Lyndon
B. Johnson
và t́nh trạng leo thang chiến tranh Việt Nam
(1964-1967) (Phần 1) TS.Đỗ Kim Thêm |
Tổng thống Lyndon B. Johnson công du Việt Nam bên
cạnh Tướng William Westmoreland, Trung tướng
Nguyễn văn Thiệu và Thiếu tướng
Nguyễn Cao Kỳ Bối cảnh Lyndon
Baines Johnson (1908-1973) xuất thân là một nhà giáo ở
Texas, tham gia đảng Dân chủ và lần lượt
đảm nhận chức vụ dân biểu quốc
hội (1937- 1949), Thượng nghị sĩ (1949-1961) và
Phó tổng thống từ năm (1961-1963). Khác
với Kennedy, Johnson không toả sáng được
một phong cách trí thức hay quư tộc hay một tài
năng nổi bật nào gây thu hút được chính
giới tại Washington. Ngay trong tiểu bang Texas, Johnson cũng
không đứng về thành phần bảo thủ
nồng cốt của đảng Dân chủ. V́ tự
nhận mang nhiều ảnh hưởng của Franklin
Delano Roosevelt (1881- 1945) trong chính sách New Deal, nên trước
công luận, ông luôn tự hào là một “New Dealer”
trong thời đại mới. Ngày
22 tháng 11 năm 1963 Tổng thống John F. Kennedy bị mưu
sát tại Dallas là một cơ hội bất ngờ
cho Johnson trong việc thăng tiến chính trị. Ngay
trong ngày này, theo thủ tục khẩn cấp, Johnson tuyên
thệ nhậm chức tổng thống thứ 36
của Hoa Kỳ trên chuyến phi cơ Air Force One. Sau
khi nhậm chức tổng thống cho đến
cuối năm 1964, ông quyết tâm tiếp tục
thực hiện các chương tŕnh cải cách xă
hội của Kennedy. Những
thành công đáng kể nhất của Johnson là việc
giảm thuế qua Johnson Tax Act và cải thiện
được một phần nào t́nh trạng phân
biệt chủng tộc tại các trường học,
nhà hàng, khách sạn và điểm giao thông qua Civil
Rights Act. Trong trận chiến chống nghèo đói (War
on Poverty), Johnson được Quốc hội tài
trợ 1 tỷ đô la để trợ cấp cho các
nhà trẻ và trường học địa phương,
đặc biệt giúp cho gia đ́nh có lợi tức
thấp; biện pháp này tạo thêm thanh danh cho ông. Ngược
lại, chính sách về vấn đề chiến tranh
Việt Nam của hai bậc tiền nhiệm Kennedy và
Eisenhower trở thành một di sản nặng nề cho
Johnson. Đến
cuối năm 1963, số lượng các cố vấn
quân sự Mỹ làm việc bên cạnh Quân lực VNCH
đă tăng lên đến 16.000 người. Cũng
trong thời gian này, đường ṃn Hồ Chí Minh
đă mở ra thành một trục lộ giao thông
rộng lớn nên việc thâm nhập hàng ngàn binh sĩ
và vận tải quân cụ cho miền Nam được
an toàn và dễ dàng. Nhờ thế, Cộng sản
Bắc Việt gia tăng hoạt động rơ rệt. Các
tướng lănh tham gia đảo chánh năm 1963 xung
đột nhau làm cho nội t́nh miền Nam bất đầu
bất ổn. Tướng Dương văn Minh
(1916-2001), người lănh đạo quân đội,
đă chủ trương ngấm ngầm đàm phán
với Mặt trận GPMN. Khuynh hướng hiếu hoà
này bị đa số tướng lănh Việt và chính
giới Mỹ phát hiện và phản đối. Tháng
Giêng năm 1964, trong một cuộc đảo chánh không
đổ máu, mà báo giới miền Nam gọi là
chỉnh lư, tướng Nguyễn Khánh (1927-2013) lên
nắm quyền và được Washington hỗ trợ
đắc lực về chính trị và quân sự. Hai
khuôn mặt Mỹ mới bắt đầu xuất
hiện trên chính trường Việt là Tướng
Maxwell D. Taylor (1901- 1987), Đại sứ Mỹ tại
Việt Nam và Tướng William C. Westmorland (1914-2005),
Chỉ huy trưởng Viện trợ Quân sự (Chef of
Military Assistance Command). Lực lượng cố vấn
Mỹ tăng lên 23.000 người lúc cuối năm
1964. Nội
t́nh của miền Nam không khả quan khi Tướng Khánh
tự quyền soạn thảo Hiến pháp mang danh
Hiến chương Vũng Tàu ngày 16 tháng 8 năm 1964 và
tự phong cùng lúc hai chức vụ Quốc trưởng
và Thủ tướng. Dù được Đại
sứ Taylor hỗ trợ, nhưng các phong trào chống
đối của sinh viên và Phật giáo gia tăng. T́nh
thế càng hỗn loạn là cơ hội cho CSBV
đưa binh sĩ thâm nhập miền Nam nhiều hơn.
