Nh́n lại cuộc xung đột giữa Việt Minh và Phật Giáo Hoà Hảo Nhân kỷ niệm
75 năm ngày Đức Huỳnh Giáo Chủ thọ nạn tại Đốc Vàng
(27/3/2022) |
Lể tưởng niệm ngày Đức Thầy
thọ nạn được tổ chức tại tư
gia của một tín đồ trong năm 2021. Ảnh:
GHPGHH Thuần túy. Vấn
đề Bối
cảnh xung đột giữa Việt Minh và PGHH Nguyên
nhân chính cho trở lực này là hai giáo phái Cao Đài
và Hoà Hảo đang nắm ưu thế địa phương
trong các sinh hoạt tự trị, có hằng triệu tín
đồ trong hai trọng điểm kinh tế trù phú
và biến thành hai tổ chức đấu tranh vũ
trang tự vệ. Đó
là lư do tại sao Việt Minh không thể hoạt động
tại miền Tây Nam Bộ, nơi có Huỳnh Phú
Sổ đang lănh đạo PGHH. Phật
Giáo Hoà Hảo và Hùynh Phú Sổ
Huỳnh Phú Sổ là tên của
vị giáo chủ khai sáng đạo PGHH, sinh ngày 25 tháng
11 năm Kỷ Mùi, nhằm ngày 15 tháng Giêng năm 1920,
tại làng Hoà Hảo, quận Tân Châu, tỉnh Châu
Đốc (nay là thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú
Tân, tỉnh An Giang). Sở dĩ có tên là PGHH v́ đạo
phát sinh tại làng Hoà Hảo, nơi ông ra đời. Sau
khi học xong chương tŕnh tiểu học, ông
phải nghĩ v́ lư do sức khoẻ. Đến năm
18 tuổi, bỗng nhiên ông hết bệnh và thay đổi
toàn diện từ thể xác và tinh thần. Ông trở
nên khôi ngô tuấn tú và có một kiến thức uyên
bác về Phật học và Hán học, hai tài năng
nổi bật là xuất khẩu thành thơ và chữa
bịnh. Đến
năm 19 tuổi, ông nổi danh khi trị được
nhiều bệnh nan y với các phương thức
trị liệu dân tộc thật đơn giản.
Bằng những lời thơ đầy chân t́nh và
dể hiểu như: “Quyết dạy trần nên nói lời thường hoặc “Thuyền
Bát Nhă ta cầm tay lái Quyết đưa người khỏi
bến sông mê” ông
khuyên mọi người nên học Phật và tu nhân. Nhờ
hai cách này mà ông thu hút được hằng triệu
nông dân làm tín đồ và thanh thế ngày càng lan
rộng khắp miền Tây. Đến
ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Măo nhằm ngày 4 tháng 7 năm
1939, ông thành lập đạo PGHH khi tuyên bố: “Ta thừa vâng sắc lệnh Thế Tôn Kể
từ ngày này, với ḷng tôn kính thiêng liêng, tất
cả tín đồ gọi ông là Đức Thầy hay
Đức Huỳnh Giáo chủ. Về
nội dung giáo lư, Đức Thầy khuyến khích dân
chúng tu theo đạo Phật với các nội dung
Tứ diệu đế, Bát chánh đạo, Thập
Nhị Nhân Duyên và Tứ ân. Với việc đơn
giản hoá giáo pháp cao siêu cho phù hợp với tŕnh
độ nông dân, Đức Thầy đă biến
Phật giáo có được một nền tảng
thuần tuư dân tộc Việt Nam, làm thành một
cuộc cách mạng tôn giáo, văn hoá và xă hội. Đức
Thầy sáng tác được sáu tác phẩm bằng
3602 câu thơ, trên 200 bài thơ đối đáp và
một số bài văn xuôi. Bằng các thi kệ b́nh dân,
dễ học và dễ nhớ, Đức Thầy đă
đưa ra nội dung chính là khuyên người đời
tu niệm, kêu gọi ḷng ái quốc, đấu tranh cách
mạng và cải tạo xă hội. Về
h́nh thức tu tập, Đức Thầy đề ra tám
điều răn cấm và các lời khuyên bổn
đạo, đề cao việc tu tại gia. Trong Giác Mê
Tâm Kệ, Đức Thầy nêu cao vai tṛ của cư
sĩ: Đức
Thầy không lập các tăng đoàn chuyên lo hoằng
pháp và xây dựng các cảnh chùa nguy nga. Trong Sấm
giảng Khuyên Người Đời Tu Niệm, Đức
Thầy nói rơ: “Muốn cho dân hiểu đạo mầu V́
thế, Đức Thầy lập ra các Ban Trị
sự địa phương để khuyến khích
đồng đạo tu tập và các Độc
Giảng đường đơn sơ là nơi
gặp gỡ để tụng niệm. Tín đồ cũng
thay đổi các việc thờ phượng, hành
lễ, tang lễ, hôn nhân trong chiều hướng
