Những
bài học của Tập Cận B́nh về Nga Foreign Affairs Tác giả: Joseph Torigian Dịch giả: Đỗ Kim Thêm
|
Thân
phụ của nhà lănh đạo Trung Quốc đă
dạy cho ông điều ǵ về cách đối phó
với Moscow Vào
ngày 4 tháng 2 năm 2022, ngay trước khi xâm chiếm
Ukraine, Tổng thống Nga Vladimir Putin tới Bắc Kinh,
nơi ông và nhà lănh đạo Trung Quốc Tập
Cận B́nh đă kư một văn bản ca ngợi
mối quan hệ đối tác “không giới
hạn”. Hơn hai năm kể từ ngày đó, Trung
Quốc đă từ chối lên án cuộc xâm lược
và giúp Nga nhận được trang thiết bị,
từ các động cơ máy cho đến máy bay không
người lái, những thứ rất quan trọng cho
nỗ lực chiến tranh. Mối quan hệ
đối tác đang phát triển mạnh mẽ
giữa Tập và Putin đặt ra những vấn
đề nghiêm trọng ở các thủ đô phương
Tây. Phải chăng sự liên minh gắn kết
giữa Moscow với Bắc Kinh trong thời kỳ đầu
Chiến tranh Lạnh đă quay trở lại? Người
Nga và người Trung Quốc liên tục bác bỏ
những lời nói như vậy, nhưng họ cũng
khẳng định rằng, mối quan hệ đối
tác hiện tại bền vững hơn thời kỳ
mà họ cùng nhau lănh đạo thế giới cộng
sản. Tập biết
điều này. Cha của ông, Tập Trọng Huân là
một quan chức cấp cao của Đảng Cộng
sản Trung Quốc (ĐCSTQ), sự nghiệp của ông
là một mô h́nh thu nhỏ của mối quan hệ
giữa Bắc Kinh và Moscow trong thế kỷ XX, từ
những ngày đầu của cuộc cách mạng
hồi thập niên 1920 và 1930 cho đến sự
viện trợ không liên tục trong thập niên 1940 và
việc sao chép toàn bộ mô h́nh của Liên Xô trong
thập niên 1950, và từ sự chia rẽ công khai trong
thập niên 1960 và 1970 cho đến việc xích lại
gần nhau vào cuối thập niên 1980. Mối quan
hệ của ông Tập Trọng Huân với Moscow cho
thấy mối nguy hiểm của sự thân mật và
thù địch, việc trỡ nên quá thân thiết
đă tạo ra những căng thẳng không thể
kiểm soát được, dẫn đến một
cuộc tranh đấu tốn kém như thế nào.
Hiểu được lịch sử đó, ông Tập
Cận B́nh tin rằng đều mối quan hệ
hiện tại giữa Moscow với Bắc Kinh thật
sự bền chặt hơn so với thập niên 1950 và
rằng ông có thể tránh được những căng
thẳng dẫn đến sự chia rẽ trước
đó. Thời Chiến
tranh Lạnh, ư thức hệ cộng sản cuối cùng
đă đẩy hai nước rời xa nhau, trong khi
giờ đây họ thống nhất với nhau hơn
bởi một tập hợp chung về một loạt
các thái độ bảo thủ, chống phương Tây
và theo chủ nghĩa nhà nước. Thời trước
đây, mối quan hệ không tốt giữa các cá nhân
lănh đạo đă làm tổn hại đến
mối quan hệ, trong khi ngày nay, ông Tập và ông Putin
đă biến mối quan hệ cá nhân của họ
trở thành một đặc điểm của quan
hệ đối tác chiến lược. Rồi
những yêu cầu cấp thiết của liên minh trong
thời Chiến tranh Lạnh, đ̣i hỏi mỗi bên
phải hy sinh lợi ích riêng của ḿnh cho phía bên kia,
chứa đựng mầm mống dẫn đến
sự sụp đổ của chính ḿnh, trong khi
trục thuận tiện hiện tại cho phép linh
hoạt hơn. Trung Quốc và Nga sẽ không bao giờ
bước đi cùng nhau như họ đă làm trong
những năm đầu sau Cách mạng Trung Quốc,
nhưng họ sẽ không tách rời nhau nhanh hơn. Mối
liên kết nguy hiểm Tập Cận B́nh
sinh năm 1953, ngay vào cao điểm Trung Quốc đang
sao chép Liên Xô cuồng nhiệt. Khẩu hiệu phổ
biến nhất ở Trung Quốc năm đó là “Liên
Xô hiện tại là tương lai của Trung
Quốc”. Tập Trọng Huân vừa mới chuyển
