lầu Năm
Góc. Họ tức giận với phương cách
của Kissinger trong các cuộc đàm phán hạn
chế về vũ khí chiến lược (the Strategic
Arms Limitation Talks, SALT) bắt đầu vào tháng 11 năm
1969 và mở đường cho việc thỏa
thuận kiểm soát vũ khí quan trọng đầu tiên
giữa Mỹ và Liên Xô. Vào tháng 9 năm 1975, Cơ quan
T́nh báo Quốc pḥng đă lưu hành một bảng
ước tính t́nh báo dài mười trang, trong đó
khẳng định rằng, Liên Xô đă lừa đảo
một cách đạo đức giả trong các cam
kết về SALT của ḿnh để đạt
được ưu thế hạt nhân. Cuộc tranh
luận lại bùng lên trong những ngày cuối cùng
của chính quyền Ford, khi các báo cáo của CIA và Cơ
quan T́nh báo Quốc pḥng cho rằng, Moscow đang t́m
kiếm sự vượt trội, không phải là ngang
bằng, khi nói đến vũ khí hạt nhân. Các quan
chức trong chính phủ tuyên bố rằng, Kissinger
biết điều này nhưng đă chọn cách cho nó
thông qua. Những lời
chỉ trích này hoàn toàn không sai. Liên Xô đă đạt
được sự cân bằng về số lượng
tên lửa đạn đạo xuyên lục địa
(intercontinental ballistic missiles, ICBM) vào cuối thập niên
1960 và dẫn đầu rất lớn về megaton vào
năm 1970. Một số ICBM này mang theo các phương
tiện tái nhập trong mục tiêu lớn và độc
lập, mà nó có thể bắn một cụm đầu
đạn vào nhiều mục tiêu. Nhưng Hoa Kỳ
vẫn giữ được lợi thế là năm
chọi một trong các tên lửa đạn đạo
phóng từ tàu ngầm vào năm 1977. Lợi thế
của Mỹ về vũ khí hạt nhân mang theo máy bay
ném bom thậm chí c̣n lớn hơn: 11 so với một.
Và Moscow chưa bao giờ tiến gần đến
việc có đủ tên lửa đạn đạo
để thực hiện một cuộc tấn công
chống lại các gia sản về hạt nhân của
Mỹ mà nó khiến Washington không thể đáp trả
bằng cuộc tấn công hạt nhân. Thật ra, các
cuộc phỏng vấn với các sĩ quan cao cấp
của Liên Xô sau Chiến tranh Lạnh cho thấy vào
đầu thập niên 1970, giới lănh đạo quân
sự đă bác bỏ quan điểm cho rằng, Liên Xô
có thể thắng trong một cuộc chiến tranh
hạt nhân. Sự phát triển tiếp theo của kho vũ
khí hạt nhân của đất nước chủ
yếu là kết quả của t́nh trạng bất
biến từ phía tổ hợp công nghiệp quân
sự. Kissinger đă chia
sẻ quan điểm của các đối tác Liên Xô
trong một mức độ. Quan điểm của ông
từ thập niên 1950 là, một cuộc chiến tranh
hạt nhân toàn diện là quá thảm khốc để
cho bất cứ ai thắng trận. Do đó, các chi
tiết về quy mô và chất lượng của các
kho vũ khí hạt nhân của hai siêu cường
khiến cho ông quan tâm ít hơn nhiều so với cách
ngoại giao về ḥa hoăn mà nó có thể làm giảm
đi nguy cơ về cuộc chiến tận thế. Ông cũng tin
rằng, sự ngang bằng về số lượng
hạt nhân của Liên Xô cuối cùng sẽ chứng
minh là không bền vững, v́ nền kinh tế của
Liên Xô nhỏ hơn nhiều so với nền kinh
tế của Hoa Kỳ. “Cơ
sở kinh tế và công nghệ làm nền tảng cho
sức mạnh quân sự phương Tây vẫn vượt
trội về quy mô và khả năng đổi mới”. Trong một bài phát
biểu năm 1976, Kissinger nói thêm: “Chúng
ta không có ǵ phải lo sợ về việc cạnh
tranh: Nếu có một cuộc cạnh tranh quân sự,
chúng ta có sức mạnh để bảo vệ
lợi ích của ḿnh. Nếu có một cuộc
cạnh tranh kinh tế, chúng ta đă thắng từ lâu”. (C̣n tiếp)
|