Việt hoá các nghi thức và bài trừ mê tín dị
đoan. Bằng chứng là trong Giác Mê Tâm Kệ, Đức
Thầy khuyến khích: Ngoài
việc dựng Đạo, Đức Hùynh Giáo Chủ
c̣n lo cứu Đời bằng cách trực tiếp tham
gia vào các sinh hoạt chính trị, cụ thể là thành
lập Việt Nam Độc Lập Vận Động
Hội và Việt Nam Ái Quốc Đảng. Ngay
khi Nhật đảo chính Pháp thành công, vào ngày 10/3,
Đức Thầy đưa ra lời kêu gọi tín
đồ nên tha thứ cho những người đă gây
tội ác cho dân tộc để cùng chung lo xây
dựng đất nước trong tinh thần từ bi
hỷ xă. Sau
khi Hoàng Đế Bảo Đại tuyên bố Việt
Nam giành được độc lập và huỷ
bỏ các Hiệp ước với thực dân Pháp,
Đức Thầy, nhân danh Việt Nam Độc
Lập Vận Động Hội và Cố vấn danh
dự của Việt Nam Quốc Dân Đảng cũng
hô hào mọi tầng lớp xă hội phải ư
thức về một giai đoạn nghiêm trọng
của lịch sử đă đến, do đó,
tất cả phải đoàn kết để xây
dựng đất nước, và đặc biệt lên
án nghiêm khắc mọi hành vi tư thù gây đẩm máu. Sau
đó, do nhu cầu của t́nh thế thay đổi liên
tục, Đức Thầy tham gia nhiều tổ
chức khác như Mặt Trận Quốc Gia Thống
Nhất, Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp, Việt
Nam Dân Chủ Xă Hội Đảng, Uỷ Ban Hành Chánh
Kháng Chiến Nam Bộ. Điểm
sáng chói trong sự nghiệp của Đức Thầy,
một thanh niên 26 tuổi và tràn đầy nhiệt
huyết, là đứng ra thành lập Việt Nam Dân
Chủ Xă Hội Đảng ngày 21/9/1946, một chính
đảng để cứu nước và xây dựng
một nền móng dân chủ cho xă hội. Cho đến
ngày nay, Bảng Tuyên ngôn của Đảng vẫn c̣n
có giá trị nội dung cao cả và mang tính thời
sự. Trong
bối cảnh xung đột cực kỳ đẳm máu
giữa Việt Minh và PGHH tại miền Tây, đáp
lời mời của hai đại diện cho Việt
Minh là Trần văn Nguyên, Đặc phái viên kiêm Thanh
tra Chánh trị Miền Tây Nam bộ và Bửu Vinh,
Uỷ viên Quân sự tại Long Xuyên, Đức
Thầy tham dự một phiên họp hoà giải vào ngày
16/4/1947 (25/2/1947 Đinh Hợi) tại Đốc Vàng, xă
Tân Phú, huyện Thanh B́nh, tỉnh Kiến Phong (nay là
tỉnh Đồng Tháp) và tại đây đă bị
Việt Minh sát hại. Biến
cố này là nguyên nhân làm cho sự hợp tác giữa
PGHH và Việt Minh trong việc chống Pháp chấm
dứt và một cuộc xung đột “không đội
trời chung” của hai bên khởi đầu, gây ra
bao kinh hoàng đến lịch sử cận đại
của miền Nam. Hợp
tác Ngay
sau khi Nhật đảo chánh Pháp, t́nh h́nh tại
miền Tây là vô chính phủ và luật pháp. Để
tạm thời giải quyết, nỗ lực trước
tiên của Đức Thầy là lo cũng cố
tiềm lực của PGHH thành hệ thống Bảo An
Đoàn, một lực lượng vũ trang tự
vệ đă được thành lập vào năm 1944 và
sau đó kết hợp với các đoàn thể khác
để thành lập một phong trào đấu tranh
thống nhất về chính trị lẫn quân sự. Do
đó, sau nhiều vận động của Đức
Thầy, Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất ra
đời với sự tham gia của Cao Đài,
Việt Nam Quốc Dân Đảng, Việt Nam Quốc
Gia Độc Lập Đảng, Đại Việt và
B́nh Xuyên. Theo
dự kiến, Mặt Trận chuẩn bị thành
lập bốn sư đoàn dân quân cách mạng: B́nh
Xuyên thành lập Đệ nhất sư đoàn, Cao
Đài Đệ nhị sư đoàn, Quốc Dân Đảng
Đệ tam sư đoàn và PGHH Đệ tứ sư
đoàn. Thành lập xong, Mặt Trận sẽ biểu
t́nh để phô trương thanh thế. Sau
khi tổ chức được một cuộc biểu
t́nh rầm rộ với khoảng 200.000 người
tham dự vào ngày 21/8/1945 tại Sài G̣n, Mặt Trận
không thành lập được chính quyền và quân
