LÀM
SAO CHÂU Á THOÁT KHỎI MỐI ĐE DOẠ TỪ TRUNG
QUỐC? Đại-Dương |
Tài
liệu tham khảo: Why
the Coronavirus Is Making U.S.-China Relations Worse (National Interest) China's
sharp manufacturing recovery means little if world in recession (Nikkei) Covid-19
And Climate Change: Asia’s Policy Choices In The Age Of ‘Crisis’
(Forbes) How
the coronavirus is reshaping Asia's borders, business and trade (Nikkei Silent
coronavirus carriers ‘unlikely to set off another wave of infections’
(SCMP) LÀM SAO CHÂU Á THOÁT KHỎI MỐI ĐE DOẠ TỪ
TRUNG QUỐC? Đại-Dương Điều
kiện địa lư buộc các quốc gia Châu Á vướng
víu với nhau trên nhiều phương diện kinh
tế, ngoại giao, chiến tranh, di sản văn hoá. Trên
khía cạnh lạc quan, Châu Á có thể trở thành
một Lục địa phát triển và hùng mạnh
nhờ vào tiềm năng dân số đông nhất so
với các Châu Lục khác và tính cách đa dạng văn
hoá. Nhưng,
bi quan thể hiện qua các cuộc chiến triền miên
về sắc tộc hoặc xâm lược do tâm lư
“mạnh hiếp yếu”, khác biệt chính trị,
xung đột văn hoá; và bị Đế quốc Châu
Âu cai trị, xâu xé hàng thế kỷ. Giới
lănh đạo quốc tế tưởng rằng “toàn-cầu-hoá”
sẽ làm nhân loại xích lại gần hơn nhờ
giao thoa “người với người”, “dân
tộc với dân tộc”; “toàn-cầu-hoá kinh
tế” sẽ san bằng cách biệt giàu/nghèo. Ở
vị trí siêu cường duy nhất, Tổng thống
Donald Trump đă khám phá ra mọi khuyết tật
của toàn-cầu-hoá mà lên kế hoạch đối
phó. Các vị tiền nhiệm cũng đă nh́n
thấy một vài khía cạnh tiêu cực, nhưng, chưa
ai đề ra biện pháp đối phó quyết
liệt. Tất
nhiên, Trung Quốc phải sử dụng toàn bộ
sức mạnh của Đế quốc Đỏ và chư
hầu cùng bọn “tay sai ham tiền, hám danh”,
khắp năm Châu để phản bác, kể cả
những đ̣n phép bỉ ổi. Cuộc
chiến ngày càng quyết liệt giữa Chính và Tà,
Sai và Đúng. Đại dịch Virus Vũ Hán vô t́nh
cắt đứt sợi dây toàn-cầu-hoá ràng
buộc từ năm 1995 để cho chủ nghĩa dân
tộc trỗi dậy mănh liệt khắp mọi nơi.
