Làm
thế nào để tránh một thế chiến khác Tác
giả: Henry Kissinger Đỗ Kim Thêm dịch |
Lời người dịch: Trong bài viết sau
đây, Henry Kissinger cảnh báo về một thế
chiến mới có thể xảy ra và phương cách
tốt nhất là t́m cách tạo cho Nga một cơ
hội đàm phán trong danh dự. Ư kiến của
Kissinger c̣n nhiều điểm chưa thuyết
phục, cần được thảo luận sâu xa hơn. Một là, Kissinger đă đề cao vai tṛ
tích cực của Nga trong việc đóng góp cho ḥa b́nh
thế giới mà không đề cập đến các
chi tiết về tội ác Liên Xô cũ. Kissinger lập
luận: “Nga đă có những đóng góp quyết
định cho t́nh trạng quân b́nh trên toàn cầu và
cán cân quyền lực trong hơn nửa thiên niên
kỷ. Vai tṛ lịch sử của Nga không nên bị
hạ thấp”. Lịch sử của Liên Xô đă chứng
minh ngược lại. Từ thế kỷ XV-XVII, các
triều đại Iwan VI, Peter I hay Katherina II đă
mở rộng lănh thổ Liên Xô bằng quân sự,
tiến chiếm Ba Lan, Baltic, Biển Đen, Biển
Đông và nhiều vùng khác. Ngay đến thời Stalin và Chruschtchow, tham
vọng này vẫn c̣n được tiếp tục nuôi
dưỡng. Trong thế kỷ XX, Liên Xô đă can
thiệp quân
sự trực tiếp ở Đông Đức
(1953), Hungaria (1956), Tiệp Khắc (1968) và Afghanistan
(1979). Không có viện trợ quân sự hùng hậu
của Liên Xô, Bắc Việt không thể đạt
được chiến thắng năm 1975. Các can thiệp của Nga ở Ethiopia,
Angola, Syria, Iraq và Iran, gây xáo trộn cho các khu
vực, là một bằng chứng khác. Có lẽ điểm son duy nhất của
Liên Xô mà Kissinger đề cập là Breschnew và
Gorbatschow tham gia các hội nghị về giới hạn
vũ khí chiến lược (SALT I và II). Ngay trong năm
1978, 70% dân chúng Mỹ không tin tưởng thiện chí
hoà đàm của Liên Xô và Thượng Viện Mỹ
cũng nhiều lần t́m cách tŕ hoăn việc phê
chuẩn. Phủ nhận các bằng chứng này,
Kissinger đă chối bỏ thực tế lịch
sử hiếu chiến của Liên Xô để ca
ngợi chủ trương xâm lược của Nga ngày
nay. Hai là, chiến trường Ukraine chưa
định h́nh ưu thế chiến thắng cho Nga hay
Ukraine. Trước hết là Nga. Dù các nguồn tin không
thể kiểm chứng, nhưng số binh sĩ thương
vong đáng cho Putin phải lo ngại, trong đó việc
tăng cường 300.000 tân binh trừ bị là
một bằng chứng. Gần đây nhất, Putin bổ nhiệm
tướng Valeri Guerassimov, Tổng tham mưu trưởng
Quân đội Nga, làm Tổng Chỉ huy chiến trường
Ukraine, thay cho Sergey Surovikin. Quyết định này
cho thấy, quân đội Nga không hùng hậu và các
tướng lănh không tài ba như công luận thường
đề cập trong các biện pháp cải cách. Dù
với 100 ngàn quân và có hơn 4.000 xe tăng hỗ
trợ, việc tấn công Ukraine mang về kết
quả thảm hại. Lư do chính là binh pháp của Nga là
tạm bợ và công nghệ quân sự c̣n tụt
hậu. Theo các thăm ḍ hiện nay, Nga đang
chuẩn bị cho một đợt tấn công mới. Với binh pháp mới và việc tuyển
dụng thêm 500.000 tân binh, Putin hy vọng sẽ mang
lại tin vui trên chiến trường, nhưng không có
ǵ bảo đảm cho sự lạc quan này. Không v́ Nga suy yếu mà Ukraine chiếm