đội như dự kiến. Trong
chiến dịch Pháp trở lại Đông Dương,
đại tá Cédile nhảy dù xuống Tây Ninh ngày
22/8/1945 làm cho t́nh thế đấu tranh chống Pháp
của các tổ chức thay đổi triệt để. Tương
tự như đă xảy ra tại Quảng trường
Ba đ́nh, Hà Nội, dù là c̣n tổ chức phôi thai,
nhưng Việt Minh biết lợi dụng t́nh thế
hỗn loạn này để gây tiếng vang trong
quần chúng miền Nam. Ngày
25/8/1945 Việt Minh thành lập Uỷ Ban Hành Chánh Nam
Bộ Lâm Thời (Lâm Uỷ Hành Chánh) gồm có 8
uỷ viên thuộc Đảng Cộng Sản và
một độc lập. Trần Văn Giàu tự phong
là Chủ tịch Ủy ban. Trong
thời gian ngăn ngủi, Việt Minh đạt
được một vị thế lănh đạo
tạm thời trong hệ thống chính quyền mới
và mong manh, trong khi các đoàn thể đấu tranh khác,
do thiếu đoàn kết và thực lực, nên không
tạo nên một chuyển biến đáng kể nào
cho t́nh thế. Ngày
27/8/1945, Trần Văn Giàu lén gặp Cédile để t́m
cách thương thuyết. Hành động đơn phương
của Việt Minh bị toàn thể các lực lượng
phản đối mạnh mẽ. Để
cải tổ nhân sự cho phù hợp với t́nh h́nh
mới, Đức Huỳnh Giáo chủ đă chủ
tọa một cuộc họp giữa Việt Minh và
MTQGVNTN trong ngày 4/9/1945 tại trường Mỹ
Nghệ Gia Định. Trong
cuộc họp tiếp theo vào đêm 7/9/1945 tại
trụ sở Tổng Công đoàn đường De la
Grandière (trước là đường Gia Long, nay là Lư
Tự Trọng) có kết quả là Lâm Uỷ Hành chánh
được cải danh thành Uỷ ban Nhân dân Nam
Bộ, đặt văn pḥng tại Chợ Đệm
với thành phần nhân sự mới. Phạm
Văn Bạch được đề cử làm
Chủ tịch, Trần Văn Giàu làm Phó chủ
tịch kiêm Uỷ viên Quân sự và Đức Thầy
là “Ủy viên Đặc biệt”. Mục đích
của Đức Thầy trong lúc này là t́m cách hoà
giải với Việt Minh, nhưng thiện chí không
được đáp ứng. Bằng
chứng là hai ngày sau (9/9), Trần Văn Giàu tung người
bao vây bắt Đức Thầy tại văn pḥng
ở 8 đường Sohier, (đường Tự
Đức, bây giờ là Nguyễn văn Thủ), góc
đường Miche (đường Phùng Khắc Khoan,
bây giờ vẫn là Phùng Khắc Khoan). Nhờ cải
trang và di chuyển bằng một xe của Hiến binh
Nhật, Đức Thầy thoát nạn và đến nơi
một điểm bí mật an toàn. Về
sau, các tín đồ cho biết là Đức Thầy
lui về sống ẩn dật tại một miền
rừng núi tại Bà Rịa, cải trang thành một người
Thượng để tránh thuộc hạ của
Trần Văn Giàu theo dơi và chờ Tổng Bộ
Việt Minh giải quyết việc hợp tác. Sở
dĩ có sự chờ đợi này và không có ư định
trả thù, v́ trước đó, Đức Thầy
đă được Tổng Bộ Việt Minh công
nhận là Đại diện cho Việt Minh tại Nam
Bộ. Ông Nguyễn Xuân Thiếp, đại diện cho
Đức Thầy khi tháp tùng phái đoàn Nam Bộ ra
tham dự Hội nghị Tân Trào cũng như ông Hoàng
Quốc Việt và Cao Hồng Lĩnh (Đại
Diện Tổng Bộ Việt Minh) về sau đều
xác nhận vai tṛ này của Đức Thầy. Nhưng
Tổng Bộ Việt Minh cũng không giải quyết
vấn đề. Chủ
trương của Uỷ Ban trong lúc này là không
trực tiếp đấu tranh vũ trang với Pháp mà
t́m cách thương thuyết. Sau khi các đàm phán
thất bại, chiến sự bộc phát dữ
dội, đó cũng là lư do làm cho các tranh chấp
trong các đường lối đấu tranh chống
Pháp của các tổ chức càng trầm trọng hơn. Điển
h́nh là việc Việt Minh liên tục sát hại các tín
đồ PGHH và nổi tiếng nhất là vụ ông Hùynh
Thạnh Mậu và sau đó, chính Đức Thầy là
nạn nhân. Xung
đột Sát
hại Huỳnh Thạnh Mậu Một
tiếng vang chính trị lớn nhất trong lịch
sử đấu tranh tại miền Tây là ngày 8/9/ 1945.