Mức độ gia tăng đáng ngại làm cho cơ
quan CIA phải lên tiếng báo động cho Đại
sứ Taylor và Tổng thống Johnson biết là nên
cấp thời giải quyết. Nhưng Johnson chần
chờ mà lư do là chính trường Mỹ đang
bắt đầu mùa tranh cử. Barry
Goldwater (1909-1998), đối thủ thuộc đảng
Cộng hoà, tiểu bang Arizona, là một thành phần
chống cộng cực đoan, không phải v́ muốn
trực diện chống Liên Xô với tinh thần đối
kháng ư thức hệ mà quyết tâm chiến thắng
Cộng sản Việt Nam trên chiến trường và
bất chấp mọi hậu quả, kể cả
việc sử dụng vũ khí nguyên tử. Nhận
ra khuyết điểm này của Goldwater, trước
cử tri Johnson tỏ ra mềm dẻo khi đề ra
một chính sách có nhiều ư thức trách nhiệm hơn.
Ông hứa hẹn kiên quyết chống cộng, nhưng
không thể phản ứng thái quá và vụng về như
trong vụ Vịnh Bắc bộ xảy ra ngày 10 tháng 8
năm 1964 và cũng không bằng ḷng việc gởi con
em đến Việt Nam để chiến đấu, nơi
mà giới trẻ địa phương phải tự
lo bảo vệ cho chính ḿnh. Kết
quả là ngày 3 tháng 11, Johnson thắng cử với
tỷ lệ 61% hay 43, 1 triệu phiếu cử tri, trong
khi Goldwater chỉ đạt được 38,5 % hay 27, 2
triệu phiếu cử tri. Diễn biến Ngay
sau khi nhậm chức tổng thống, Johnson nhận
thức rằng sẽ c̣n gặp nhiều trở
ngại v́ cục diện chiến tranh đang leo thang và
chương tŕnh cải cách xă hội (Great Society) khó
được tiếp tục. Nh́n
chung, quan điểm của Johnson cũng giống như
các bậc tiền nhiệm, chính sách ngăn chặn
của Harry S. Truman (1884-1972) và thuyết Domino của
Dwight D. Eisenhower (1890-1969) có giá trị thuyết phục
nên cần theo đuổi. Khi CSBV xâm lăng và làm
miền Nam sụp đổ, th́ các nước trong vùng
Đông Nam Á và Mỹ sẽ lâm nguy. Ngoại trưởng
Dean Rusk (1909- 1994) và Bộ trưởng Quốc pḥng
Robert McNamara (1918-2009) cũng chia sẻ quan điểm này
và ủng hộ chính sách pḥng chống của Johnson. Nhưng
Johnson phải làm ǵ? Các giới am tường t́nh
thế có nhiều đề xuất khác nhau. Theo Tướng
Không quân Curtis LeMay (1906-1990), một giải pháp cực
đoan nhất để sớm tận diệt CSBV là
không quân Mỹ ném bom toàn diện và tối đa để
đưa miền Bắc trở về thời kỳ
đồ đá. Một
trong những ư kiến phản chiến quan trọng khác
là Georg Ball (1909-1994), Thứ trưởng Bộ Ngoại
giao. Chứng kiến thảm bại của Pháp trong
chiến tranh Đông Dương khi là nhân viên Toà Đại
sứ Mỹ tại Paris, Ball cảnh báo Mỹ cần
tránh các hậu quả mà Pháp đă gặp phải. Trong
một giác thư gởi cho Ngoại trưởng Rusk,
Bộ truởng Quốc pḥng McNamara và Cố vấn An
ninh McGeorg Bundy (1919-1996), Ball cho rằng việc không kích
Bắc Việt sẽ không giúp cho Miền Nam mạnh hơn
hay làm cho Mặt trận GPMN yếu hơn, nhưng
chắc chắn một điều là t́nh h́nh sẽ
nghiêm trọng v́ ḷng căm thù Mỹ càng lên cao độ. Tác
hại ngoại giao khó lường đoán là uy tín
của Mỹ đối với Đồng minh cũng v́
thế sẽ suy giảm. Hy
vọng xây dựng cho VNCH thành một nước dân
