GS VŨ
QUỐC THÚC :THƯỢNG THỌ BÁCH TUẾ GS.Lê Đình Thông |
Chúng
tôi đến vấn an GS Vũ Quốc Thúc vào cuối
tháng giêng âm lịch ở Nanterre. GS Thúc cho biết vào
mùa thu năm nay sẽ mừng thọ bách tuế. Theo
thống kê, các bậc bách niên (centenaire) chiếm
tỷ lệ 0,03% trên tổng số dân Pháp, trong đó
84% là phụ nữ. Như vậy, trăm tuổi
của GS Thúc thật là phước đức trời
cho, không phải ai cũng có được. Năm
tháng chỉ làm cho tấm thân mỏi mòn, ngược
lại sự minh mẫn, tinh anh vẫn tràn đầy.
Giọng nói của thầy sang sảng, như ngày xưa
trên bục giảng đại học. Thầy nói :‘‘Tôi
có may mắn được chứng kiến các các
thời kỳ hưng vong của quốc sử hiện
đại.’’ Thầy bùi ngùi nhớ lại cuốn
hồi ký ‘‘Thời Đại Của Tôi’’ : -
tập 1 : Nhìn lại 100 năm lịch sử.
-
tập 2 : Đời tôi trải qua các thời
biến.
Sau
đó, thầy ngâm nga bài cổ thi của Phạm
Mạnh Doanh : Diễm diễm hồ quang biểu lý khai Mông lung xuân sắc thượng cao đài Yên ba tình nhập Kim Liên tự Bồ tảo hàn sâm phượng chủy đôi Kích mộc hà nhân ca bạch thạch Bằng lan hữu tửu trữ thanh mai Bách niên vãng sự thành trù chướng Thân thế mang mang thủ trọng hồi. Bài
thơ này tác giả sáng tác đã lâu, không mấy ai
biết, vậy mà thầy đọc rành rọt
từng câu từng chữ, không một chút ngập
ngừng. Tôi xin chép lại như sau, kèm theo là bản
lược dịch : 昳昳湖光俵里開 曚曨春色上高臺 煙波情入金蓮寺 蒲藻寒參鳳嘴追 擊木何人歌帛祏 憑欄有酒佇青梅 百年往事宬惆悵 身世汒汒守重回 Bản dịch quốc ngữ : Ánh sáng ven hồ tỏa khắp nơi Mùa xuân thấp thoáng cuối chân trời Sương mù sóng phủ Kim Sơn tự Mải miết rong rêu phượng rã rời Mấy ai còn gõ bài thanh bạch Hiên nhà nhấp rượu ngóng cành mai Đau buồn sách vở không người chép Ngoảnh lại mai sau tiếc nuối hoài. Câu thơ ‘‘bằng lan hữu tử trữ
thanh mai’’ của Phạm Mạnh Doanh khiến
ta nhớ đến ‘‘Xuân Cảnh’’ (春景)
của vua Trần Nhân Tông : 客來不問人間事,
共倚欄杆看翠微. Khách lai bất vấn nhân gian sự, Cộng
ỷ lan can khán thúy vi. Xin tạm dịch : Bạn
đến thăm nhà không nói chuyện Lan
can ngắm nghía núi non xanh. Thầy
Thúc cho biết hai câu kết trong bài Vô Đề
của Phạm Mạnh Doanh: Bách
niên vãng sự thành trù chướng Thân
thế mang mang thủ trọng hồi đã
thúc giục thầy viết hồi ký, ghi chép ‘‘bách
niên vãng sự’’ (chuyện trăm năm đã qua),
để mai này các nhà viết sử tham khảo.
Trong
số các ‘‘bách niên vãng sự’’ có Phúc trình Vũ
Quốc Thúc - Staley (1961) và Kế họach kinh tế
hậu chiến, GS Thúc cùng với kinh tế gia Lilienthal
hình thành năm 1968. Trọng tâm của kế hoạch
gồm công tác khai hoang và điện khí hóa đồng
bằng sông Cửu Long. GS
Thúc thuật lại trong hội nghị thượng
đỉnh ngày 20/03/1967 tại đảo Guam, GS Thúc có
trong phái đoàn VNCH do trung tướng Nguyễn Văn
Thiệu, chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo
Quốc gia và thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ,
chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương cầm
đầu. Trong cuộc họp, tổng thống Hoa
Kỳ Lyndon Johnson ngồi trong chiếc ghế bành đầu
bàn hình bầu dục ; phái đoàn Việt Nam
ngồi chung quanh. Tổng thống Johnson yêu cầu GS Thúc
trình bầy về kế hoạch hậu chiến (The
Post War Plan). Điều này cho thấy ngay từ năm
1967, Hoa Kỳ đã chuẩn bị kết thúc chiến
tranh. Mặt khác, tổng thống Johnson đặt
nhẹ khả năng của các tướng lãnh, coi
trọng ý kiến của bậc thức giả. GS
Thúc còn đọc thêm một bài thơ chữ Hán khác,
do cụ Chu Thấp Hy là ông ngoại giáo sư sáng tác.
Cũng vẫn bằng một giọng diễn ngâm
trầm hùng, gợi nhớ lại thuở xa xưa
của ‘‘bách niên vãng sự’’ : Tân
hưng tuế tự trùng phùng Mão Minh
thịnh hoàn tư chấp tải tiền Khoa
lục dĩ thành diêu miễu chủ Quốc
ân tằng bái lộc minh duyên Trùng
tâm hảo mộng không trần tích Độc
đối xuân phong ức thiếu niên Đồng
bảng tính danh kim tỷ tại Xương
mang hồi thủ tư du nhiên.
Cụ
Lan Đình là thân phụ GS Thúc đã dịch sang thơ
quốc ngữ như sau : Gặp
khoa Kỷ Mão nữa là hai Nhớ
lại năm xưa sớm trổ tài Bảng
hổ đã thành pho chủ bỏ Tiệc
hươu từng đội chút ơn rơi Trông
xuân nhớ lại khi còn trẻ Ngắm
cảnh tìm đâu việc đã rồi Những
bạn đồng khoa còn có mấy Đoái trông non nước ngán cho đời. Ngày
tết Kỷ Hợi đã qua rồi. Mùa xuân bên Pháp
bắt đầu ngày 20/03/2019. Trông xuân nhớ
lại khi còn trẻ. Tuy là một nhà tây học, GS
Thúc thông thạo chữ Hán là nhờ thừa hưởng
khoa cử cựu trào của hai họ nội ngoại.
Sau
khi cáo biệt ra về, ngoài đường mưa lâm
râm, chưa phải là mưa xuân nhưng cũng không còn
sương tuyết của mùa đông xứ người.
GS.Lê
Đình Thông |