Khoảng 20.000 tín đồ PGHH khắp các tỉnh
miền Tây đổ dồn về Cần Thơ, địa
điểm cuộc biểu t́nh. Mục
đích của tín đồ là kêu gọi chống chính
sách độc tài của thực dân Pháp, yêu cầu
phải vũ trang cho quần chúng, thanh lọc thành
phần nhân sự trong Uỷ Ban Hành Chánh Nam Bộ và
ủng hộ Việt Minh. Ban
tổ chức gồm có các ông Huỳnh Thạnh
Mậu, em ruột của Đức Thầy, Trần văn
Hoành, trưởng nam của ông Trần Văn Soái và
Nguyễn Xuân Thiệp (thi sĩ Việt Châu). Cuộc
biểu t́nh này có xin phép và được Trần văn
Khéo, Chủ tịch Uỷ ban Hành Chánh tỉnh Cần
Thơ, chấp thuận. Theo
dự kiến, các tín đồ tụ tập tại
địa điểm, nhưng cho đến buổi trưa
trong ngày, bị ngăn trở tiến hành v́ nhiều lư
do, mà về sau, có nhiều giải thích khác nhau. Chính
quyền nghi ngờ là Ban Tổ chức âm mưu
nổi loạn bằng vũ trang để chiếm
tỉnh Cần Thơ, hoặc có khuynh hướng thân
Nhật, v́ Huỳnh Thạnh Mậu có thời gian làm
thông dịch viên cho Nhật. Do
đó, Ban Tổ chức phải t́m cách điều
đ́nh với Việt Minh nhưng không có kết
qủa. Không thể chờ đợi, tất cả
phải tự động giải tán. Nhưng
th́nh ĺnh, bên Việt Minh bắn xả vào đoàn người
không vũ trang đang trở trên đường
trở về nhà, bắt Ban Tổ chức và nhiều tín
đồ khác. Tất cả bị giam cầm đánh
đập tàn nhẫn. Cuối
cùng, cả ba trong Ban Tổ chức bị Quốc gia
Tự Vệ Cuộc (Công An Việt Minh) vu cáo là “âm mưu
cướp chính quyền và chiếm tỉnh Cần Thơ”
và xử tử h́nh tại vận động trường
Cần Thơ vào ngày 7/10/1945. Sau
vụ này, hàng ngàn tín đồ khác bị Việt Minh
giam cầm và sát hại. Theo một ước lượng,
chỉ trong năm 1945, số tín đồ và cán bộ
của Hoà Hảo tử vong lên khoảng 10.000. Sát
hại Đức Huỳnh Giáo Chủ Sang
năm 1946, tại miền Tây, t́nh h́nh cực kỳ căng
thẳng khi xung đột giữa lực lượng vũ
trang Hoà Hảo và Việt Minh ngày càng đẩm máu. Trước
không khí ngột ngạt này, một Uỷ ban Hoà
giải đă thành h́nh với các thành viên gồm có
ông Hoàng Du Khương (Việt Minh), Linh mục
Nguyển Bá Luật (Công Giáo) và Luật sư Mai Vân
Dậu (Hoà Hảo). Sau
các phiên họp đều bất thành, cuối cùng, hai
phía đồng thuận là Bửu Vinh, Uỷ viên Quân
sự đại diện cho Việt Minh tại Long Xuyên,
và Đức Huỳnh giáo chủ, sẽ gặp nhau
tại Tân Phú, Đồng Tháp Mười vào đêm
16/4/1947 để giải quyết. Diễn
tiến của cuộc họp lịch sử này
được tường thuật trong tác phẩm
“Thất Sơn Mầu Nhiệm” của Dật Sĩ
và Nguyễn Văn Hầu, xin được trích
dẫn như sau: “Y
lời hẹn, Đức Thầy xuống ghe ra văn
pḥng Bửu Vinh, có một liên lạc của Uỷ ban
Hành chánh dẫn đường. Trời
tối như mực. Đi một đổi xa xa
bỗng trên bờ có tiếng la: “Ghe ai đó? Tại
sao giờ này đă thiết quân luật mà c̣n dám
đi?” “Đi
ra văn pḥng Ông Bửu Vinh”, người liên lạc
trả lời. “Ghe
ghé lại”. Một tiếng khác tiếp theo. Đèn
chói rọi xuống ghe và có người ra lệnh tŕnh
giấy tờ. Ông Thiện lật đật chạy lên
cho coi giấy. Th́ ra người hỏi đó là
Bửu Vinh. Y hỏi ông Thiện “Ông Uỷ Viên Đặc
Biệt có dưới ghe không? “Có,
Đức Thầy ở dưới ghe, vội vă
trả lời. Bửu
Vinh mời Đức Thầy lên văn pḥng, Ngài
liền đi với bốn tự vệ quân. Văn
pḥng này đặt trong một ngôi nhà ngói. Đức
Thầy vào bàn giữa tiếp chuyện với Bửu
Vinh, c̣n bốn tự vệ quân th́ cầm súng đứng
hai bên cửa, cách Đức Thầy một thước
tây. Mười
phút sau, lối 7 giời rười tối, bọn
Việt Minh ở ngoài đi vô 8 người chia ra
cặp nách bốn tự vệ quân của Đức