được nhiều ưu thế hơn trên
chiến trường. Dù tinh thần anh dũng, nhưng
Ukraine cần được trang bị nhiều xe tăng,
xe thiết giáp bộ binh để tiếp tục
chiến đấu. Các nước Pháp, Mỹ, Anh và
Đức sẽ cung cấp các loại vũ khí hiện
đại cho Ukraine, nhưng tốc độ c̣n quá
chậm so với nhu cầu khẩn cấp của
chiến trường. Cho đến nay, NATO vẫn
rất thận trọng v́ lo ngại Nga xem mọi h́nh
thức gián tiếp can thiệp là hành động leo
thang và trực tiếp tham chiến. Nói chung, cuộc chiến c̣n kéo dài. Do
khả năng cung cấp hạn chế, nên các nước
phương Tây cũng sẽ giảm mức yểm
trợ. Các nước châu Âu đều muốn
cuộc chiến kết thúc nhanh chóng v́ t́nh trạng giá
năng lượng tăng cao và lạm phát leo thang làm
cho dân chúng bất b́nh. Dư luận ở Mỹ,
những thay đổi gần đây cũng cho thấy
ít ủng hộ Ukraine hơn
so với ban đầu. Hậu quả chung cho
Ukraine là phải chịu nhiều thất thế trong khi
cần nhiều viện trợ vũ khí để có
thể chiến thắng. Lo ngại chung trong công luận vẫn là
vấn đề, nếu phương Tây tiếp
tục cung cấp th́ sẽ có nguy cơ leo thang thành
xung đột trực tiếp giữa Nga và NATO. Nhưng
điểm chính là tinh thần hiếu chiến của
Putin khó thay đổi nhanh chóng, bất cứ thỏa thuận nào, nếu có
trong tạm thời, cũng giúp Nga có thêm thời gian
chỉnh đốn và chuẩn bị cho các đợt
tấn công tiếp theo. Trong lúc này, các biến chuyển nghịch
lư sẽ c̣n tiếp tục diễn ra và khó phân
biệt ai thắng ai bại. Diễn biến chiến trường
càng khó lường th́ Nga có mất mặt hay thiện
chí hoà đàm không, đó không phải là yếu
tố liên quan như Kissinger đề cập. Ba là triển vọng hoà hội. Kissinger
có nói đến quyền dân tộc tự quyết
của Ukraine, nhưng trên cơ sở nào là vấn
đề nan giải. Cụ thể, đó là các
chủ đề thương thuyết mà Nga cần
phải chấp nhận: trao trả các vùng đă
chiếm đóng, rút quân và bồi thường cho
việc tái thiết hậu chiến. Liệu Liên
Hiệp Quốc có thể triệu tập một
hội nghị quốc tế không, là một vấn
đề chưa rơ. Đang hưởng lợi trong việc mua
năng lượng với giá rẻ của Nga, Trung
Quốc và Ấn Độ sẽ không hỗ trợ cho
một giải pháp nào bất lợi cho Nga. Nga là
một đồng minh cung cấp vũ khí cho Việt
Nam, nên Việt Nam không quan tâm đến việc Nga tái
lập hoà b́nh ở Ukraine. Việt Nam đă
bốn lần bỏ phiếu trắng và một lần
bỏ phiếu chống đối với các nghị
quyết của Liên Hiệp Quốc về vấn đề
Nga xâm lăng Ukraine. Nhiều giải pháp ngoại giao cực
đoan đă được thảo luận, thí dụ
như trục xuất Nga ra khỏi Hội đồng
Bảo an LHQ hay truất quyền phủ quyết tại
Hội đồng. Giới t́nh báo quân sự cũng
nghĩ đến các biện pháp thay thế Putin
bằng cách đảo chính hay đưa đi an trú. Nhưng
v́ nhiều lư do khác nhau, tất cả giải pháp này
đều không thể thực hiện được. Tóm lại, đề xuất của
Kissinger trong việc tái lập hoà b́nh cho Ukraine qua phương
thức ngoại giao là thiếu dẫn chứng lịch
sử và không khả thi. Tuy nhiên, cảnh báo của Kissinger có
một giá trị thực tế mà chúng ta cần quan tâm.
