Lyndon
B. Johnson và
t́nh trạng leo thang chiến tranh Việt Nam (1964-1967)
(Phần 2) TS.Đỗ Kim Thêm |
Trong
khi các lực lượng bộ binh Mỹ chưa ghi
nhận thành tích chiến thắng nào, th́ Mặt
trận GPMN liên tục chiếm được nhiều
vùng tại nông thôn và chính phủ VNCH cho biết là
chỉ c̣n khả năng kiểm soát tại Sài G̣n và
nhiều thành phố lớn khác. Gây
lo âu cho Johnson trong giai đoạn này không phải
chỉ có tiền tuyến Việt mà c̣n hậu phương
Mỹ. Mike Mansfield và Goerg McGovern, hai tiếng nói quan
trọng thuộc đảng Dân chủ, đ̣i hỏi
phải t́m một giải pháp đàm phán. Ngay
cả Tổng thư Kư Liên Hiệp Quốc U Thant và
Thủ tướng Canada Lester Pearson cũng lên tiếng
Mỹ phải giải thích mục tiêu theo đuổi
chiến tranh, kết thúc không chiến và kêu gọi
đàm phán. Giới
truyền thông Washington trước đây nhiệt t́nh
ủng hộ cho Johnson, nay cũng chuyển hướng
khi số lượng thương vong của binh sĩ
Mỹ lên cao. New York Times, Boston Globe và Newsweeks đồng
loạt nêu việc xem lại ư nghĩa tham chiến, nhưng
không đ̣i hỏi triệt để là Mỹ phải
rút quân. Các
phong trào phản chiến lần lượt ra đời
cùng với lập luận là việc tham chiến không
phản ảnh được ư nghĩa giá trị
chiến lược hay dân chủ cho nước Mỹ. Để
đáp ứng t́nh thế ngày càng sôi bỏng, trong
một bài diễn văn đọc tại Đại
học Johns Hopkins, Baltimore ngày 7 tháng 4, Johnson thông báo
sẳn sàng thương thuyết với Hà Nội và
đề ra một phương thức viện trợ
kinh tế theo mô h́nh Great Society với ngân khoản 1
tỷ đô la cho các nước Đông Nam Á. Đến
tháng 5, để bày tỏ thiện chí, Johnson ra
lệnh ngưng oanh kích trong năm ngày để yêu
cầu CSBV đàm phán. Dù
ḷng thành tín muốn kết thúc chiến cuộc không
thể nghi ngờ, nhưng thực ra, Johnson không có
một chiến lược cụ thể cho tiến tŕnh
hay một tương nhượng cho đối phương.
Giống như các bậc tiền nhiệm, Johnson
chỉ đề cao việc tôn trọng quyền toàn
vẹn lănh thổ của VNCH và không chấp nhận
sự hiện diện của MTGPMN tại miền Nam. Ngược
lại với mọi dự đoán của Johnson, tháng
5 năm 1965, để đáp trả, CSBV kiên quyết
không chấp nhận hoà đàm, mà lư do chính là đang
nhận được nhiều viện trợ quân
sự của Liên Xô và Trung Quốc, v́ tin là chiến
thắng quân sự đă gần kề, nên cũng bác
bỏ áp lực đàm phán của Liên Xô. Để
gây tiếng vang với công luận, Hà Nội cũng
đề nghị bốn điểm đối
nghịch: Mỹ rút quân khỏi miền Nam không điều
kiện, chấm dứt oanh tạc miền Bắc, thành
lập một chính phủ liên hiệp tại miền
Nam với các thành phần yêu chuộng hoà b́nh và
thống nhất đất nước. Thái
độ hiếu hoà của Johnson làm cho giới
phản chiến dịu giọng, và đầu tháng 5,
Quốc hội thuận chi 700 triệu đô la để
yểm trợ cho các cuộc hành quân tại miền
Nam. Hầu
hết chính giới tại Washington như Wheeler, McNamara,
Rostow, Rush, Westmoreland và các tướng lănh tại Ngũ
Giác Đài cùng đi đến một nhận định
chung là, đă đến lúc t́nh thế không thể
đảo ngược; Mỹ phải quyết định
táo bạo bằng cách mở rộng không kích, tăng
cường quân số bộ binh và bổ sung nhiều
chiến lược khác, cho dù phải chấp nhận
nhiều hậu quả nghiêm trọng hơn. Chỉ
có Taylor đành im lặng và t́m cách thích ứng trong
khi Ball tiếp tục cảnh cáo thiệt hại
của Mỹ càng trở nên khó lường đoán. Tháng
6 năm 1965, việc leo thang thực sự bắt đầu
