Tết Mậu Thân
1968 Trong Chiến Lược Ṭan Cầu Của Trung
Quốc.
Nguyễn Quang
Duy
Tết Mậu Thân
1968, quân đội cộng sản vi phạm ngưng
bắn mở cuộc tổng tấn công thủ đô Sài
G̣n và hầu hết các thành phố tỉnh lỵ tại
miền Nam . Trên bốn mươi năm qua, do thiếu tài
liệu và phân tích, chúng ta không quan tâm lắm đến vai
tṛ và chiến lược của nhà cầm quyền Bắc
kinh trong biến cố lịch sử này. Chúng ta
thường chỉ xem vai tṛ của họ là viện
trợ quân trang, quân cụ, quân nhu cho cộng sản
Việt Nam .
Bài viết này
dựa trên những tài liệu nội bộ hai
đảng Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc
được giải mật để chỉ ra vai tṛ
chỉ đạo và chiến lược ṭan cầu
của những người cầm quyền Bắc Kinh trong
trận tổng tấn công này. Ṭan bộ các tài liệu từ
phía trung quốc là biên bản các buổi họp bằng
tiếng Trung Hoa, được dịch sang Anh ngữ và
phổ biến trên mạng "Cold War
International History Project" Woodrow Wilson International Center for
Scholar. Tài liệu từ phía Việt Nam chủ yếu
từ tập tài liệu Sự thật về quan
hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua. Tập tài
liệu này được nhà xuất bản
Sự Thật cho phổ biến khi chiến tranh Việt -Trung
bắt đầu năm 1979.
Từ những
năm đầu 1950, khi hai đảng Cộng sản
Việt – Trung chính thức lập quan hệ ngọai giao,
Trung Quốc đă trực tiếp chỉ đạo và tham
gia chiến tranh Việt Nam . Chỉnh quân, chỉnh
huấn, cải cách ruộng đất, các chiến
dịch quân sự đều được đặt
dưới sự chỉ đạo chặt chẽ
của các cố vấn Trung Quốc và được
huấn luyện bởi các chuyên gia Trung Quốc. Hiệp
định Genève chia đôi đất nước đă
được Chu Ân Lai trực tiếp đề ra và
tiến hành.
Sau 1954, miền
Bắc đă xẩy ra một cuộc tranh chấp giữa
hai phe lănh đạo. Phe theo Trung Quốc nắm đa
số và luôn luôn thắng thế. Phe thân Liên Sô là thiểu số lại
bị mang tiếng là thiếu tích cực thống nhất
đất nước, không cổ vũ việc “giải
phóng” miền Nam .
Hội nghị
lần thứ 15 cuả Trung Ương tháng 1-1959, bí
mật ra quyết định điều động
bộ đội miền Bắc chuyển vũ khí vào Nam,
để tiến hành vơ trang thống nhất đất
nước. Ngày 7-1-1959, Hồ chí Minh chính thức xác
nhận: “Như vậy là ở Đông Nam Châu Á, chúng tôi
đă đứng ở tiền
đồn của mặt trận dân chủ và
hoà b́nh toàn thế giới chống lại chủ nghĩa
đế quốc và chiến tranh.” (1)
Tháng 5-1963,
Lưu Thiếu Kỳ đi thăm và đưa Bắc
Việt đứng hẳn về phía Trung Quốc. Hồ
chí Minh và Lưu Thiếu Kỳ đă kư một Tuyên Bố
chung gọi “chủ nghĩa xét lại” và “cơ
hội hữu khuynh” là đe dọa chính cho
phong trào cộng sản quốc tế. Tháng 7-1963,
Hồ chí Minh họp riêng với Chu Ân Lai và đă tuyên
bố như sau: “Đừng nói là phải đánh 5
năm, 10 năm, dù có 20 năm, 30 năm, thậm chí 50
năm cũng phải đánh, đánh cho đến khi
thắng lợi hoàn toàn!”. (2) Câu tuyên bố trên chỉ
nhái lại khẩu hiệu: “Đánh đế quốc,
đánh, đánh, đánh, đánh cho đến thắng
lợi” do Mao Trạch Đông đề ra.