Khi diễn tiến chiến cuộc vượt
ra ngoài tầm kiểm soát của chính giới quốc
tế, việc định h́nh cho các chiến lược
trong tương lai đều do các máy móc được
trang bị bằng công nghệ tiên tiến và thông tin
nhân tạo đảm trách, nó có đủ khả năng
tự quy định và thực hiện, đó
là t́nh trạng nguy hiểm nhất. Do đó, Kissinger hợp lư khi cho rằng, để
tránh hai phía khỏi phải tiếp tục chịu thương
tổn, các loại vũ khí hạt nhân và quy ước
hiện đại không thể được phép
tiếp tục sử dụng, một t́nh trạng lư tưởng.
Sau đây là bản dịch: *** Thế chiến thứ nhất là một kiểu
tự sát văn hóa, làm hủy hoại thanh danh của
châu Âu. Theo như cách nói của nhà sử học
Christopher Clark, giới lănh đạo châu Âu đă
mộng du trong một cuộc xung đột, trong số
tham chiến không ai có thể tiên đoán được
thế giới lúc kết thúc cuộc chiến vào năm
1918. Trong những thập niên trước đó, họ
thể hiện sự cạnh tranh bằng cách tạo ra
hai tập hợp liên minh mà các chiến lược
đă trở nên liên kết nhau bởi lịch tŕnh
động viên riêng biệt. Do đó, vụ một người
theo chủ nghĩa dân tộc Serb sát hại Hoàng tử
Áo ở Sarajevo tại Bosnia năm 1914 đă leo thang thành
một cuộc chiến tranh toàn diện, nó bắt
đầu khi Đức thực hiện kế hoạch
cho nhiều mục tiêu của ḿnh để đánh
bại Pháp bằng cách tấn công Bỉ, một nước
trung lập ở phía bên kia châu Âu. Các nước châu Âu chưa quen thuộc với cách
thức công nghệ tăng cường lực lượng
quân sự của họ, nên họ đă gây ra sự tàn
phá lẫn nhau chưa từng có. Vào tháng 8 năm 1916,
sau hai năm chiến tranh với hàng triệu người
thương vong, các nước tham chiến, chủ
yếu phương Tây (Anh, Pháp và Đức) bắt
đầu khám phá triển vọng để chấm
dứt cảnh chém giết. Ở phía Đông, các đối
thủ Áo và Nga đă cũng có những cảm
nhận tương tự. Bởi v́ không có sự
thỏa hiệp nào có thể tưởng tượng
ra được để biện minh cho những hy
sinh đă gây ra và v́ không ai muốn mang đến
ấn tượng về sự yếu đuối
của ḿnh, các giới lănh đạo khác nhau đă
ngần ngại khởi xướng một tiến tŕnh
ḥa b́nh chính thức. Do đó, họ t́m kiếm sự
ḥa giải của Mỹ. Đại tá Edward House, sứ giả riêng của
Tổng thống Woodrow Wilson, đă thăm ḍ và tiết
lộ rằng, một nền ḥa b́nh dựa trên
hiện trạng được tu chỉnh là trong
tầm tay. Tuy nhiên, trong khi sẵn sàng và cuối cùng
mong muốn tiến hành ḥa giải, Wilson đă tŕ hoăn
cho đến sau cuộc bầu cử tổng thống
vào tháng 11. Đến lúc đó, cuộc tấn công
tại Somme của Anh và cuộc tấn công tại
Verdun của Đức đă gây thêm hai triệu người
thương vong. Theo lời kể trong cuốn sách về chủ đề
này của Philip Zelikow, ngoại giao đă trở thành
giải pháp mà ít người theo đuổi hơn.