khi Johnson ra lệnh gởi thêm 50.000 quân. Cuối năm
1965, quân số Mỹ lên đến 184.000; cuối năm
1967 là 485.000. Việc
tăng quân liên tục làm cho công luận và Quốc
hội phản ứng mạnh. Vô số các khuyến
nghị của chính giới và truyền thông hay công
luận đều bị Johnson bác bỏ. Điển h́nh
là Henry Cabot Lodge (1902-1985) đă lên tiếng: “Tại
sao gởi một số lượng lớn quân đến
Việt Nam mà không một lời giải thích?” Trong
năm 1967, cục diện chiến trường thay
đổi khi tương quan lực lượng của
hai phía không c̣n cân xứng, nghiêng hẳn về phía
Mỹ và VNCH. Ngoài
hơn nửa triệu quân Mỹ đang hiện
diện, QLVNCH có trên 660.000 quân, miền Nam c̣n có 50.000
binh sĩ Nam Hàn và một số lượng của các
quốc gia thân hữu khác là Philippines (2061), Úc (50.000) và
Tân Tây Lan (356) hợp tác. Có
mặt trên chiến trường miền Nam ước
khoảng trên 200.000 binh sĩ miền Bắc và 80.000 quân
MTGPMN. Nhưng dị biệt về binh pháp là vấn
đề chính. CSBV
chủ yếu vẫn dựa vào du kích chiến của
Mao Trạch Đông và lấy nông dân tại nông thôn làm
cơ sở. Thực ra, CSBV cũng không thể thay đổi
chiến lược này trong toàn diện, trong khi các
tỉnh đồng bằng miền Tây Nam bộ có
nhiều thuận lợi về địa h́nh và nhân
sự; ngược lại, các tỉnh miền Đông
và ven biển miền Trung là không thích hợp. Dù
thất thế về quân số và hoả lực, nhưng
tinh thần chiến đấu của cán binh Cộng
sản lên cao độ với nhiều lư do. Nh́n
chung, bất chấp số lượng thương vong
rất lớn là sức mạnh tinh thần. CSBV tin là
nhiều người Việt sẽ chiến đấu
kiên cường hơn người Mỹ và sẳn sàng
chết nhiều hơn người Mỹ. Hai
“trận chiến long trời lở đất” Điện
Biên Phủ và Tổng tiến công mùa Xuân năm 1975 là
bằng chứng không ai quan tâm các con số tổn
thất. Tướng
Westmoreland từng nhận định, thành công trong
trận Điện Biên Phủ không phải là một bài
học chiến lược quư giá để cho các tướng
lănh các nước phương Tây noi theo, kể cả
ông cũng cho việc sát quân là không phù hợp. Cho
đến nay, chưa có nơi nào trên thế giới
áp dụng kinh nghiệm này. Trong
lịch sử chiến tranh thế giới, chưa có
tổn thất của phe thắng trận nào mà
nặng nề và thảm khốc hơn phe thua trận
như tại Việt Nam (1 triệu 1 cho CSBV so với 330
ngàn của VNCH). Không
nêu cao vai tṛ đấu tranh giai cấp để
bảo vệ quyền lợi công nhân như các xă
hội công nghiệp phương Tây; ngược
lại, Bắc Việt tuyên truyền rằng Mỹ xâm
lược tàn bạo, làm cho nhân dân miền Nam nghèo
đói tận cùng và đang rên xiết, và trông
chờ Giải phóng quân miền Bắc đến
giải cứu. Lập luận này trở thành dụng
cụ tuyên truyền hữu hiệu; tấm gương
hào hùng chống thực dân Pháp là một chứng
minh lịch sử, đấu tranh giải phóng dân
tộc bắt đầu có lư do để biện minh,
nhất là khi không quân Mỹ ném bom gây ra h́nh ảnh bi
thương cho đất nước. Hơn
thế, lập luận chống Mỹ xâm lăng có
thể thuyết phục được cả các thành
phần trước đây thuộc loại lưng
chừng: nông dân và một phần thị dân như
sinh viên và trí thức, nhất là tự do đấu
tranh ngoại vận của thành phần “ăn cơm
Quốc gia thờ ma Cộng sản”, lên tiếng
hỗ trợ gây được nhiều tiếng vang
nhờ có các phong trào phản chiến tại phương
Tây tiếp sức. Các
tài liệu về sau hé lộ rằng, có khoảng
310.000 quân Trung Quốc lo bảo vệ miền Bắc,
nhưng không có một cuộc thảo luận công khai