từ vùng Tây Bắc Trung Quốc đến Bắc
Kinh, nơi ông dành phần lớn bốn thập niên
đầu đời để chiến đấu trong
một cuộc cách mạng mà cảm hứng bắt
nguồn từ Cách mạng Bolshevik năm 1917. Giống
như rất nhiều người thuộc thế
hệ của ḿnh, Tập Trọng Huân đă cống
hiến hết ḿnh cho chính nghĩa bất chấp có
nhiều thất bại và hy sinh cá nhân – một ḷng
tận tụy đă vượt qua đàn áp và tù
đày của các đảng viên dảng CSTQ vào năm
1935 v́ không tuân thủ nghiêm chỉnh theo tinh thần chính
thống cộng sản. Chiến thắng
của những người Bolshevik đă ảnh hưởng
đến giới cực đoan ở Trung Quốc trong
thời kỳ đầu, và Moscow lănh đạo và tài
trợ cho đảng CSTQ trong những năm đầu.
Nhưng tinh thần độc lập ngày càng tăng
của những người CSTQ đi đôi với
sự trỗi dậy của Mao Trạch Đông – và
gắn số phận của Tập Trọng Huân
với số phận của Mao. Trong tự sự
của Mao, giới cực đoan do Liên Xô dào tạo
gần như đă chôn vùi cuộc cách mạng ở
Trung Quốc v́ họ không hiểu được
những điều kiện đặc biệt của
đất nước. Mao cho biết, thành phần giáo
điều này đă đàn áp Tập Trọng Huân vào
năm 1935 giống như họ đă ngược đăi
chính Mao vào đầu thập niên đó, khi Mao bị các
lănh đạo thân Liên Xô trong đảng CSTQ gạt ra
ngoài lề. Tuy nhiên, Mao không
ủng hộ việc đoạn tuyệt với Moscow.
Trong phần lớn thời gian đầu đời
của ḿnh, Tập Trọng Huân gặp rất ít người
nước ngoài, nhưng điều đó đă thay
đổi vào cuối thập niên 1940, khi người
Cộng sản tràn khắp Trung Quốc qua cuộc
nội chiến trong nước. Ông bắt đầu có
những tương tác bền vững với Liên Xô
khi ông là nhà lănh đạo Văn pḥng Tây Bắc
rộng lớn, tổ chức của đảng để
giám sát vùng Tân Cương. Liên Xô đă giúp đảng
CSTQ triển khai sức mạnh quân sự ở đó,
và vào tháng 12 năm 1949, sau khi đảng Cộng
sản giành chiến thắng trong cuộc chiến và
củng cố quyền kiểm soát toàn đại
lục Trung Quốc, Tập Trọng Huân đă đề
xuất thành công với các lănh đạo đảng,
rằng Tân Cương và Liên Xô hợp tác để
phát triển các nguồn lực trong tỉnh. Một năm
sau, Tập Trọng Huân trở thành nhà lănh đạo
Hiệp hội Hữu nghị Trung – Xô vùng Tây
Bắc. Ngay lúc Tập
Cận B́nh chào đời, đảng CSTQ tiến hành
một cuộc thanh trừng lớn đầu tiên –
một vụ việc t́nh cờ có liên quan chặt
chẽ với cả Liên Xô và gia đ́nh Tập. Cao Cương,
một quan chức cấp cao được coi là người
có tiềm năng kế nhiệm Mao, đă đi quá xa
khi chỉ trích các nhà lănh đạo khác trong các
cuộc tṛ chuyện riêng. Mao phản đối người
được ông che chở, và cuối cùng Cao đă
tự sát. Cao có mối quan hệ chặt chẽ
với Moscow, mặc dù đó không phải là lư do
khiến ông bị thanh trừng vào thời điểm
đó, nhưng Mao bắt đầu lo lắng về
những mối liên hệ như vậy và kết
luận rằng chính họ phản bội. Nguy cơ
của mối quan hệ chặt chẽ với một
thế lực nước ngoài, thậm chí là đồng
minh, không thể bỏ qua đối với Tập
Trọng Huân, người đă từng phục vụ
cùng Cao ở phía tây bắc và đă bị đàn áp cùng
với ông vào năm 1935. Tập Trọng Huân hầu như
đă rơi vào cùng cảnh ngộ với ông Cao. Mặc dù sự
nghiệp của Tập Trọng Huân bị tổn thương
do nỗi bất hạnh của Gao, nhưng sau đó ông
vẫn được giao trách nhiệm quản lư hàng
chục ngàn chuyên gia Liên Xô được cử đến
giúp Trung Quốc để tái thiết hậu chiến.