Đại chiến tiếp tục trong hai năm nữa
và cướp đi hàng triệu nạn nhân khác, gây
tổn hại không thể cứu văn cho trạng thái quân
b́nh của châu Âu đă được thiết
lập. Đức và Nga bị cách mạng làm tan nát;
nhà nước Áo-Hung biến mất khỏi bản
đồ. Nước Pháp đă đổ máu đến
khô cạn. Nước Anh đă hy sinh một phần
đáng kể của thế hệ trẻ và năng
lực kinh tế cho các yêu cầu chiến thắng.
Hiệp ước Versailles mang tính trừng phạt
đă kết thúc chiến tranh, nó tỏ ra mong manh hơn
nhiều khi so với cấu trúc mà nó thay thế. Liệu thế giới ngày nay có thấy ḿnh đang
ở trong một bước ngoặt tương
đương như tại Ukraine không, khi mùa đông
áp đặt một việc tạm đ́nh hoăn các
cuộc hành quân quy mô? Tôi đă nhiều lần bày
tỏ sự ủng hộ đối với việc
nỗ lực quân sự của đồng minh, nhằm
ngăn chặn Nga xâm lược ở Ukraine. Nhưng
thời điểm đă đến để xây
dựng dựa trên những thay đổi chiến lược
mà nó đă được thực hiện và kết
hợp chúng vào trong một cấu trúc mới, hướng
tới việc đạt được một nền
ḥa b́nh thông qua phương cách đàm phán. Lần đầu tiên trong lịch sử hiện
đại, Ukraine đă trở thành một quốc gia
quan trọng ở Trung Âu. Được hỗ trợ
bởi các đồng minh và được truyền
cảm hứng từ Tổng thống Volodymyr Zelensky,
Ukraine đă ngăn cản các lực lượng thông
thường của Nga tràn ngập châu Âu kể từ
thế chiến thứ hai. Và hệ thống quốc
tế, bao gồm cả Trung Quốc, đang phản
đối mối đe dọa của Nga hoặc
việc sử dụng vũ khí hạt nhân. Tiến tŕnh này đă đưa ra các vấn đề
nguồn gốc liên quan đến tư cách thành viên
của Ukraine trong khối NATO. Ukraine đă có được
một trong những đội quân bộ binh lớn
nhất và hiệu năng nhất ở châu Âu,
được trang bị bởi Mỹ và các đồng
minh. Tuy nhiên, một tiến tŕnh ḥa b́nh liên kết
Ukraine với khối NATO phải được thể
hiện. Một giải pháp thay thế của tính cách
trung lập không c̣n ư nghĩa nữa, đặc
biệt là sau khi Phần Lan và Thụy Điển gia
nhập khối NATO. Đây là lư do tại sao hồi tháng
5 năm ngoái, tôi đă đề nghị thiết
lập một đường ngừng bắn dọc
theo biên giới hiện có, nơi mà chiến tranh
bắt đầu vào ngày 24 tháng 2 [năm 2022]. Từ
đó, Nga sẽ từ bỏ các cuộc chinh phục,
nhưng không phải là lănh thổ mà họ chiếm
đóng gần một thập niên trước, bao
gồm cả Crimea. Lănh thổ đó có thể là
chủ đề của một cuộc đàm phán sau
lệnh ngừng bắn. Nếu đường ranh giới phân chia trước
chiến tranh giữa Ukraine và Nga không thể đạt
được bằng chiến đấu hoặc
bằng đàm phán, việc dựa vào nguyên tắc
tự quyết có thể được đề ra. Các
cuộc trưng cầu dân ư có giám sát quốc tế
liên quan đến quyền tự quyết có thể
được áp dụng cho các vùng lănh thổ đặc
biệt bị phân chia mà nó đă đổi chủ
nhiều lần qua nhiều thế kỷ. Mục tiêu của một tiến tŕnh ḥa b́nh sẽ
có hai mặt: xác nhận quyền tự do của Ukraine
và định nghĩa một cấu trúc quốc tế
mới, đặc biệt là đối với Trung và
Đông Âu. Cuối cùng, Nga nên t́m một vị thế
trong một trật tự như vậy. Kết quả mà một số người ưa
chuộng hơn là một nước Nga trở thành
bất lực do chiến tranh. Tôi không đồng ư.