Tại Hội nghị Trung
ương lần thứ 9, Lê Duẩn và Lê
Đức Thọ đã phê phán chủ trương
chung sống hòa bình và hội nghị kết
thúc với nghị quyết đẩy mạnh công
cuộc đấu tranh bằng vũ lực
ở miền Nam. Sau Hội nghị Trung Ương
lần thứ 9, nhóm do Lê Duẩn cầm đầu
tăng cường phê phán “chủ nghĩa xét
lại hiện đại” (ám chỉ chủ
trương thi đua hòa bình giữa các
nước có chế độ xã hội
khác nhau, mà Liên Sô, Khrushchev, cổ vũ). Tại
hội trường Ba Đ́nh, tháng 1-1964, trước các
cán bộ cao và trung cấp học tập nghị quyết
9, Trường Chinh tuyên bố: “Đường lối đối
nội và đối ngoại của Đảng ta và Nhà
nước ta là thống nhất về cơ bản
với đường lối đối ngoại và
đối nội của Đảng Cộng Sản và nhà
nước Trung Quốc.” (3)
Để tăng
cường xâm nhập miền Nam , ngày
08-04-1965, Lê Duẩn sang Trung Quốc xin quân viện. Lê
Duẩn lên tiếng:"Chúng tôi muốn một số phi
công và thiện chí quân, ... và những người thiện
nguyện khác, bao gồm những đơn vị xây
dựng cầu cống, đường sá." (4) Lưu
Thiếu Kỳ đáp lại "Đó chính là chính sách
của chúng tôi, chúng tôi sẽ làm tốt nhất để
đóng góp với các đồng chí." (5)
Tài liệu về
phía Việt Nam cho biết: “…về nguyên tắc,
đến tháng 6 năm 1965 phía Trung Quốc phải gửi
phi công sang giúp Việt Nam . Nhưng ngày 16
tháng 7 năm 1965 Bộ Tổng tham mưu Quân giải phóng Trung
Quốc đă báo cho Bộ Tổng tham mưu Quân
đội nhân dân Việt Nam là phía Trung Quốc không thể
gửi phi công sang Việt Nam được v́ ‘thời
cơ chưa thích hợp’ và ‘làm như vậy không ngăn
cản được địch đẩy mạnh oanh
tạc’. Trong một cuộc hội đàm với phía
Việt Nam tháng 8 năm 1966 họ cũng nói: ‘Trung Quốc
không đủ khả năng về không quân giúp bảo
vệ Hà Nội’ ”. (6) Thay vào đó, Liên Sô đă gởi
phi công sang chiến trường Việt Nam .
Tại Hà Nội,
ngày 13-4-1965, Tao Zhu, bí thư Trung ương đảng
cộng sản Trung Quốc Nam phân bộ, báo cho Hồ chí
Minh Trung ương đảng cộng sản Trung Quốc
và Mao đă giao trách nhiệm viện binh cho 4 tỉnh phía Nam
. Để chắc chắn, ngày 16-05-1965, Hồ chí Minh
đă sang Trung Quốc hội kiến Mao trạch Đông. Ông
tŕnh bày với Mao kế họach xây dựng hệ thống
giao thông phía Bắc để tiếp nhận quân viện
từ các quốc gia trong khối cộng sản qua biên
giới Trung Quốc. Cùng với kế họach xây dựng
đường ṃn Hồ chí Minh để xâm nhập
miền Nam . Ông nói với Mao: "Nếu chủ tịch
Mao đồng ư Trung Quốc sẽ giúp, chúng tôi sẽ gởi
người của chúng tôi vào Nam ." Mao trạch
Đông trả lời:"Chúng tôi chấp nhận. Chúng
tôi sẽ làm. Không có vấn đề ǵ cả." (7)
Ngày 23-3-1966, Lê
Duẩn sang Trung Quốc bị Chu Ân Lai chất vấn
về việc Việt Nam chính thức kêu gọi viện
binh từ các quốc gia cộng sản khác, nhất là
từ Sô Viết. Chuyến cầu viện này có lẽ
đă thất bại, ba tuần sau Lê Duẩn lại
phải sang Trung Quốc một lần nữa. Biên bản
buổi họp ngày 13-4-1966, giữa Chu Ân Lai, Đặng
tiểu B́nh, Kang Shen, Lê Duẩn và Nguyễn Duy Trinh,
được tường tŕnh với nhiều dữ
kiện lịch sử quan trọng.