Thầy và đâm chết ba người. Người
thứ tư, anh Phan Văn Tỷ, tức mười
Tỷ nhờ giỏi vỏ và lanh trí nên thoát khỏi,
chạy ra ngoài có bắn một loạt mi tray dết. Lúc
anh mười Tỷ né khỏi mũi dao găm của
một trong hai chiến sĩ Việt Minh cặp nách th́
người chiến sĩ kia bị đồng chí
của ḿnh đâm trúng té quị. Vừa
lúc đó th́ Đức Thầy, từ trước
đến giờ vẫn b́nh tỉnh, lẹ làng
thổi tắt đèn. Trong văn pḥng tối thui, không
ai biết Đức Thầy đi đâu cả. … Vào
lúc 12 giờ khuya, một người tín đồ PGHH
ở gần chổ xảy ra cuộc bạo hành,
chạy ngựa mang đến Phú Thành một bức
thư chính của Đức Thầy trao tận tay cho
ông ta. Bức thư ấy như vầy: “Ông Trần Văn Soái và Ông Nguyễn Giác
Ngộ. Tôi vừa hội hiệp với ông Bửu
Vinh bỗng có sự biến cố xảy ra, tôi và ông
Bửu Vinh suưt chết, chưa rơ nguyên nhân, c̣n điều
tra, trong mấy anh em pḥng vệ không biết chết hay
chạy đi, nếu có ai chạy về báo cáo
rằng tôi bị bắt hay là mưu sát th́ các ông
đừng tin và đừng náo động. Cấm chỉ đồn đăi, cấm
chỉ kéo quân đi tiếp cứu, hăy đóng quân
tại chổ. Sáng ngày tôi sẽ cùng ông Bửu Vinh điều
tra kỹ lưởng rồi sẽ về sau. Phải triệt để tuân lịnh. Ngày 16.4.1947, 9 giờ đêm. Kư tên: Huỳnh Phú Sổ …
Thế là từ ngày 16. 4.1947 đến nay không ai
biết Đức Thầy lưu trú phương nào”.
(Hết trích dẫn) Luật
sư Mai Văn Dậu có cho giảo nghiệm lá thư
và chử kư và xác nhận là đích thực của
Đức Thầy. Nhưng tại sao lại có việc
thành h́nh lá thư này, về sau, có nhiều lối
giải thích khác nhau. Một
là, Bửu Vinh sát hại Đức Thầy ngay trong
đêm này rồi viết thư giả và yêu cầu
một tín đồ đến trao hai ông Soái và ông
Ngộ. Hai
là, sau khi bị mưu sát, Đức Thầy thoát
nạn và lại bị Bửu Vinh bắt. Muốn tránh
cảnh lực lượng vũ trang Hoà Hảo đến
giải cứu, nên Bửu Vinh ép buộc hay thuyết
phục Đức Thầy viết thư và nhờ
một tín đồ chuyển đi, rồi mới sát
hại. Ba
là Đức Thầy thoát nạn và tạm thời
vắng mặt mà không ai biết nơi lưu trú.
Giả thuyết này khó thuyết phục, v́ khi thoát
được th́ không có lư do ǵ để Đức
Thầy cần đến lá thư và không xuất
hiện. Bốn
là, Đức Thầy không c̣n xuất hiện nửa là
chuyện “thiên cơ bất khả lậu”, v́ không
thể giải thích theo lư trí thông thường mà theo
niềm tin tôn giáo, thiên chức dựng Đạo và
cứu Đời của Đức Thầy đă
chấm dứt trong hoàn cảnh này. Cho
đến ngày nay, nhiều tín đồ luôn luôn tin tưởng
về giả thuyết này, cho là Đức Thầy c̣n
“vắng mặt“ hay “đi xa“ và hy vọng sẽ c̣n
dịp “trở về để cứu độ chúng
sinh“ trong một hoàn cảnh khác. Nhiều tín đồ
c̣n chứng minh, Đức Thầy có lần dặn ḍ
bổn đạo là: “Ta là kẻ vô h́nh, hữu ảnh Tài
liệu dẫn chứng Về
sau, có nhiều tài liệu khác nhau được
lần lượt khám phá và công bố nội dung
việc sát hại. Báo
Phục Hưng Ngày
16/ 4/1949, báo Phục Hưng có bài tường thuật
về việc Đức Thầy bị Việt Minh
bắt, sau một phiên xử th́ bị hành quyết. Trong
phiên xử, Trần Văn Nguyên và Bửu Vinh đă
tranh cải quyết liệt về việc bắt và xét
xử. Nếu Đức Thầy là một thành viên
cấp cao của Nam Bộ th́ Bửu Vinh, một Uỷ
Viên tỉnh, không có quyền ǵ đối với
một Uỷ Viên Đặc Biệt như Đức
Thầy. Bửu
Vinh biện minh đây là vấn đề an ninh địa
phương trong t́nh thế nguy ngập và ra lệnh hành
quyết Đức Thầy. Thi thể bị ba người
chặt làm nhiều khúc và đem đi chôn dấu
nhiều nơi. Đức
Thầy ra đi năm 27 tuổi, trong lúc uy tín của