Đó không phải là một nhiệm vụ dễ dàng.
Như Tập Trọng Huân kể lại trong một bài
phát biểu vào năm 1956, những chuyên gia này đă
gặp khó khăn trong việc thích nghi với Trung
Quốc, và một số người trong số họ
đă “chết, bị đầu độc, bị thương,
bị bệnh và bị cướp”, thậm chí
tự sát, cũng là một vấn đề. Cùng năm
đó, khi Mao quyết định cơ cấu chính
trị của Trung Quốc theo “Liên Xô” và
tập trung nhiều quyền lực vào Bắc Kinh,
Tập Trọng Huân cũng được giới lănh
đạo giao nhiệm vụ đề ra kế
hoạch tái cơ cấu chính phủ. Tách
rời Vào tháng 8 và tháng 9
năm 1959, Tập Trọng Huân khi đó là một phó
thủ tướng đầy quyền lực, đă
dẫn đầu một phái đoàn đến Liên Xô.
Thời điểm đó không thích hợp. Vào tháng 6,
Liên Xô từ bỏ lời hứa hỗ trợ chương
tŕnh vũ khí hạt nhân của Trung Quốc. Tập
Trọng Huân dự trù sẽ đến thăm Liên Xô
vào đầu mùa hè năm đó, nhưng đại
hội đảng CSTQ ở Lư Sơn – nơi
Bộ trưởng Bộ Quốc pḥng Bành Đức
Hoài bị thanh trừng – đă phá vỡ kế
hoạch đó. Bành viết một lá thư cho Mao,
chỉ trích ‘Đại Nhảy Vọt’, và Mao không
chỉ giải thích hành động của Bành là
một sự xúc phạm cá nhân mà c̣n nghi ngờ,
một cách không chính xác, rằng nhà lănh đạo Liên
Xô Nikita Khrushchev đă xúi giục ông [Bành] thực
hiện điều đó. Bành Đức Hoài và
Tập Trọng Huân liên kết nhau do mối quan hệ
nghề nghiệp, họ được tôi luyện trên
chiến trường Tây Bắc Trung Quốc. Cũng
giống như cuộc thanh trừng đầu tiên,
cuộc thanh trừng lớn thứ hai của đảng
CSTQ vừa gần gũi với gia đ́nh Tập,
vừa gắn liền với sự nghi ngờ của
Mao về ư định của Liên Xô. Và một lần
nữa, Tập Trọng Huân chỉ sống sót trong
đường tơ kẻ tóc. Kể từ năm
1956, các căng thẳng Trung – Xô tăng dần phía sau
hậu trường, nhưng chúng bùng phát công khai trong
chuyến công du của ông Tập Trọng Huân. Vào ngày
25 tháng 8, cùng ngày Đại sứ quán Liên Xô tại
Bắc Kinh mời Tập Trọng Huân đến thăm,
binh sĩ Trung Quốc đă giết chết một binh
sĩ Ấn Độ và làm bị thương một
người khác ở vùng biên giới Trung – Ấn.