Đặng
tiểu B́nh cho biết chỉ chưa đến một
năm Trung Quốc đă gởi sang Việt Nam 130.000 quân
để xây dựng cơ sở hạ tầng chiến
lược, hằng chục ngàn quân chiến đấu
hiện đang túc trực ở biên giới, đă có
những thảo luận về việc Trung Quốc sẽ
tham chiến nếu chiến tranh xảy ra. Lê Duẩn góp
ư:" Bây giờ đă có hằng trăm ngàn quân Trung
Quốc tại Việt Nam , nhưng chúng tôi nghĩ rằng
nếu có chuyện nghiêm trọng xẩy ra, ở đó cần
thiết 500.000 quân." (8) Phía Trung Quốc cũng miễn
cưỡng chấp nhận để Việt Nam nhận
viện binh từ các quốc gia cộng sản khác.
Trong cùng buổi
họp, Chu Ân Lai tuyên bố dự định sẽ
gởi chừng 4 đến 5 tóan nghiên cứu quân sự
gồm chừng 100 người vào Nam Việt Nam để
trực tiếp quan sát t́nh h́nh quân sự. Chu Ân Lai nhấn mạnh
các toán này có thể sẽ đến
tận ngọai ô Sài G̣n.
Tháng 6-1967,
đảng Cộng sản Việt Nam đă quyết
định mở cuộc tổng tấn công Tết
Mậu thân. Ngày 4-7-1967, Vơ Nguyên Giáp và Phạm văn
Đồng đă sang Trung Quốc tường tŕnh Bắc Kinh
t́nh h́nh và chiến lược quân sự. Phạm văn
Đồng đă báo cáo Chu ân Lai như sau: "Một
số chiến lược đang được áp
dụng trên chiến trường miền Nam theo lời đề
nghị khi trước của các đồng chí. Việc
này chứng tỏ chiến lược quân sự của
chúng tôi, và của các đồng chí, là chính đáng, với
tiến triển khả quan". (9)
"Lấy nông
thôn bao vây thành thị" và "vũ trang tổng tấn
công" là chiến lược do Mao Trạch Đông
đề xướng. Chiến lược này
được sử dụng như kim chỉ nam cho
cuộc tổng tấn công Mậu Thân. Nhà cầm quyền Hà
Nội c̣n tin rằng dân chúng miền Nam sẽ nổi
dậy, quân đội Việt Nam Cộng Ḥa sẽ chạy
theo quân đội cộng sản, v́ thế họ c̣n
gọi là “cuộc tổng tiến công và nổi dậy”. Điều
này đă không xảy ra, ngược lại quân và dân
miền Nam đă anh dũng bẻ gẫy, đánh tan ṭan
bộ cuộc tấn công.
Trong buổi
họp, ngày 4-7-1967, Chu ân Lai than thở, ông và các đồng
chí của ông đều đă trên dưới bẩy
mươi, và nhấn mạnh:"Mặc dù tôi đă già,
tham vọng vẫn c̣n đó.
Nếu chiến tranh ở miền Nam không chấm dứt
vào năm tới, tôi sẽ thăm các đồng chí và tham
quan." (10) Năm tới mà Chu ân Lai muốn nhấn
mạnh là Mậu Thân 1968. Điều này cho thấy cả
nhà cầm quyền Bắc Kinh lẫn Hà Nội đều
rất kỳ vọng vào chiến thắng quân sự trong
cuộc tổng tấn công này.
Phạm văn
Đồng cũng đă báo cho Chu ân Lai biết Liên Sô
đề nghị Trung Quốc cho gia tăng số
lượng quân viện Liên Sô chuyển sang Việt Nam qua
ngơ Trung Quốc từ 10.000 lên 30.000 tấn mỗi tháng. Có thể,
Liên Sô sẽ gởi một số đầu máy xe lửa
sang Trung Quốc. Để sửa sọan cuộc tổng
tấn công, riêng nửa năm 1967, Phạm văn
Đồng cho biết Trung Quốc đă quyết
định viện trợ Việt Nam 500.000 tấn
lương thực.
Tài liệu từ
phía Trung Quốc cho thấy Liên Sô đă không được
báo cáo tường tận cuộc tổng tấn công này.
Sau Tết Mậu Thân, Liên Sô đă chỉ trích nhà cầm
quyền Hà nội và cho rằng quyết định
tổng tấn công Mậu thân là một quyết
định sai lầm.