một lănh tụ tôn giáo và chính trị đang lên cao
nhất, một hy vọng chung cho việc kết hợp
các phong trào đấu tranh tại miền Nam. Có
một truyền thuyết khác cho là Đức Thầy
cảm hoá được ba người thi hành án và
họ tha cho ông được thoát đi trong đêm
tối. Notes
sur la Secte PGHH Notes
sur la Secte PGHH (Những ghi chú về Giáo phái PGHH) là
một tuyển tập tài liệu bằng Pháp ngữ
do Savani, Đại tá Pḥng Nh́, sưu tập, hiện
đang lưu trữ tại thư viện CHEAM, Paris VI,
mang mă số 300 893. Theo
tài liệu này, Ông Phạm Ngọc Thuần, Phó Chủ
tịch Ủy Ban Thường vụ Ủy Ban Hành chánh
Nam Bộ kư Quyết định vào ngày 28/04/1947,
với nội dung chính lên án Giáo chủ PGHH là phản
động và cụ thể là: 1 – Ông Huỳnh Phú Sổ bị cách chức
Ủy viên Đặc biệt của Nam bộ kể
từ ngày ra Quyết định này, Văn
bản này có một điểm đáng nghi ngờ
là Chủ tịch Phạm văn Bạch không kư mà
là ông Phạm Ngọc Thuần. Một
nghi vấn khác là ông Phạm Ngọc Thuần, lúc
cuối đời sống tại Paris, khi được
hỏi về quyết định này, ông xác định
là không bao giờ kư và chỉ biết được văn
bản sau khi được công bố, nhưng cho
biết thêm là Hồ Chí Minh có biết hoặc ra
lệnh cho việc sát hại này. Thông Cáo
của Uỷ Ban Nam Bộ Sau
đó, ngày 20/5/1947, Ủy Ban Nam Bộ ra Thông Cáo về
bản án với nội dung như sau: Trong buổi họp bất thường ngày
25 tháng 4 năm 1947, Ban Chấp Hành Nam Bộ đă
đề cử một Ṭa án Đặc biệt
cách chức Ủy viên Đặc biệt của Ông
Huỳnh Phú Sổ và tuyên án tử h́nh Ông v́ tội
phản động và âm mưu tạo bất ổn
tại Miền Tây trong lúc mọi lực lượng nhân
dân phải được bảo vệ để theo
đuổi Kháng chiến. “Ông ấy tổ chức cho riêng Ông
những toán vơ trang, Cơ quan An ninh và Ṭa Án đặc
biệt giống như một Quốc gia trong một
Quốc gia. Ông ra lịnh cho Dân Xă Đảng và tín
đồ PGHH nổi dậy, bắt giết cán bộ
Chánh phủ và dân chúng. Ông bí mật gởi
lực lượng vơ trang của Ông tới Miền Tây
để bảo vệ và khuyến khích những người
cướp bốc và gây bất ổn. Đảng viên Dân Xă Đảng và tín đồ
PGHH đă hợp tác với Quân đội Pháp để
đánh lại Quân đội Chánh phủ và khủng
bố đồng bào dân sự. Ông Huỳnh Phú Sổ
đă bị hành quyết.” Hai
văn bản, một Quyết định, một Thông
cáo có nội dung giống nhau, nhưng ngày khác nhau, người
kư khác nhau cho thấy cả hai là bất thường,
không đem lại giá trị về hiệu lực
của một văn kiện hành chánh. Nội
dung sách nhằm tường thuật về cuộc
đời của Huỳnh văn Trí, tức Mười
Trí, là đảng viên Cộng sản nhưng tham gia
hoạt động trong Quân đội B́nh Xuyên, năm
1949 được Trung Uơng đưa về miền
Tây để lănh đạo PGHH thay cho Đức
Thầy với danh nghĩa Sư Thúc. Cũng
cần phải ghi nhận một sự kiện bên
lề là Mười Trí và Đức Thầy có sinh
hoạt chung tại miền Đông trong một thời
gian và gọi nhau là anh em trong t́nh chiến đấu,
đó là sự thực. Nhưng
theo quan điểm chung của các tín đồ, Mười
Trí không phải v́ thế mà là Sư Thúc của PGHH
theo ư nghĩa truyền thừa trong tôn giáo, như
về sau Việt Minh tuyên dương hay tác giả
đề cập trong tác phẩm này. Truyện
kể là lúc Mười Trí đang đóng quân tại
Đ́nh Quỳnh, Rạch giá và một hôm có tiếp
Bửu Vinh tại văn pḥng. Hồng Anh và Tư Đốc,
trước đây là hai tín đồ PGHH nay đi theo
Mười Trí, cũng có mặt trong buổi hội
kiến. T́nh
cờ, Hồng Anh nh́n thấy chiếc đồng
hồ vàng Bửu Vinh đang đeo trên tay và nhớ
