Đây là bài phụ chú cho bài dịch “Người
Mỹ không nên quên các bài học sống động
của ngày 30/4/1975 và chiến tranh Việt Nam”, của
tác giả John Andrews.
Khi điểm sách mới viết về chiến tranh
Việt Nam, John Andrews muốn cảnh báo cho chính
giới Mỹ là cần phải quan tâm đến bài
học Việt Nam để thực thi một chính sách
ngoại giao cho phù hợp hợn trong thời đại
mới. Thực ra, John Andrews không mang đến một
nội dung mới cho độc giả, v́ đă có vô
số các tác giả khác đă đề cập tương
tự trước đây. V́ là người ngoại
cuộc, nên khi nhận định, tác giả có
một số hạn chế nhất định mà người
Việt cần phân biệt khác hơn và cũng không nên
quên các bài học lịch sử này cho chính người
trong cuộc.
1. Trận Khe Sanh
Tác giả xem Khe Sanh là Pyrrhic victory, nghĩa là chiến
thắng không đáng gọi là thắng v́ tổn
thất quá nặng nề cho Mỹ, đây là một
nhận định sai lạc.
Khe Sanh là một trận giao chiến ác liệt với
cấp số sư đoàn, hoả lực pháo binh hùng
hậu, thiết giáp tối tân và không kích quy mô
nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam. Trước
các phản pháo liên tục của Mỹ, các binh sĩ
của QĐNDVN phải rút khỏi Khe Sanh, nhưng
từ bên kia biên giới Lào, họ tiếp tục pháo
kích. Cuối cùng, ngày 6 tháng Bảy năm 1968 lính
Mỹ rời Khe Sanh, chỉ c̣n hành quân lưu động
và tiếp tục ném bom. Khe Sanh thành vùng oanh kích tự
do v́ không c̣n giá trị pḥng thủ chiến lược.
Đến năm 1971, căn cứ Khe Sanh mới
được QLVNCH sử dụng lại.
Các con số thương vong do hai phía đưa ra là không
chính xác, v́ họ xem tuyên truyền chính trị vẫn
là quan trọng hơn quân sự. Phe thắng cuộc
ước tính sau 170 ngày chiến đấu đă
loại khỏi ṿng chiến đấu 11.900 tên địch,
bắn rơi 480 máy bay, 120 xe quân sự, thu và phá
hủy hàng trăm khẩu pháo, trong khi Hoa Kỳ nói là
sau 77 ngày trực chiến đă giết tới 15 ngh́n
người. Hiện nay, không ai có thể kiểm
chứng được là ai thắng và ai thua, mà các
giải mật cũng không thể soi sáng.
2. Trận Điện Biên Phủ
Tác giả cho rằng: “Không nơi nào rơ ràng hơn là
thất bại thảm hại của Pháp tại Điện
Biên Phủ trong năm 1954”, nhưng Tướng Vơ Nguyên
Giáp có phải là một thiên tài binh lược đáng
ca ngợi hay yếu tố sát quân là một thất
bại theo binh pháp cổ điển, vấn đề
đă được tranh luận nhiều, ở đây
không lập lại, đó cũng là một loại
Pyrrhic victory mà tác giả không nhận ra.
3. Trận Mậu Thân
Khi so sánh về tinh thần chiến đấu của
binh sĩ hai phe, tác giả cho là: “Miền Nam không
thể so tương xứng với khả năng kháng
cự và tinh thần quyết tâm của lực lượng
mang dép râu của ông Hồ Chí Minh”.
Tác giả tự mâu thuẫn khi xác nhận khả năng
chiến đấu tinh nhuệ của phía VNCH trong
chiến cuộc Mậu Thân là đă gây tổn
thất thảm khốc cho phía MTGPMN, dù bị tấn công
toàn diện và bất ngờ.
Tướng Trần Văn Trà thú nhận là: “… ta không
đánh giá đúng về tương quan lực lượng
ta địch cụ thể lúc ấy, không thấy
hết khả năng c̣n lớn của địch và
điều kiện c̣n hạn chế của ta, đề
ra yêu cầu quá cao sức thực tế ta có..”.