Với tất cả xu hướng thiên về bạo
lực, Nga đă có những đóng góp quyết định
cho t́nh trạng quân b́nh trên toàn cầu và cán cân
quyền lực trong hơn nửa thiên niên kỷ. Vai tṛ
lịch sử của Nga không nên bị hạ thấp.
Những thất bại về quân sự của Nga
đă không loại bỏ phạm vi hoạt động
về hạt nhân trên toàn cầu của Nga, cho phép Nga
đe dọa leo thang ở Ukraine. Ngay cả khi khả năng
này giảm sút, sự tan ră của Nga hoặc phá
hủy khả năng chính sách chiến lược
của Nga có thể biến lănh thổ bao gồm 11 múi
giờ thành một khoảng trống gây tranh chấp. Các
xă hội đang cạnh tranh nhau của Nga có thể
quyết định cách giải quyết tranh chấp
bằng bạo lực. Các quốc gia khác có thể t́m
cách mở rộng yêu sách bằng vũ lực. Tất
cả những nguy hiểm này sẽ trở nên phức
tạp hơn bởi sự hiện diện của hàng
ngàn vũ khí hạt nhân, làm cho Nga thành một trong hai
cường quốc hạt nhân lớn nhất thế
giới. Khi giới lănh đạo thế giới cố
gắng chấm dứt cuộc chiến mà trong đó
hai cường quốc hạt nhân cạnh tranh với
một quốc gia được vũ trang thông thường,
họ cũng phải suy nghĩ về tác động
đối với cuộc xung đột này và về
chiến lược trong trường kỳ của công
nghệ cao và trí tuệ nhân tạo. Vũ khí tự
động vốn dĩ đă có sẵn, nó có khả
năng định nghĩa, đánh giá và nhắm
mục tiêu vào các mối đe dọa theo nhận
thức của riêng ḿnh và do đó, ở vị trí
để bắt đầu cuộc chiến riêng
biệt cho ḿnh. Một khi ranh giới trong lĩnh vực này bị vượt
qua và công nghệ cao trở thành vũ khí tiêu chuẩn
và máy tính trở thành người thực hiện
chủ yếu cho chiến lược, thế giới
sẽ thấy tự ḿnh đang ở trong t́nh trạng
mà chưa có khái niệm nào được định
h́nh. Làm thế nào giới lănh đạo có thể
thực hiện việc kiểm soát khi các máy tính quy
định các hướng dẫn chiến lược
dựa trên quy mô và theo cách vốn đă hạn
chế và đe dọa việc can thiệp của con người?
Làm thế nào nền văn minh có thể được
bảo tồn giữa một mớ hỗn độn
thông tin, các nhận thức và các khả năng phá
hoại như vậy? Tuy nhiên, hiện nay không có lư thuyết nào áp
dụng cho thế giới đang rộng mở này và các
nỗ lực tham khảo ư kiến về chủ đề
này cần phải triển khai, có lẽ bởi v́ các
cuộc đàm phán có ư nghĩa có thể tiết
lộ những khám phá mới và tự việc tiết
lộ này tạo thành một rủi ro cho tương
lai. Vượt qua sự khác biệt giữa công
nghệ tiên tiến và khái niệm chiến lược
kiểm soát nó, hoặc thậm chí có những am
hiểu về ư nghĩa đầy đủ của nó,
ngày nay đó là một vấn đề quan trọng như
biến đổi khí hậu, và nó đ̣i hỏi
giới lănh đạo có quyền chỉ huy cả công
nghệ và lịch sử. Việc t́m kiếm ḥa b́nh và trật tự có hai thành phần, đôi khi được coi là mâu thuẫn: Theo đuổi các yếu tố an ninh và yêu cầu đối với các hành vi ḥa giải. Nếu chúng ta không thể đạt được cả hai, th́ chúng ta cũng sẽ không thể đạt được một trong hai mục tiêu này. Con đường ngoại giao có vẻ phức tạp và gây nản ḷng. Nhưng tiến bộ để đạt đến trong cuộc hành tŕnh đó đ̣i hỏi chúng ta cả tầm nh́n và sự can đảm để thực hiện. |