Có thuyết cho
rằng có bất đồng trong Trung ương
đảng Cộng sản Việt Nam về quyết
định tổng tấn công. Tuy nhiên các tài liệu đă
giải mật từ cả hai phía Trung Quốc lẫn
Việt Nam đều không hổ trợ cho thuyết này.
Qua các tài liệu
được giải mật từ phía Trung Quốc, chúng
ta có thể thấy được vài lư do khiến Trung
Quốc trực tiếp chỉ đạo và tham gia
tổng tấn công:
(1) bành
trướng ảnh hưởng khối cộng sản
nói chung, Trung Quốc nói riêng;
(2) tranh giành
ảnh hưởng với Liên Sô;
(3) thất bại
xây dựng kinh tế, Trung Quốc cần lư do "giải
phóng miền Nam Việt Nam" và " đế quốc
Mỹ đe dọa tấn công Trung Quốc" để
giải tỏa áp lực từ quần chúng và nội
bộ đảng cộng sản Trung Quốc;
(4) thất bại
chiếm đóng Đài Loan, Trung Quốc sử dụng
miền Nam như một thí điểm quân sự cho
chiến lược vũ trang tổng tấn công và
nổi dậy;
(5) bất ổn
quân sự Nam Việt Nam bắt buộc quân đội Hoa
Kỳ phải dồn nỗ lực giải quyết, do
đó sẽ giải tỏa áp lực quân sự trực
tiếp lên Trung Quốc;
(6) chiến
thắng quân sự của cộng sản Việt Nam
(nếu có) sẽ tạo uy tín cho các lănh tụ Trung
Quốc, nhất là trong giai đọan cách mạng văn
hóa đang được rầm rộ phát động.
Tập tài Liệu
“Sự thật về quan hệ
Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua” tuy không đề
cập nhiều đến trận Mậu Thân, lại
tố cáo: “Trong chiến lược toàn cầu của những
người lănh đạo Trung Quốc,
nếu họ coi Liên Xô và Mỹ là những đối
tượng chủ yếu cần phải chiến
thắng, th́ họ coi Việt Nam là một đối
tượng quan trọng cần khuất phục và thôn tính
để dễ bề đạt được lợi
ích chiến lược của họ.” (11)
Theo tài liệu này Mao Trạch Đông c̣n khẳng định trong cuộc
họp của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung
ương đảng cộng sản Trung
Quốc, tháng 8 năm 1965:
“Chúng ta phải giành cho được Đông Nam châu Á,
bao gồm cả miền nam Việt Nam, Thái Lan, Miến
Điện, Malayxia và Singapo…Một vùng như Đông nam châu
Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng
sản…xứng đáng với sự tốn kém cần
thiết để chiếm lấy…Sau khi giành
được Đông nam châu Á, chúng ta có thể tăng
cường được sức mạnh của chúng ta
ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh
đương đầu với khối Liên Xô-Đông Âu,
gió Đông sẽ thổi bạt gió Tây…”. (12)
Tài liệu cũng
tố cáo trong cuộc gặp giữa
đại biểu bốn đảng cộng sản
Việt nam, Trung Quốc, Nam Dương và Lào tại Quảng Đông tháng 9-1963,
Chu Ân Lai nói: “Nước chúng tôi th́ lớn nhưng không có
đường ra, cho nên rất mong Đảng Lao
động Việt Nam mở cho một con đường
mới xuống Đông nam châu Á”. (13) Để mở con
đường xuống Đông nam châu Á, tập tài liệu
cho biết: “Như nhiều nhà chính
trị và báo chí Tây Âu nhận định, Trung Quốc
quyết tâm ‘đánh Liên Xô đến
người Tây Âu cuối cùng’ cũng
như Trung Quốc trước đây đă quyết tâm ‘đánh Mỹ đến người Việt Nam
cuối cùng’ ”. (14)
Tập tài liệu
c̣n cho biết (Trung Quốc): “Ngăn cản nhân dân
Việt Nam thương lượng với Mỹ,
khuyến khích Mỹ tăng cường ném bom miền
bắc Việt Nam, đây chính là cái mà tướng Mỹ M.