lại đó chính là của Đức Huỳnh Giáo
chủ đeo trước đây. Sau đó, Tư Đốc
cũng nh́n thấy khẩu súng lục của Bửu
Vinh đang mang và đoan chắc cũng là di vật
của Đức Huỳnh Giáo chủ. Khi
cả hai đặt vấn đề là hai tang vật là
không c̣n có thể chối cải,
Mười Trí xác nhận Bửu Vinh là người
bắt Đức Thầy, nhưng không phải là người
mà là nhiều người đă lấy quyết định
giết (trang 325,326, 327). Dù
cán bộ Việt Minh tại địa phương
đă giết Đức Huỳnh Giáo chủ, nhưng
Trung ương và ông Hồ có ra lệnh sát hại không,
đó là một vấn đề không sáng tỏ. Gần
đây, có nhiều bức điện tín của Ủy
Ban Kháng chiến Nam Bộ gởi đến Trung
Ương liên quan đến cái chết của Đức
Huỳnh Giáo Chủ được phát hiện. Tài
liệu này hiện c̣n tại Trung Tâm Lưu Trử
Quốc gia IV Hà Nội đă soi sáng vấn đề. Các
văn kiện quan trọng nhất là Quyết định
bắt Đức Huỳnh Giáo chủ và hai bức
điện ngày 17 và 20/04. Nội dung đều xác
nhận một điểm chung là Nam Bộ có báo cáo ra
Hà Nội đều đặn và đầy đủ
về sự việc. Do
đó, Hồ Chí Minh phải biết toàn bộ sự
việc, có tham gia vào việc quyết định
bắt và giết. Việc làm này không phải như Hà
Nội thường biện minh là do các cán bộ địa
phương tự quyền trong t́nh h́nh bất ổn. Lư
do Nhưng
lư do nào để Trung Ương đưa đến
quyết định này? Theo một suy luận chung, tham
vọng lănh đạo của Việt Minh trong công
cuộc kháng chiến tại Nam Bộ là động cơ
chính. Khí thế đấu tranh sôi sụt của
khối PGHH và các đoàn thể khác sẽ làm cho
Việt Minh gặp nhiều khó khăn trong việc đạt
được mục tiêu. Khi
nh́n lại trong toàn cảnh lúc bấy giờ tại
miền Nam, ai cũng thấy về nhân lực, PGHH có
trên hai triệu tín đồ, Dân Xă Đảng là
một đảng mạnh và đưa ra lư thuyết
«Dân chủ Xă hội» phù hợp với giáo lư Tứ
Ân của PGHH, mà «Ân Đồng bào và Nhân loại»
vốn là nền tảng của tư tưởng dân
chủ xă hội. Do
đó, PGHH và Dân Xă Đảng có nhiều triển
vọng hợp tác cùng các tổ chức khác để
nắm toàn quyền lănh đạo kháng chiến ở
Nam bộ. Trong khi Hồ Chí Minh không đủ uy tín như
Đức Thầy, Việt Minh thực lực c̣n suy
yếu và không gây được thiện cảm, nên
sẽ không thể chiếm vai tṛ lănh đạo.
Cuối cùng, Việt Minh chỉ c̣n giải pháp sắt
máu và bất chấp hậu quả về sau cho đất
nước. Hậu
quả Ngày
21/4, sau khi Đức Huỳnh Giáo chủ bị bắt,
Giám đốc Công An Kiều Tân Lập thay mặt Ban
Chấp Hành và Ban Thường Vụ Nam Bộ ra
lịnh cho các tất cả cơ quan Hành chánh, Quân
đội và Công An truy lùng các cán bộ, đảng
viên Dân Xă Đảng, nếu bắt gặp, có toàn
quyền xử lư tùy theo sáng kiến, có nghĩa là,
giết ngay tại chổ. Do
lệnh này mà các cuộc tàn sát vô cùng đẩm máu
đă diễn ra tại các tỉnh Long Xuyên, Cần Thơ
và Sa Đéc. Việt Minh tùy tiện đốt các nhà có
bàn thông thiên và giết người không cần lư do. Cảnh
tượng kinh hoàng diễn ra khắp mọi nơi: ngày
lửa cháy ngập trời, xác chết nổi lểnh
bềnh trên các sông rạch mà không thể nhận
diện, đêm đến dịp để cho „Ban
tối trời“ thanh toán. Dân chúng các địa phương
khác lần lượt ồ ạt tràn về Thánh
địa để t́m nơi lánh nạn càng tạo
thêm cảnh hỗn loạn. Thánh
địa lâm nguy và trở thành cao điểm của
biến cố khi bị Chi đội 18 của Việt
Minh vây chặt trong khi các tín đồ quyết tâm
tử chiến để bảo vệ. Sau
mấy ngày chiến đấu dũng cảm của các
tín đồ trung kiên, Việt Minh đă tháo chạy và
số thương vong của hai bên không được