Mặc dù người Trung Quốc kết luận
rằng những cái chết là do tai nạn, nhưng người
Liên Xô lại vô cùng tức giận v́ họ tin
rằng bạo lực sẽ đẩy người
Ấn Độ ra khỏi khối cộng sản và làm
thất bại những nỗ lực của Khrushchev
nhằm đạt được sự ḥa hoăn với
phương Tây trong chuyến đi Washington sắp
tới. Đến Moscow hai
ngày sau vụ bạo lực ở biên giới, Tập
Trọng Huân đă cố gắng hết sức để
khẳng định việc liên minh. Trong cuộc
gặp gỡ riêng tư với một phó thủ tướng
Liên Xô, ông đă cố gắng đưa ra một góc
nh́n tích cực về Đại Nhảy Vọt của
Mao, lúc đó đă diễn ra một năm. Ông đến
thăm cuộc triển lăm về thành tựu của
nền kinh tế quốc dân, nơi trưng bày
những thắng lợi về công nghệ của Liên
Xô, và đặt ṿng hoa tại lăng mộ của hai
nhà lănh đạo đầu tiên của Liên Xô, Vladimir
Lenin và Joseph Stalin. Sau vài ngày ở Ukraine thuộc Liên Xô
và Tiệp Khắc, Tập Trọng Huân trở về
Moscow, nơi phái đoàn của ông đi tham quan văn
pḥng và căn hộ cũ của Lenin trong điện
Kremlin. Rơ ràng ông đă kể với con trai ḿnh về
khoảnh khắc đó: Vào năm 2010, khi Tập
Cận B́nh đến thăm Moscow với tư cách là
phó chủ tịch nước, ông đă yêu cầu
Tổng thống Nga Dmitry Medvedev đưa ông vào cùng pḥng.
Theo một chuyên gia Nga có mối quan hệ tốt,
Tập đă nán lại ở đó và nói với
Medvedev rằng đây là cái nôi của chủ nghĩa
Bolshevik. Tập Cận B́nh tuyên bố rằng, cha
của ông đă nói rằng Nga và Trung Quốc nên luôn
là bạn bè. Tuy nhiên vào năm
1959, Tập Trọng Huân bị kẹt giữa t́nh
trạng khủng hoảng trong mối quan hệ Trung –
X. Vào ngày 9 tháng 9, khi trở lại Bắc Kinh, các nhà
ngoại giao Liên Xô đă thông báo cho Trung Quốc
về kế hoạch đăng một tuyên bố trên
TASS, hăng thông tấn nhà nước Liên Xô, giữ quan
điểm trung lập về cuộc giao tranh biên
giới Trung – Ấn. Phía Trung Quốc rất tức
giận và yêu cầu Liên Xô thay đổi hoặc tŕ
hoăn bản tin. Liên Xô không những từ chối yêu
cầu mà c̣n cho đăng tin vào tối hôm đó.
Tập Trọng Huân rời Bắc Kinh ngay ngày hôm sau –
mặc dù ông dự trù sẽ tiếp tục dẫn
đầu phái đoàn cho đến ngày 18 tháng 9. Khi
Mao và Khrushchev gặp nhau trong tháng sau, Mao đă phàn nàn
về vụ việc và nói: “Thông báo của TASS
khiến tất cả bọn tên đế quốc vui
mừng”. Tranh chấp chỉ
là vết nứt công khai đầu tiên trong liên minh. Mùa
hè năm 1960, Khrushchev rút tất cả các chuyên gia Liên
Xô ra khỏi Trung Quốc và Tập Trọng Huân
được giao trách nhiệm điều hành
việc rời đi của họ. Bài học mà con trai
ông rút ra từ sự việc này là người Trung
Quốc cần phải dựa vào chính ḿnh. Tại
cuộc họp tháng 11 năm 2022 ở Bali, theo một
cựu quan chức ngoại giao cấp cao của Mỹ,
Tập Cận B́nh đă nói với Tổng thống
Mỹ Joe Biden, rằng các hạn chế về công
nghệ của Mỹ sẽ thất bại, đồng
thời chỉ ra rằng việc Liên Xô ngừng
hợp tác công nghệ đă không ngăn cản Trung
Quốc phát triển vũ khí hạt nhân của riêng ḿnh. Nóng
và Lạnh Năm 1962, vận
may của Tập Trọng Huân không c̣n và ông bị
lật đổ trong cuộc đại thanh trừng