Nhân
loại làm việc cật lực chẳng phải để
được ấm no, sung túc hay sao? Dân tộc không
phải đă hao công tốn của nhằm bảo
vệ ṇi giống và biên cương hay sao? Nhưng,
họ luôn luôn là miếng mồi ngon cho tham vọng bành
trướng bá quyền của các loại Đế
quốc. Các
dân tộc ở Châu Á thường xuyên phải đối
phó với chính sách bành trướng bá quyền
của “Trung Hoa Vàng” và “Trung Hoa Đỏ” do
tiếp cận biên cương hoặc nhờ khoảng
cách gần. Sau
Đệ nhị Thế chiến, “Trung Hoa Đỏ”
chính thức thành h́nh từ năm 1949 mở màn
chiến dịch bành trướng bá quyền bằng
sức mạnh quân sự như gây chiến với các
nước láng giềng qua chiêu bài “Chiến tranh Nhân
dân” sắt máu vô luân; hoặc gieo rắc nền chính
trị độc tài toàn trị lấy chủ nghĩa
Marx, Lenin và tư tưởng Mao làm nền tảng. Hướng
bành trướng bá quyền ở Đông Bắc Á trên
mọi phương diện kinh tế, chính trị, quân
sự bị chặn đứng bởi các dân tộc
Đại Hàn, Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông
đă liên kết chặt chẽ với Hoa Kỳ và Anh
Quốc làm cho “Đế quốc Trung Hoa Đỏ”
không c̣n cơ hội chiến thắng hoặc thống
trị. Kể
từ đó, chính sách bành trướng bá quyền
của “Trung Hoa Đỏ” ở Đông Bắc Á
chỉ tập trung vào quấy rối và gây căng
thẳng như “diện” để che dấu “điểm”
tại Đông Nam Á. “Trung
Hoa Đỏ” đồn nỗ lực tiến về hướng
Đông Nam Á, nơi có vùng biển nhiều tài nguyên
thiên nhiên nên dễ biến thành chiếc “ao nhà”
cần cho thao dượt quân sự và khai thác kinh
tế; thao túng chính trị từ các “hạt giống
đỏ” của Bắc Kinh. “Chiến
tranh Nhân dân” do Trung Quốc giật giây đă đẩy
các dân tộc Đông Nam Á, ngoại trừ Tân Gia Ba bé
bỏng, rơi vào các cuộc chiến tranh và xáo
trộn triền miên đến độ không ngóc
đầu lên nỗi mà đành chịu sự thống
trị của Bắc Kinh ở từng mức độ
khác nhau. Việt
Nam, Cambode, Lào rập khuôn “Trung Quốc Đỏ”.
Phi Luật Tân ngày càng hướng về Bắc Kinh khi
Tổng thống Rodrigo Duterte (2016-) công khai tuyên bố
“muốn thành một tỉnh của Trung Quốc” và
xa dần Hoa Thịnh Đốn đang rơi vào nguy cơ
xáo trộn chính trị. Mă Lai Á với 67% người
Hồi giáo, 23% gốc Trung Hoa nên dễ bị lệ
thuộc vào Bắc Kinh, đặc biệt trên phương
diện kinh tế. Indonesia với 87% Hồi giáo, 10% Công
giáo đă xảy ra vụ tàn sát 500,000 đến
một triệu đảng viên cộng sản và người
bị nghi ngờ do Trung tướng Suharto chỉ huy năm
1965. Brunei với 442,000 công dân, 66% Malay, 10% Trung Hoa
chịu ảnh hưởng của Anh Quốc nên công
nghiệp (dầu hoả và khí đốt) được
công nhận “quốc gia phát triển” với GDP
nominal 30,000 USD. Myanmar với nội chiến sắc
tộc triền miên, Chính phủ quân phiệt (1962-2010),
khủng hoảng Rohingya (Hồi giáo) và Phật giáo
tạo ra vụ thanh lọc ác liệt và triền miên làm
lu mờ thần tượng đấu tranh cho dân
chủ Aung San Suu Kyi (Khôi nguyên Giải Nobel Hoà B́nh 1991).