chủ, tự do và thịnh vượng, mà Eisenhower và
Kennedy dày công theo đuổi, cũng chỉ thành vô
vọng. Cho đến na,y tất cả sự sống c̣n
của miền Nam lệ thuộc hoàn toàn vào viện
trợ Mỹ. Do
đó, nếu để cho binh sĩ Mỹ càng tiến
sâu vào rừng của Việt Nam để chiến
đấu, th́ chính giới Mỹ càng mất lối
thoát trên chính trường. Diễn đạt theo
lối người Việt, nghĩa là Mỹ đă leo
lưng cọp và không c̣n biết t́m nơi nào an toàn
để xuống lưng cọp. Để giữ
thể diện, theo Ball, Mỹ phải triệt thoái là
phương sách thích hợp. Johnson
phủ nhận cả hai giải pháp không kích toàn
diện của LeMay và triệt thoái toàn bộ của
Ball, v́ không tin sẽ chấm dứt chiến cuộc, mà
dung hoà bằng cách chia chiến lược tấn công
CSBV qua hai giai đoạn. Giai
đoạn đầu là không kích trên các đoạn
đường tiếp vận trong lănh thổ Lào
khoảng một tháng. Tùy theo mức độ phản
ứng của CSBV, giai đoạn hai sẽ ném bom trên lănh
thổ Bắc Việt, khoảng sáu tháng và khi cần
thiết sẽ bổ sung bằng cách gài ḿn phong
toả các hải cảng và đường vận
chuyển biển. Các sự kết hợp này sẽ
kết thúc chỉ khi nào t́nh h́nh miền Nam thực
sự ổn định. Tuy
nhiên, cho đến tháng 12 năm 1964, Johnson vẫn chưa
chính thức ra lệnh cho việc không kích trong giai
đoạn hai. Thái độ chần chờ này gây cho
Bộ Tư lệnh Liên quân nhiều bất b́nh. Khác
với ư kiến của các cố vấn và tướng
lănh, Johnson tỏ ra không kiên quyết đối đầu
quân sự với Hà Nội. Lư do chủ yếu là
nếu leo thang chiến tranh, phải gia tăng kinh phí
quốc pḥng và cắt giảm các tài trợ cho chương
tŕnh Great Sociey, một t́nh trạng tiến thoái lưỡng
nan mà Johnson cố tránh. Johnson
phải làm ǵ? Chờ đợi trong vô vọng
hoặc theo chủ trương của Ball? Cho dù theo
quyết định nào đi nữa, th́ Johnson cũng
sẽ phải chấp nhận các chỉ trích của các
cố vấn và công luận việc VNCH và Đông Nam
Á sẽ lâm nguy, trong khi đang mơ ước ưu tiên
thực hiện dự án Great Society. Thay vào đó, cũng
trong tiến tŕnh này, Johnson cố t́m cách gây ảnh hưởng
đến phía VNCH, một khó khăn mà các vị
tổng thống tiền nhiệm đă không thực
hiện được. Cụ
thể, Johnson đ̣i hỏi chính phủ VNCH phải
cải cách thể chế chính trị, tạo nhiều
điều kiện dân chủ hơn. Nhờ thế, may
ra, miền Nam tạo được một chính
quyền ổn định và đoàn kết hơn, làm
cho công cuộc chiến đấu chống cộng có
hiệu năng hơn. Để khuyến khích, Johnson
chấp thuận cho Tướng Khánh tăng thêm 100.000
quân, đưa quân số Quân lực VNCH lên đến
660.000 quân nhằm tăng cường hoả lực
chiến đấu. Dù
thoả thuận tăng quân, nhưng giới lănh đạo
VNCH không quan tâm nhiều đến các cải cách chính
trị như Mỹ đ̣i hỏi. Khi mối quan hệ
Mỹ-Việt lệ thuộc nhau càng sâu đậm th́
chuyển biến càng phức tạp, cho dù nh́n chung, phía
Mỹ luôn muốn gia tăng các hỗ trợ cho
Việt Nam. T́nh
h́nh an ninh của miền Nam biến chuyển tệ
hại càng làm cho chính giới Mỹ lo âu nhiều hơn.