lần thứ ba của đảng CSTQ. Cũng giống
như Cao Cương và Bành Đức Hoài, Tập
Trọng Huân bị buộc tội làm gián điệp
cho Liên Xô, mặc dù đó không phải là lư do chính
khiến ông bị thanh trừng. Mao quyết định
rằng, Trung Quốc, giống như Liên Xô trước
đó, đang mất tập trung vào việc đấu
tranh giai cấp, và Tập Trọng Huân bị cuốn vào
sự hủy diệt mà Mao đă nhắm tới. Năm
1965, trong khi Mao đang chuẩn bị tái tổ chức
xă hội Trung Quốc với nhiều tốn kém
nhằm chuẩn bị cho một cuộc chiến có
thể xảy ra để chống Liên Xô hoặc Hoa
Kỳ, từ Bắc Kinh, Tập Trọng Huân bị
đày đến một nhà máy mỏ than cách xa thành
phố Lạc Dương hàng trăm dặm. Trớ trêu
thay, nhà máy đó đă được hoàn thành
với sự giúp đỡ của các chuyên gia Liên Xô
và thậm chí c̣n được một tờ báo địa
phương mô tả là “kết tinh” của “t́nh
hữu nghị Trung – Xô huy hoàng”. Tóm lại, Tập
Trọng Huân đă trải qua 16 năm không c̣n thế
đứng chính trị. Ông phải đợi đến
năm 1978, hai năm sau khi Mao qua đời, mới
được phục chức. Là Bí thư tỉnh
Quảng Đông, Tập Trọng Huân cảnh báo người
Mỹ phải mạnh mẽ chống lại Liên Xô xâm
lược. Trong chuyến đi Hoa Kỳ năm 1980, ông
đă gây ấn tượng với những người
đồng cấp Hoa Kỳ bằng quan điểm
chống Liên Xô của ḿnh và thậm chí c̣n thực
hiện một chuyến đi tới trụ sở
của Bộ Tư lệnh Pḥng không Bắc Mỹ
(North American Air Defense Command NORAD) ở Colorado, nơi ông
đă ghi chú nhiều. Là Ủy viên Bộ Chính trị
chuyên trách điều hành các mối quan hệ với
các đảng nước ngoài có bản chất cách
mạng, cánh tả hoặc cộng sản, Tập
Trọng Huân đă giúp định hướng cuộc
cạnh tranh gây ảnh hưởng của Bắc Kinh
với Moscow trên toàn thế giới. Ông cũng quản
lư các vấn đề Tây Tạng và trong năm năm
đầu của thập niên 1980, ông lo ngại ảnh
hưởng của Liên Xô đối với Đức
Đạt Lai Lạt Ma. Nhưng đến năm 1986,
khi các mối quan hệ được cải thiện,
ông ca ngợi những cải cách của nhà lănh đạo
Liên Xô Mikhail Gorbachev và bày tỏ hy vọng cải
thiện mối quan hệ. Tập Cận B́nh
đă làm ǵ với lịch sử này? Năm 2013, trong
chuyến công du nước ngoài đầu tiên sau khi
trở thành lănh đạo cấp cao, ông đă tới
Nga, nơi ông đă nói chuyện nồng nhiệt
với một nhóm các nhà Hán học về chuyến thăm
năm 1959 của thân phụ ông. Ông nói về những
bức ảnh trong chuyến đi đó đă bị phá
hủy trong cuộc Cách mạng Văn hóa, nhưng thân
mẫu của ông vẫn c̣n giữ những món quà
của cha ông từ chuyến đi. Ông Tập giải
thích, mặc dù nhiều nhà quan sát tin rằng thế
hệ của ông hướng về phương Tây, ông
lớn lên với việc đọc hai nền văn
học Trung Quốc và Nga. Sau khi bị đày về vùng
nông thôn với tư cách là một “thanh niên
được gửi xuống” trong cuộc Cách
mạng Văn hóa, ông dành thời gian để đọc
tiểu thuyết về cách mạng Nga, mà cuốn sách
yêu thích là What
Is To Be Done? (Phải
làm ǵ?) của Nikolay Chernyshevsky. Sau đó,
Tập cho biết, ông thích nhân vật Rakhmetov, một
kẻ cuồng tín cách mạng, người đă
chịu đựng để tôi luyện ư chí. Tập
cho biết là để lấy cảm hứng, ông đă
