Kissinger
và ư nghĩa đích thực của t́nh trạng ḥa
hoăn (Kỳ 3) Tác giả: Niall Ferguson Đỗ Kim Thêm dịch |
Thua trong trận, nhưng
thắng trong cuộc chiến Giới bảo
thủ phản đối Kissinger v́ những lư do vượt
ra ngoài sự khoan dung của ông đối với
sự ngang bằng về hạt nhân của Liên Xô. Phe
diều hâu cũng lập luận rằng, Kissinger đă
quá sẵn sàng để chấp nhận điểm
bất công của hệ thống Xô Viết – mặt
trái lời phàn nàn của những người theo
chủ thuyết tự do, rằng ông đă quá sẵn
sàng để dung thứ cho đặc điểm
bất công của các chế độ độc tài
theo cánh hữu. Vấn đề này
đă trở nên nổi bật về hạn chế
của Liên Xô đối với việc di cư của
người Do Thái và đối xử với những
người bất đồng chính kiến của Liên
Xô, chẳng hạn như tác giả Aleksandr Solzhenitsyn.
Khi Solzhenitsyn đến Hoa Kỳ trong thập niên 1970
(sau khi bị trục xuất khỏi Liên Xô), Kissinger
đă chọc giận giới bảo thủ bằng cách
khuyên Tổng thống Gerald Ford không nên gặp ông
[Solzhenitsyn]. Solzhenitsyn trở thành
một trong những đối thủ khó chịu
nhất của Kissinger. Tiểu thuyết gia này nói
hồi năm 1975: “Một
nền ḥa b́nh bao dung cho bất kỳ h́nh thức
bạo lực tàn bạo nào và bất kỳ liều lượng
lớn nào của nó chống lại hàng triệu người,
nó không có sự cao cả về đạo đức
ngay cả trong thời đại hạt nhân”.
Ông và giới phê b́nh bảo thủ khác lập
luận rằng, thông qua việc ḥa hoăn, Kissinger chỉ
đơn thuần cho phép mở rộng chủ nghĩa
cộng sản Liên Xô. Sự sụp đổ của Sài
G̣n năm 1975, Campuchia rơi vào địa ngục
của chế độ độc tài cộng sản
Pol Pot, sự can thiệp của Cuba – Liên Xô vào
cuộc xung đột tại Angola trong thời hậu
thuộc địa – những thất bại này và
những thất bại địa chính trị khác, dường
như minh chứng cho tuyên bố của họ. Reagan tuyên bố
hồi năm 1976, khi ông vận động chống
lại Ford trong cuộc bầu cử sơ bộ
tổng thống của đảng Cộng ḥa: “Tôi
tin vào ḥa b́nh mà ông Ford nói, nhiều như bất
kỳ người nào nói. Nhưng ở những nơi
như Angola, Campuchia và Việt Nam, sự b́nh an mà
họ đă biết là sự b́nh an của nấm
mồ. Tất cả những ǵ tôi có thể thấy là
những ǵ mà các quốc gia khác trên thế giới nh́n
thấy: Sự sụp đổ của ư chí Mỹ
và sự rút lui của sức mạnh Mỹ”. Không giống như
cáo buộc về t́nh trạng ưu thế trong hạt
nhân của Liên Xô, Kissinger không bao giờ phủ
nhận rằng, chủ nghĩa bành trướng
của Liên Xô ở thế giới thứ ba đặt
ra một mối đe dọa đối với sự ḥa
hoăn và sức mạnh của Mỹ. Ông nói trong một
bài phát biểu hồi tháng 11-1975: “Thời
gian không c̣n nhiều; việc tiếp tục cho một
chính sách can thiệp chắc chắn phải đe
dọa các mối quan hệ khác. Chúng ta sẽ linh
hoạt và hợp tác trong việc giải quyết các
xung đột, . . . Nhưng chúng ta sẽ không bao
giờ cho phép việc ḥa hoăn biến thành một
sự che đậy lợi thế đơn phương”. Tuy nhiên, thực
tế là trong trường hợp không có được
sự ủng hộ của Quốc hội – dù là
để bảo vệ cho miền Nam Việt Nam hay
Angola – chính quyền Ford không có lựa chọn nào khác
ngoài việc chấp nhận cho sự bành trướng
quân sự của Liên Xô, hoặc ít nhất là
chiến thắng của các lực lượng ủy
nhiệm của Liên Xô. Kissinger nói hồi
tháng 12 năm 1975: “Các
tranh chấp trong nước của chúng ta đang tước
đi khả năng của chúng ta cả trong việc
cung cấp các động lực cho sự ôn ḥa
[của Liên Xô] như trong các hạn chế đối
với đạo luật thương mại, cũng như
khả năng chống lại các hành động
quân sự của Liên Xô như ở Angola”. Tất nhiên, có
thể tranh luận ở mức độ nào mà
Kissinger hợp lư khi tuyên bố rằng, với sự
hỗ trợ liên tục của Quốc hội trong
việc viện trợ của Hoa Kỳ, miền Nam
Việt Nam và ngay cả Angola có thể đă thoát ra
khỏi được sự kiểm soát của
Cộng sản. Nhưng không c̣n
nghi ngờ ǵ nữa, khi Kissinger quan tâm đến
việc ngăn chặn sự lan rộng của các
hệ thống Xô Viết. Ông nói hồi năm 1974: “Sự
cần thiết cho việc hoà hoăn như chúng ta quan
niệm về nó không phản ánh sự tán thành về
cấu trúc trong nội địa của Liên Xô. Hoa
Kỳ luôn nh́n với sự cảm thông, với sự