Taylor gọi là quyết tâm của những người lănh
đạo Trung Quốc “đánh Mỹ đến
người Việt Nam cuối cùng”, nhằm làm suy yếu
Việt Nam, có lợi cho chính sách bành trướng của
họ.” (15)
Nạn nhân của
Mậu thân 1968 là hàng ngàn thường dân vô tội đă
bị cộng sản chôn sống, giết chết hay gây
thương tích bản thân. Là những chiến sỹ
của quân lực Việt Nam Cộng Ḥa đă hy sinh hay mang
thương tích do quân đội cộng sản vi phạm
ngưng bắn. Là tâm lư của hằng chục triệu
người dân miền Nam khi phải chứng kiến
tội ác của cộng sản Việt Nam.
Thế nhưng
trong khi kế họach tổng tấn công Mậu Thân
được sửa sọan ở Bắc Kinh và Hà
Nội. Để "bảo đảm bí mật", các
thành viên Mặt trận Giải Phóng Miền Nam, các lực
lượng vũ trang Bắc Việt xâm nhập chỉ
biết được khi tham gia cuộc tổng tấn
công. Đa số cán binh cộng sản bị lường
gạt đưa vào cuộc chiến mệnh danh
"giải phóng miền Nam" và "nhân dân miền
Nam" sẽ nổi dậy phối hợp với họ
để giải phóng Miền Nam. Hậu quả của
cuộc tổng tấn công là hằng trăm ngàn cán binh
cộng sản tử trận, hằng trăm ngàn
người c̣n mang thương tích từ thể xác
lẫn tinh thần. Họ và gia đ́nh cũng cần
được kể là những nạn nhân của
những người cầm quyền Bắc Kinh — Hà
Nội trong chiến lược ṭan cầu “đánh
Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng” của
Trung Quốc.
Một nhân vật
được nhiều lần nhắc đến trong bài
này, Phạm văn Đồng, ở cuối đời
đă sám hối và nhắc nhở các đồng chí của
ông như sau: “tất cả chúng ta vừa là nạn nhân,
vừa là thủ phạm, vừa là công tố, vừa là
quan ṭa và cũng vừa là bị cáo.”
Mậu thân đă
xảy ra 42 năm trước, nhưng trong nội tâm
từng người Việt từ cả hai phía Quốc
Gia hay Cộng Sản vẫn c̣n nhiều chia rẽ. Sự
chia rẽ làm suy yếu nội lực dân tộc lại
chính là thành quả lớn nhất mà những người
cầm quyền Bắc Kinh gặt hái trong quá tŕnh 60 năm
chỉ đạo đảng Cộng sản Việt Nam.
Mậu Thân nói riêng cuộc chiến Quốc Gia – Cộng
Sản nói chung được đặt trong chiến
lược ṭan cầu của những người cầm
quyền Bắc Kinh.
Ngày nay nhiều
phần đất ông cha để đă sáp nhập lănh
thổ Trung Quốc. Hằng chục ngàn cây số vuông
vịnh Bắc Bộ đă mất vào tay Trung Quốc. Ḥang
Sa, Trường Sa và Biển Đông đang bị quân
đội Trung Quốc chiếm đóng. Trung Quốc
ảnh hưởng từ Trung ương đảng
đến hạ tầng cơ sở, từ kinh tế
đến chính trị văn hóa, từ tư tưởng
đến hành động … Việt Nam được ví
như một chư hầu, một bán thuộc
địa, một tỉnh nhỏ nghèo của Trung
Quốc. Sáu mươi năm chiến tranh hận thù chia
rẽ đều nằm trong chiến lược ṭan
cầu của của những người cầm
quyền Bắc Kinh.
Hy vọng xuân Canh
Dần năm nay, chúng ta dành chút ít thời gian suy ngẫm
sự thực quan hệ Việt – Trung để
đồng hướng đến một Việt Nam
tự do, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Nguyễn Quang Duy
Melbourne, Úc Đại Lợi
10/2/2010
(1) Hồ Chí Minh Toàn Tập,
1989, Tập 8, trang 258, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà
Nội.
(2) Hồ Chí Minh Toàn Tập,
1989, Tập 8, trang 457, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà
Nội.
(3) Nguyễn minh Cần, 2001, Đảng
Cộng Sản Việt Nam Qua Những Biến Động
Trong Phong Trào Quốc Tế Cộng Sản, trang 129,
Tuổi Xanh xuất bản.
(4),
(5), (7), (8), (9) và (10) Cold War International History
Project, Woodrow Wilson International
Center for Scholar
(6),
(11), (12), (13), 14 và (15) Sự thật về quan
hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua, 1979, nhà xuất bản Sự Thật.