xác định. Để
ứng phó trước t́nh thế nguy ngập, một
Hội nghị Tối cao của Giáo hội được
khẩn cấp triệu tập, các chức sắc
của Ban Trị sự đi đến quyết định
là phải giử đạo chờ Thầy, bảo
tồn chánh pháp; các lănh đạo của Đảng
Dân Xă cương quyết phải tiếp tục con
đường đấu tranh cách mạng để
bảo tồn chính nghĩa và kiên quyết không hợp
tác với Pháp. Do
t́nh thế thay đổi quá nhanh và nhất là không
đủ sức để vừa chống Pháp và
chống Việt Minh, nên quyết định này không
được tuân hành. Ngược lại, từ ngày
18/5/1947, việc hợp tác liên quân với Pháp-Hoà
Hảo ra đời tại Cần Thơ. Theo
một ước lượng, có khoảng 25.000 tín
đồ PGHH và đảng viên Dân Xă Đảng
bị giết trong thời kỳ này và con số
Việt Minh bị sát hại là không ai rơ. Riêng Bửu
Vinh, về sau trong một tự sự, đă thú
nhận là đă trực tiếp ra lệnh cho hành
quyết trên 2500 tín đồ. Khi
các phe phái lo chống nhau vừa làm suy yếu tiềm
lực và gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến
toàn bộ cục diện đấu tranh chống Pháp. Điển
h́nh là Mặt Trận Quốc Gia Liên Hịệp do
Đức Huỳnh Giáo chủ lănh đạo với bí
danh là Hoàng Anh không c̣n tiếp tục hoạt động.
Mặt trận này nhằm kết hợp các phong trào
đấu tranh không Cộng sản gồm các lực lượng
của Cao Đài, Hoà Hảo, Đại Việt và B́nh
Xuyên, với mục tiêu là đoạt thế chủ
động đấu tranh tại miền Tây. Với
tư cách là Uỷ viên Đặc biệt trong Ủy
ban Hành chánh Kháng chiến Nam bộ, tiếng nói hoà
giải của Đức Thầy vốn đă khiêm nhường
nhưng nay không c̣n nửa. Thực ra, đây là một
tổ chức do Việt Minh lập ra nhằm thu
phục các phong trào đấu tranh khác trong âm mưu
độc quyền lănh đạo. Nhờ thế,
Uỷ viên Quân sự của tổ chức này là trung tướng
Nguyễn B́nh nắm toàn quyền. Nhận
thấy việc hợp tác với Nguyễn B́nh tại
miền Đông không có kết quả, Đức
Thầy quay về miền Tây lănh đạo chiến
khu 8 Đồng Tháp và chiến khu 9 U Minh. Đầu
năm 1947, Đức Thầy dự kiến là với
Chiến thuật Liên khu miền Tây sẽ tái chiếm
Đồng Tháp Mười đă bị thực dân Pháp
oanh kích và Việt Minh đánh phá. Khi người lănh
đạo không c̣n, nên chiến thuật không thể
tiến hành. Việt
Nam Dân Chủ Xă Hội Đảng, một tiếng nói
mới đang bắt đầu gây ảnh hưởng
trong chính trường lịm tắt. Đây là một
chính đảng do Đức Thầy sáng lập cùng
với các bậc trí thức khác không cùng tôn giáo là các
ông Nguyễn Bảo Toàn, Tŕnh Quốc Khánh, Trần Văn
Ân, Nguyễn Văn Sâm. Đức Thầy là lănh
tụ tối cao và linh hồn của Đảng không c̣n,
nên bộ máy tê liệt. Cuối
năm 1947, Nguyễn văn Sâm bị giết tại
Chợ Lớn và Trần Văn Tân tại Gia Định,
cái chết của hai Uỷ Viên Trung Ương Đảng
tạo thêm một chấn động lớn khác
buộc Đảng phải triệu tập một Đại
Hội bất thường và đi đến quyết
định là ngưng hoạt động, các cơ quan
tuyên huấn báo chí tự đ́nh bản và các đảng
viên chuyển sang lĩnh vực giáo dục và hoạt
động bí mật. Kết
luận Đối
với các tín đồ PGHH, Đức Thầy “ra
đi” là một thương tổn không thể hàn
gắn và làm cho mọi hợp tác với Việt Minh
trong công cuộc đấu tranh chống Pháp là bất
khả thi. Về
sau, trước sự kiện đă rồi của
lịch sử, các nhà sử học có đưa ra
chử “nếu” để thảo luận và đi
đến một kết luận chung: nếu Đức
Thầy không bị Việt Minh sát hại, th́ lịch
sử cận đại của Việt Nam sẽ hoàn toàn
khác hẳn. C̣n
tiếp: Triển vọng hợp tác giữa chính
quyền và Giáo hội (Phần cuối)
|