Ngoài
ảnh hưởng chính trị, Bắc Kinh c̣n làm các
quốc gia Đông Nam Á lệ thuộc vào kinh tế
Trung Quốc nhờ toàn-cầu-hoá. Khi các nước giàu
có đầu tư tài chính và kỹ thuật để
Trung Quốc trở thành “Công xưởng Thế
giới”. Số lượng sản xuất lớn
của Trung Quốc làm hạ giá thành phẩm đă
giết chết nền kỹ nghệ sản xuất
của các quốc gia Đông Nam Á tạo điều
kiện cho các sắc tộc Trung Hoa làm vệ tinh cho
Bắc Kinh trong sản xuất cũng như tiêu
thụ. Hậu quả rơ ràng là các quốc gia Đông
Nam Á bị thâm hụt mậu dịch với Trung
Quốc ngày càng nhiều, ngoại trừ Tân Gia Ba
được thặng dư. Chính
sách đồng hoá của Hán Tộc phát triển nhanh
hơn trong thời đại toàn-cầu-hoá mà các
quốc gia Đông Nam Á chưa có biện pháp ngăn
chặn tạo điều kiện cho Bắc Kinh lũng
đoạn: (1) Các công ty người gốc Hoa và Hoa
Kiều có mối quan hệ mật thiết với
Bắc Kinh sẽ áp chế các công ty bản địa
bằng hàng hoá giá rẻ, hàng nhái, hàng giả, hàng
lỗi; làm nơi chuyển tiếp cho hàng hoá từ Công
xưởng Thế giới để hưởng “ưu
đăi thuế quan” khi thâm nhập vào thị trường
Âu Mỹ. (2) Hủ hoá viên chức chính quyền,
hệ thống truyền thông bản địa để
hỗ trợ cho chính sách ngoại giao của Bắc
Kinh như trường hợp ngăn chặn Hiệp
hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) thực thi Phán
quyết ngày 12/07/2016 của Toà án Trọng tài Thường
trực về Luật Biển (PCA) liên quan đến yêu
sách chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Nam
Trung Hoa (SCS). (3) Hoa kiều kết hôn với phụ
nữ bản địa mà con của họ mang quốc
tịch Trung Hoa nên không bị luật pháp của nước
đó chế tài. (4) Tổng thống Ngô Đ́nh
Diệm, cha đẻ nền Đệ nhất Việt
Nam Cộng Hoà (1955-1963) đă chủ trương
củng cố tinh thần quốc gia, dân tộc nên
đề cao quốc học (buộc 162 trường Hoa
Kiều phải giảng dạy bằng Việt Ngữ,
Hoa Ngữ không quá 6 giờ/tuần. Hiệu trưởng
người Việt). Hạn chế quyền hạn kinh
tế của Ngoại Kiều (cấm Ngoại Kiều
làm 11 nghề liên quan đến sản xuất, vận
chuyển theo Sắc lệnh 53 năm 1956). Áp đặt
bổn phận công dân b́nh đẳng cho mọi người.
Hoa Kiều có hơn một triệu trong số 15
triệu người ở phía Nam vĩ tuyến 17.
Vấn đề Công dân với Hoa Kiều có Sắc
luật 48 năm 1956 quy định con của cha hoặc
mẹ sinh ra tại Việt Nam sẽ mang Việt
Tịch, tên họ phải đổi sang tiếng
Quốc Ngữ, tuân hành nghĩa vụ quân sự và
đóng thuế. Ai không phải có Việt Tịch
phải hồi hương hoặc bị trục
xuất sang Đài Loan. Ngoại Kiều trở lại
thao túng sau khi Tổng thống Diệm bị lật
đổ. Các
quốc gia Đông Nam Á coi thường chính sách “đồng
hoá tiệm tiến” của Trung Hoa phát triển
mạnh trong thời đại toàn-cầu-hoá nên rơi
vào các cuộc khủng hoảng triền miên và lệ
thuộc vào Trung Quốc mả chẳng biết. Họ
khác với Đại Hàn, Đài Loan, Hồng Kông nên
chỉ có Tân Gia Ba nằm trong nhóm Tứ Hổ Á Châu. Các
quốc gia Đông Bắc Á tiếp nhận hệ
thống chính trị tiến bộ, hiện đại
nên thúc đẩy mỗi công dân được tự
do cống hiến năng lực cho quốc gia. Họ cũng
được chuyển giao và hấp thụ kỹ
thuật Tây Phương làm cho đất nước
cất cánh bay xa. Nền
“kinh tế hậu Covid-2019” sẽ bước vào giai
đoạn khó khăn trầm trọng. Các quốc gia Tây
Phương đă nếm đủ mùi vị của
“Chủ nghĩa bành trướng toàn diện của
Bắc Kinh” nên sẽ không c̣n nuôi dưỡng “Công
xưởng Thế giới” hoặc những vệ
tinh của Trung Quốc. V́ thế, nhân cơ hội ngàn
năm một thuở này mà các quốc gia Đông Nam Á
phải hợp tác chặt chẽ với Tây Phương
như, Đại Hàn, Đài Loan, Hồng Kông, Tân Gia Ba
để sớm thành Hổ. Đại-Dương |