hay h́nh thức chống đối nào trong chính giới
hay dân chúng về sự hiện diện này, v́ CSBV
kiểm soát tuyệt đối lĩnh vực truyền
thông ngoại vận và quốc nội, đó một
lợi thế của miền Bắc; trong khi miền Nam
không có và c̣n thất bại nặng nề trong đấu
tranh phát huy chính nghĩa quốc gia, từ nông thôn cho
đến hải ngoại, khi so với hơn
485.000 lính Mỹ đồn trú tại miền Nam. Đối
sách của Mỹ là một thất bại thảm
hại mà việc sử dụng vũ khí hoá học là
điển h́nh. Phá huỷ các căn cứ quân sự
của MTGPMN bằng bom Napalm và hoá học cũng có nghĩa
là hủy diệt môi trường sống cho nông dân. Nhiều
khu vực rộng lớn được Mỹ quy định
thành khu oanh kích tự do (free fire zones) trong khi
một số khu rừng rậm tại một số
tỉnh được chính quyền xem là Indian country,
nghĩa là trong các cuộc hành quân truy t́m và tận
diệt (search and destroy) các binh sĩ Mỹ và VNCH có
quyền bắn tự do những ǵ c̣n lay động. Các
binh pháp của Mỹ đă thành công trong Đệ
nhị Thế chiến và tại Triều Tiên được
Tướng Westmoreland đem ra áp dụng đều không
kết quả như mong đợi mà sự khác
biệt ở đây là phân công Mỹ-Việt: Sau
khi binh sĩ Mỹ truy lùng, diệt dịch và tái
chiếm, QLVNCH đảm trách công việc b́nh định
nông thôn. Đại sứ Taylor đă cảnh báo là các
binh sĩ VNCH không có khả năng đấu tranh chính
trị để gây thiện cảm với nông dân
trong lâu dài. Đó là nhiệm vụ mà về sau
lực lượng Cán bộ Xây dựng Nông thôn thành
h́nh và đảm trách. Cuộc
chiến không c̣n để thu phục nhân tâm, mà thành
tích chiến thắng chỉ dựa trên việc đếm
xác đối phương, một thất bại
về tâm lư chiến, nhưng Mỹ và VNCH cần đến
các thống kê để phô trương trước
truyền thông và công luận hơn bao giờ hết. Hậu
quả Việc
Mỹ hoá chiến tranh gây nhiều bất măn cho chính
giới. Cuối năm 1965, McNamara cho là chiến
thắng quân sự khó khả thi và phải t́m cách
đàm phán. Năm 1967, ông kiên quyết phải chấm
dứt không kích để tránh các nguy cơ lan
rộng. Mâu thuẩn với Johnson và Westmoreland không
thể hoà giải; cuối cùng, đến tháng 12 năm
1967, ông chấp nhận chức vụ mới là lănh
đạo Ngân hàng Thế giới và Clark M. Clifford thay
ông làm Bộ trưởng Quốc pḥng. Cũng trong tâm
trạng này, George Ball và McGeorg Bundy rời khỏi
nội các Johnson. Ngoài
khó khăn về nhân sự, Johnson cũng cố t́m cách
để thương thuyết với Hà Nội, không
phải chỉ trong các cuộc vận động chính
thức, mà c̣n qua các sáng kiến tư nhân của các
nhà ngoại giao tên tuổi từ các nước Anh, Pháp,
Ư, Ba Lan và Liên Xô. Tất cả đều không đem
lại kết quả v́ bị Hà Nội cự
tuyệt. Nh́n
chung, các chiến thuật đàm phán trong ngắn
hạn của Hà Nội cũng như Mỹ không khác
nhau. Hà
Nội, dù là ngỏ ư đàm phán, nhưng không có thái
độ nghiêm chỉnh, mục tiêu là kéo dài cho đến
khi nào Hoa Kỳ kiệt sức hoặc do các phản
đối của dân chúng Mỹ đến độ
phải quay lưng từ bỏ VNCH. Ngoài
ra, Hà Nội cũng muốn lo giữ thể diện là
chính. Kinh nghiệm lịch sử đàm phán lại có
một lư do khác: hai lần thất bại thương
thuyết, một trong năm 1946, lúc cuối Đệ
nhất Thế chiến, và một trong năm 1954, lúc
cuối chiến tranh Đông Dương. Đó là lư do
tại sao Hà Nội không muốn thất bại lần
thứ ba. Lư
do chọn giải pháp quân sự ưu tiên v́ viện
trợ c̣n dồi dào và vẫn chờ tin vui chiến trường. C̣n