Nguyễn Văn Linh cho biết là các cơ sở
nội thành bị tiêu diệt và Bộ Chỉ huy
phải mất 1 năm 28 ngày mới tới được
căn cứ. Cuối tháng 9 năm 1968, CSBV đă
ngừng hoạt động và bổ sung không kịp.
Giữa năm 1969 lương thực ở Tây nguyên
chỉ đủ nuôi bộ đội trong khoảng
một tuần, CSBV đă phải điều động
một sư đoàn và các đơn vị không tác
chiến khác “tập kết lần thứ hai” ra
Bắc.
Nguyên nhân tổn thất của CSBV là v́ dân thành
phố miền Nam không nổi
dậy mà ủng hộ chính quyền VNCH,
phần khác là sự chống trả anh dũng của
QLVNCH và tệ hại nhất là các du kích quân không thông
thạo địa h́nh thành phố. Uy tín chính trị
của MTGPMN xuống thảm hại v́ thực lực
quân sự không c̣n. Do đó,
lập luận đề cao cho lực lượng mang dép
râu của tác giả là không thuyết phục.
4. Tổn thất và chiến
thắng
Trong lịch sử chiến tranh nhân loại, chưa có
một trường hợp nào tương tự
xảy ra khi phe thua cuộc tổn thất quá ít: phe
thắng cuộc mất khoảng 1 triệu 1 binh sỉ
và phe thua cuộc khoảng 225.000. Hơn nữa, Việt
Nam đă có nhiều giải pháp khả thi để
kết thúc cho cuộc chiến, thay v́ phải tiếp
tục chết thay cho Liên Xô và Trung Quốc như Lê
Duẩn tự hào.
Do đó, ĐCSVN phải trả một cái giá quá đắt
về nhân mạng theo ư nghĩa Pyrrhic victory mà tác
giả không nhận ra , nhất là khi liều đem sinh
mạng 1 triệu 1 binh sĩ để thắng trong
chiến tranh, nhưng cuối cùng t́m cách bang giao
với Hoa Kỳ trong hoàn cảnh thời b́nh mà toàn dân
và ĐCSVN cùng nhau cam chịu đại bại.
5. Ngày 30 tháng 4 năm 1975
Ngày 30 tháng 4 năm 2019 là một ngày để chúng ta
nhớ về ngày 30 tháng 4 năm 1975 và t́m hiểu
những ǵ mà dân tộc đă sống trong 44 năm
qua. Bằng kinh nghiệm sống với chế độ
và với các sử liệu mới, chúng ta nhận ra
rằng ĐCSVN giải phóng cho tất cả mọi người
trong mọi hoàn cảnh, ngày miền Nam thoát khỏi
chiến tranh cũng là ngày mà miền Bắc hiểu rơ
hơn thế nào là hy sinh cho chính nghĩa. Cả nước
được giải phóng lại bị hủy
diệt trong một hoàn cảnh mới, không phải
chỉ là thiệt hại vật chất mà c̣n tinh
thần, khởi đầu cho một tiến tŕnh tương
phản phức tạp, một nghịch lư bi đát;
thống nhất dân tộc không phải chỉ có vinh
quang mà c̣n là tủi nhục, v́ những người thành
tâm không có chỗ đúng trong ḷng dân tộc, như
đă hứa hẹn.
Từ năm 1975, nếu phe thắng cuộc thức
thời biết tận dụng các tiềm lực
của phe thua cuộc đúng mức và chuyển hướng
đúng lúc, th́ nước Việt Nam thống nhất
đă có một vận hội mới để xây
dựng một quốc gia dân chủ, phú cường và
văn minh. Nhưng đến năm 2019, các hy vọng
chỉ c̣n là ảo vọng.
Dĩ nhiên, chúng ta không thể thay đổi được
ngày 30 tháng 4, ngày đại bại của toàn dân và
phải chấp nhận những hậu qủa đă
xảy ra. Khi nh́n lại sau 44 năm, chúng ta chỉ
thấy một điều hiển nhiên là Đế
quốc Mỹ và tay sai hay thế lực thù địch
không có đủ khả năng đem đến
thảm hoạ cho đất nước như hiện
nay, khi vẹn toàn lănh thổ, chủ quyền dân
tộc tự quyết, tự do và b́nh đẳng cho người
dân chỉ là lư thuyết; ngược lại, ô
nhục ngoại giao, tham nhũng lên ngôi, khó khăn kinh
tế, nợ công tràn ngập, cạn kiệt môi sinh,
suy đồi đạo đức, khủng hoảng giáo
dục, vi phạm nhân quyền, bất ổn xă hội
và đại hoạ diệt vong là thực tế.