Điển h́nh là trong đêm Giáng sinh năm 1964, Đội
Biệt động thành đă tấn công khách sạn
Brink ngay trung tâm thành phố, gây tử thương cho
nhiều cố vấn Mỹ. Mấy ngày sau, tại B́nh
Giă, một địa điểm cách Sài G̣n 70 cây
số về hướng Tây Nam, một trận đánh
cấp tiểu đoàn diễn ra khốc liệt
với kết quả 445 binh sĩ VNCH và 16 cố
vấn Mỹ thương vong và phía Việt Cộng
mất 132 sinh mạng. Trước
các thảm bại liên tiếp, chính giới Mỹ cho
rằng không thể chờ đợi cho đến khi
nào mà chính phủ VNCH được ổn định,
trước mắt phải tiến hành việc không kích
Bắc Việt, v́ sẽ mang kết quả thiết
thực: Khi CSBV không thể tiếp tục thâm nhập
miền Nam, th́ MTGPMN không nhận được yểm
trợ, đương nhiên phải suy yếu. Điểm
quan trọng nhất trong chiến lược này là
Mỹ không muốn có một chiến thắng cấp
thời và toàn diện mà ưu tiên nhằm ngăn
trở không để cho VNCH sụp đổ. McGeorg
Bundy, Cố vấn An ninh, bi quan khi tiên đoán là
miền Nam không sống quá một năm trong khi
biện pháp ném bom bắt đầu đưa Johnson
đi vào một cuộc phiêu lưu mới: Mỹ hoá
cuộc chiến Việt Nam. Nhưng
khi Johnson chưa kịp ra tay, th́ MTGPMN lại phản
ứng đầu tiên. Ngày 7 tháng 2 năm 1965 Việt
Cộng đột kích một căn cứ không quân
Mỹ tại Pleiku làm cho 8 cố vấn quân sự
tử thương và 125 bị thương. Johnson ra
lệnh phục thù mang tên chiến dịch Flamming Dart,
132 phi cơ của Thuỷ quân Lục chiến ném bom các
căn cứ quân sự tại miền Bắc. Ngày
10 tháng 2 năm 1965, MTGPMN tiếp tục tấn công
một căn cứ quân sự Mỹ làm cho 20 binh sĩ
Mỹ tử thương. Để phản ứng,
Johnson ra tiếp một chiến dịch mới mang tên
Rolling Thunder nhằm không kích miền Bắc vô thời
hạn. Điểm
tác hại cho Johnson trong lúc này là không thông báo cho dân
chúng biết đầy đủ về các diễn
biến của t́nh h́nh, mà chỉ công bố là để
trả thù trước các cuộc tấn công của Hà
Nội, đặc biệt nhất là không đề
cập đến yếu tố ném bom vô thời
hạn. Đến
cuối tháng 2 năm 1965, cùng lúc với các viện
trợ quân sự gia tăng, số lượng các
cố vấn quân sự Mỹ đă lên đến
23300. Dù t́nh h́nh an ninh xấu đi, buộc QLVNCH lâm vào
thế thủ để bảo vệ các cơ sở
hạ tầng, nhưng chiến dịch Rolling Thunder
hứa hẹn mang lại nhiều sinh khí mới cho dân
chúng miền Nam. Từ
tháng 12 năm 1964, Tướng Khánh liên lạc với
MTGPMN và t́m một giải pháp đàm phán. Các tướng
lănh khác phản ứng mạnh và kết thúc bằng
một cuộc đảo chính không đổ máu. Do