Mỹ? Thái độ của Mỹ cũng không chân thành
hơn. Trong cả hai trận tuyến đàm phán và
chiến trường, t́nh h́nh chung là bế tắc. Đến
cuối tháng 9 năm 1967, Johnson quyết định
chuyển hướng sang phương thức mới
mang tên “San Antonio”, nghĩa là, Mỹ đề
nghị ngưng ném bom và chấp nhận vai tṛ của
MTGPMN trong việc tái thiết hậu chiến, nếu Hà
Nội nghiêm chỉnh thương thuyết. Thực
ra, Mỹ ước tính rằng sẽ đánh bại
MTGPMN cả về chính trị lẫn quân sự. Dù tôn
trọng VNCH là một chính phủ độc lập
về h́nh thức; Mỹ t́m cách để cho VNCH càng
lệ thuộc nhiều hơn về mọi mặt. C̣n
hai trận tuyến tại hậu phương Mỹ mà
Johnson phải lo đối phó là Quốc Hội,
truyền thông và công luận phản chiến. Trước
Quốc hội, Johnson phải t́m ngân sách bổ sung
để tài trợ cho cuộc chiến được
kéo dài. Trong năm 1967, kinh phí quốc pḥng đă lên
đến đỉnh là 20,3 tỷ đô la, tương
đương với công chi cho chương tŕnh Great
Society. T́nh
trạng khiếm hụt ngân sách khoảng 28 tỷ
đô la bắt buộc Johnson phải lo tăng thuế
và kiểm soát công chi nghiêm nhặt hơn. Johnson
phải lo đương đầu là cán cân thanh toán
bất quân b́nh, đồng đô la mất giá và lăi
xuất tăng nhanh. Cuối
cùng, Johnson đạt được giải pháp
thoả hiệp với Quốc hội, đồng ư tăng
thuế và giảm chi cho chương tŕnh Great Society
khoảng 6 tỷ đô la. Kết
luận Sau
khi nhậm chức, Johnson tự hào là “bảo đảm
vị trí của ḿnh trong lịch sử Hoa Kỳ
với tư cách là người thừa kế hàng
đầu của Roosevelt“. Trong
chính sách đối nội, với Luật về Dân
Quyền năm 1964 và Đạo luật Quyền
Bầu cử năm 1965, Johnson cải thiện được
những sai lầm trong di sản của Roosevelt. Ngược
lại, các biện pháp để tạo ra một nhà nước
lo phúc lợi cho dân chúng trong hoàn cảnh tham chiến
tại Việt Nam là nghịch lư. Johnson cũng gặp
thất bại qua biện pháp Medicare. Kết quả là
cơ sở vững chắc của đảng Dân
chủ tại miền Nam chạy theo đảng
Cộng ḥa. Trong
chính sách đối ngoại, Johnson quyết tâm tiếp
nối truyền thống của Roosevelt khi cho cả hai
t́nh h́nh thế giới trước đây và Việt
Nam hiện nay là tương đồng. Khi Roosevelt lo
đối đầu với Hitler th́ phản ứng
của Johnson trong việc CSBV xâm lăng miền Nam là khác
hẳn. Thực ra, nhận định chung của Johnson
là sai lầm: Việt Nam khác với Đức và đă
kết thúc trong bi kịch khác. Đến
cuối năm 1967, chiến tranh Việt Nam c̣n kéo dài
triền miên trong khi các giải pháp hoàn toàn lâm vào
cảnh bế tắc. Chuyển biến quan trọng
nhất là mặt trận truyền thông và công luận
phản chiến đă không c̣n ủng hộ cho Mỹ
tiếp tục tham chiến và việc kêu gọi rút quân
trở nên khẩn thiết hơn. Do
hoạt động của các phong trào phản chiến
lên cao điểm, năm 1968 trở thành một năm
kinh hoàng cho Johnson khi mọi sinh hoạt công quyền
bị tê liệt và khi CSBV đồng loạt tiến hành
cuộc chiến Tết Mậu Thân toàn dân miền Nam
phải sống trong đau thương. Cả
hai tác động chiến lược này đă
đưa đến việc Mỹ kư kết Hiệp
định Paris 1973 và sự sụp đổ của
VNCH vào năm 1975. Johnson
ra đi vào ngày 22 tháng 1 năm 1973 nên không chứng
kiến hồi kết cuộc của bi kịch Việt
Nam. ______ Các
diễn tiến từ năm 1968 xin xem tiếp các bài: Công
luận và truyền thông phản chiến Mỹ làm
miền Nam sụp đổ? Chiến
cuộc Tết Mậu Thân, Richard
Nixon, Henry Kissinger và Sự Sụp Đổ Của
Miền Nam |