Trước thực trạng này, chính quyền chỉ c̣n
biết dùng bạo lực trấn áp để bảo
vệ cho chế độ, nên không đủ nỗ
lực để phát huy dân chủ cho đất nước,
đến nay ră rời chân tay v́ không bảo vệ
nổi, nên kế sách sinh tử cuối cùng là đành
phải giao trọn giang sơn cho phương Bắc trước
khi tháo chạy.
Bằng tỉnh thức t́nh tự dân tộc, trong
hiện tại, không c̣n ai đủ can đảm đặt
ra câu hỏi là ai thằng ai thua, không c̣n ai cay cú và luôn
t́m cách đánh phá đất nước và xuyên tác
lịch sử, không c̣n ai mang tâm trạng thụ hưởng
thành quả chiến thắng là ca ngợi sự lănh
đạo sáng suốt của Đảng. Khi quá
khứ không c̣n, tất cả chúng ta, không phân biệt
ai là ai, phải đang sống trong một đất nước
không có chủ quyền lănh thổ, một chính trường
không c̣n chính giới, đó là các lư do chính đáng
để chúng ta không hân hoan tham gia mừng lễ
kỷ niệm chiến thắng, mà cần giúp đỡ
nhau để có ư thức phản tỉnh và có trách
nhiệm hơn cho tương lai, dù là khi nh́n về tương
lai, chúng ta càng lo sợ hơn v́ không biết đất
nước và con người sẽ đi về đâu.
6. Bài học cho người
Việt?
Trong khi John Andrews cảnh báo các bài học Việt Nam dành
cho người Mỹ là vô cùng sống động,
vấn đề dành cho người Việt là thương
đau hơn.
Trong công cuộc đấu tranh giành độc lập
dân tộc từ tay thực dân, t́nh h́nh Ấn độ
khó khăn và phức tạp hơn Việt Nam, tại
sao Ấn độ thành công bằng giải pháp
bất bạo động, c̣n Việt Nam th́ không? Trong
công cuộc đấu tranh chống các phong trào do
Cộng sản lănh đạo tại Nam Dương, Mă
Lai, Philippines và Việt Nam, tất cả đều
đẫm máu khốc liệt và có ngoại bang yễm
trợ, tại sao các nơi khác thành công trừ
miền Nam Việt Nam? Khi Trung Quốc trỗi dậy và
uy hiếp, Mỹ đă tỉnh thức c̣n Việt Nam
tại sao c̣n tiếp tục tự nguyện làm nô
lệ? Khi Vua Chế Mân dâng hai châu Ô và Lư vào năm
1306 cho nhà Trần và Vương quốc Chiêm thành đă
diệt vong, tại sao Việt Nam không có khả năng
học tập kinh nghiệm để tránh cảnh
lịch sử này lập lại?
Đất nước đang nguy cơ hơn bao giờ
hết. Đừng nên vọng tưởng là có phép
lạ “bất chiến tự nhiên thành” hay “ngư
ông thủ lợi” xảy ra để thay cho toàn dân,
mà chuyển hoá tại Đông Âu và Liên Xô là thí
dụ. Chế độ Cộng sản là nguyên nhân cho
mọi thảm hoạ hiện nay, sức mạnh
của toàn dân sẽ đem lại giải pháp và
quyền dân tộc tự quyết là phương
tiện.
Vấn đề là sự chọn lựa và quyết tâm.
Nỗ lực rồi hăy cậy trông. Tỉnh thức thân
phận chính trị trong t́nh tự dân tộc là
một hy vọng khởi đầu và cuộc tổng
biểu t́nh ngày 10 tháng 6 năm 2018 là một tin vui chung
cho tinh thần đấu tranh đoàn kết.
|