đánh giá cao, về việc thể hiện
tự do tư tưởng trong tất cả các xă
hội”. Nếu Kissinger từ chối ủng
hộ Solzhenitsyn, đó không phải là v́ Kissinger khoan
dung (ít có thiện cảm bí mật hơn) với mô h́nh
Xô Viết. Đó là bởi v́ ông tin rằng Washington có
thể đạt được nhiều hơn
bằng cách duy tŕ mối quan hệ đang vận hành
với Moscow. Và trong việc này,
Kissinger chắc chắn đă có lư. Bằng cách
giảm bớt các căng thẳng cả ở châu Âu và
các nơi khác trên thế giới, việc ḥa hoăn đă
giúp cải thiện cuộc sống của ít nhất
một số người dưới sự cai trị
của Cộng sản. Việc di cư của người
Do Thái ra khỏi Liên Xô tăng lên trong giai đoạn
khi Kissinger đặc trách việc ḥa hoăn. Sau khi Thượng
nghị sĩ Dân chủ Henry “Scoop” Jackson của
Washington và giới diều hâu khác trong Quốc hội t́m
cách công khai gây áp lực buộc Moscow thả thêm người
Do Thái qua việc duy tŕ thỏa thuận thương
mại Mỹ – Xô Viết, việc di cư đă
giảm xuống. Giới phê b́nh
bảo thủ của Kissinger đă kịch liệt
phản đối việc Hoa Kỳ kư các Hiệp định
Helsinki vào mùa hè năm 1975, họ lập luận
rằng, chúng thể hiện cho việc phê chuẩn các
cuộc chinh phục của Liên Xô ở châu Âu trong
thời hậu chiến. Nhưng bằng cách
nhận cam kết của các nhà lănh đạo Liên Xô
về việc tôn trọng một số quyền dân
sự cơ bản của công dân của họ như
một phần của các hiệp định – một
cam kết mà họ không có ư định tôn trọng
– thỏa thuận cuối cùng đă làm xói ṃn tính
hợp pháp của việc cai trị của Liên Xô
ở Đông Âu. Không có sự
thật nào trong số này có thể cứu văn sự
nghiệp của Kissinger trong chính phủ. Ngay sau khi Ford
ra đi, Ngoại trưởng của ông cũng
vậy, không bao giờ trở lại nhiệm sở
quan yếu. Nhưng khái niệm chính về chiến lược
của Kissinger tiếp tục phát huy thành quả trong
nhiều năm sau, bao gồm cả các chỉ trích chính
về ḥa hoăn: Carter và Reagan. Carter đă chỉ
trích Nixon, Ford và Kissinger v́ không đủ ḷng thương
cảm trong chủ thuyết hiện thực của
họ, nhưng Zbigniew Brzezinski, cố vấn an ninh
quốc gia của chính ông [Carter], đă thuyết
phục ông nên cứng rắn với Moscow. Đến
cuối năm 1979, Carter buộc phải cảnh báo Liên
Xô rút quân khỏi Afghanistan, nếu không sẽ phải
đối mặt với “hậu quả nghiêm
trọng”. Về phần ḿnh,
Reagan cuối cùng đă chấp nhận việc ḥa hoăn
như là một chính sách của riêng ḿnh trong toàn
diện ngoại trừ tên gọi – và thực sự
đă vượt xa những ǵ mà Kissinger đă làm
để giảm bớt căng thẳng. Trong khi theo
đuổi việc xít lại gần nhau, Reagan đă
đồng ư giảm kho vũ khí hạt nhân của
Washington xuống một lượng lớn hơn
nhiều so với những ǵ Kissinger nghĩ đă là
thận trọng. “Kỷ nguyên Kissinger” không kết thúc
khi ông rời chính phủ hồi tháng Giêng năm 1977. Mặc dù đă
bị lăng quên, sự thật này được công
nhận bởi những người đương
thời nhiều tinh ư hơn của Kissinger. Chẳng
hạn như nhà b́nh luận bảo thủ William Safire
lưu ư rằng, chính quyền Reagan đă nhanh chóng
bị thâm nhập bởi “những người
thuộc phe Kissinger” và “những người theo tinh
thần ḥa hoăn”, ngay cả khi bản thân Kissinger
bị ngăn chặn. Thật ra, chính
quyền Reagan đă trở nên quá thích ứng đến
mức bây giờ đến lượt Kissinger lại
cáo buộc Reagan là quá mềm mỏng, chẳng hạn
như trong phản ứng của Reagan trước
việc áp đặt t́nh trạng thiết quân luật
ở Ba Lan. Kissinger phản đối các kế
hoạch xây dựng một đường ống
dẫn khí đốt tự nhiên từ Liên Xô đến
Tây Âu với lư donó , sẽ khiến phương Tây
“trở
thành đối tượng bị thao túng chính trị
nhiều hơn so với hiện nay”. (Về
sau được phát hiện lời cảnh báo này là
tiên đoán). Năm 1987, Nixon và
Kissinger đă lên tiếng trong trang xă luận của
tờ Los Angeles Times để cảnh báo rằng,
việc Reagan sẵn sàng thực hiện một thỏa
thuận với Mikhail Gorbachev, nhà lănh đạo Liên Xô,
đă đi quá xa, khi cả hai quốc gia sẽ
loại bỏ tất cả vũ khí hạt nhân
tầm trung của họ. Đối với lời
chỉ trích như vậy, Ngoại trưởng George
Shultz đă đưa ra một câu trả lời,
tiết lộ: “Bây
giờ chúng ta đă vượt quá sự ḥa hoăn”. (C̣n tiếp) |