sự thu xếp của Đại sứ Taylor, miền
Nam thực sự có chuyển biến mới khi một
chánh quyền dân sự thành h́nh vào ngày 18 tháng 2 năm
1965 và Tướng Khánh chấp thuận rời khỏi
Việt Nam ngày 24 tháng 2 năm 1965 với chức danh
Đại sứ lưu động. Dù
mang danh là Uỷ ban Hành pháp Trung ương và Uỷ Ban
Lănh đạo Quốc gia, nhưng tất cả thành
phần lănh đạo đều là các tướng lănh:
Nguyễn Cao Kỳ (1930-2011) và Nguyễn Văn Thiệu
(1923-2001). Chủ trương của chính quyền
mới là kiên quyết không thoả hiệp với
MTGPMN và hợp tác chặt chẽ với Mỹ để
đưa cuộc chiến đến thành công. Lại
một lần nữa, các cuộc tấn công dồn
dập của MTGPMN tại các căn cứ không quân Biên
Hoà và Pleiku chứng tỏ khả năng pḥng ngự
của hai lực lượng Mỹ-Việt không tương
xứng. T́nh
thế đổi thay khiến cho Tướng Westmoreland
phải khẩn cấp lên tiếng đ̣i gia tăng
binh lực để bảo vệ căn cứ Đà
Nẵng. Yêu cầu này bị Đại sứ Taylor
phản ứng kịch liệt với lư do là am tường
t́nh thế Việt Nam toàn diện hơn Westmoreland, người
chỉ chuyên về binh pháp. Đại
sứ Taylor lập luận rằng binh sĩ bộ binh
Mỹ, cho dù trang bị vũ khí hiện đại và
tinh thần chiến đấu cao độ, vẫn không
phải là đối thủ tương xứng với
các du kích quân tại khu vực rừng nhiệt đới.
Kinh nghiệm Điện Biên Phủ cho thấy Pháp khi xưa
đă thất bại, th́ nay Mỹ không thể khá hơn.
Điểm chủ yếu là binh sĩ Mỹ trong khi
cận chiến không thể phân biệt được
nông dân và Việt cộng. Các
ư kiến của Taylor không thuyết phục được
Johnson. Do đó, ngày 8 tháng 3 năm 1965, Mỹ quyết
định đưa hai tiểu đoàn Thuỷ quân
Lục chiến được trang bị với
thiết giáp và pháo binh đến Đà Nẳng. Được
ưu thế tại Washington, Tướng Westmoreland càng
đ̣i gởi quân nhiều và nhanh hơn. Đến
cuối tháng 4, số lượng bộ binh Mỹ đổ
bộ là 40.000. Theo nguyên tắc, các đơn vị này
sẽ lập ra căn cứ quân sự và tổ
chức các cuộc hành quân trong phạm vi 50 dặm
chung quanh doanh trại. Theo
một tự sự sau này của Bùi Diễm (1923-2021),
cựu Đại sứ VNCH tại Mỹ, cho biết,
trong tiến tŕnh quyết định gởi quân đến
Đà Nẵng, Mỹ không tham khảo ư kiến của
chính phủ VNCH; sau đó, để hợp pháp hoá
việc hợp tác quân sự Mỹ-Việt, VNCH mới
ra một tuyên bố công nhận việc đóng quân.
Cho đến nay, không có một tài liệu chính
thức nào xác nhận tham vọng xâm chiếm lănh
thổ hay thu tóm quyền lợi kinh tế của
Mỹ như thực dân Pháp. (C̣n
tiếp). |