lang thang trong mưa gió và băo tuyết suốt thời
gian ở nông thôn. Nhưng trong
cuộc nói chuyện hồi năm 2013 với các nhà Hán
học Nga, ông đă không đề cập đến t́nh
trạng ảm đạm của quan hệ Trung – Xô vào
thời điểm ông đọc sách Nga. Năm 1969, năm
ông được đưa về nông thôn, Trung
Quốc và Liên Xô đang xảy ra một cuộc
chiến biên giới không được tuyên bố,
thậm chí c̣n có lo ngại về một cuộc
tấn công bằng hạt nhân của Liên Xô. Ông cũng
không kể cho họ nghe về công việc đầu
tiên của ḿnh sau khi tốt nghiệp đại
học, làm thư kư cho Cảnh Tiêu, Thư kư trưởng
kiêm Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung
ương. Cảnh Tiêu theo dơi Moscow một cách thận
trọng. Năm 1980, tại một cuộc họp ở
Bắc Kinh, Bộ trưởng Quốc pḥng Hoa Kỳ
Harold Brown nói với Cảnh Tiêu khi nói đến quan
điểm của hai bên về Liên Xô, “tôi thấy có
vẻ như từng nhân viên của chúng ta đă cùng
viết chung các tài liệu thảo luận”. Bất
đồng về ư thức hệ Đứng trước
t́nh trạng các quan hệ giữa Nga, Trung Quốc và
Hoa Kỳ hiện nay, thật khó tưởng tượng
được rằng Tập Cận B́nh đă dành
một phần thời niên thiếu của ḿnh để
đào hầm tránh bom nhằm chuẩn bị cho
cuộc tấn công có thể xảy ra với Liên Xô
– hoặc v́ vấn đề đó, cha của ông ta
đă được mời đến thăm NORAD. Tính
linh hoạt của tam giác Washington – Bắc Kinh – Moscow
trong 75 năm qua đă khiến một số người
hy vọng rằng bằng cách nào đó Tập có
thể bị thuyết phục để hạn chế
sự ủng hộ của ông dành cho Nga. Nhưng
những người mong muốn chuyện chia rẽ
Trung – Xô tái diễn, có thể sẽ thất vọng. Có một điều
là, bất đồng ư thức hệ giờ đây
hầu như không c̣n tồn tại trong mối quan
hệ. Đúng là ư thức hệ cộng sản chung
đă đóng vai tṛ như một chất keo đặc
biệt gắn kết Trung Quốc với Liên Xô trong
những năm ngay sau năm 1949. Nhưng thời gian trôi
qua, ư thức hệ này thật sự đă khiến
hai nước khó giải quyết những khác biệt
của ḿnh hơn. Mao có thói quen trong việc giải thích
những khác biệt về mặt chiến thuật là
những tranh chấp ư thức hệ sâu xa hơn. Mao ngày
càng tin rằng, Liên Xô không ủng hộ lập trường
hiếu chiến của Trung Quốc đối với
phương Tây, v́ họ đă đi theo “chủ nghĩa
xét lại”. Và trong số những người
cộng sản, lời buộc tội về lư
thuyết dị giáo đă bùng nổ. Khi Mao và Khrushchev
tranh căi về thông báo của TASS hồi tháng 10 năm
1959, tuyên bố của Bộ trưởng Ngoại giao
Trung Quốc Trần Nghị rằng, Liên Xô là
“những người mua thời gian” đă khiến
Khrushchev đặc biệt tức giận, v́ đặt
vấn đề về tư cách cộng sản
của ông bằng cách coi ông là kẻ phản bội
sự nghiệp cách mạng. Do đó, có rất
nhiều sự thật trong tuyên bố của nhà
sử học Lorenz Luthi rằng “nếu
không có vai tṛ quan trọng của ư thức hệ, liên
minh sẽ không bao giờ được thành lập, cũng
như không thể sụp đổ”. Hơn nữa,
một khi những khác biệt về ư thức hệ
đă được đưa vào phương tŕnh,
thật khó để nói về bất cứ điều
ǵ khác, một phần là v́ các cuộc tranh luận
về ư thức hệ có thể hàm chứa những
lời kêu gọi cho việc thay đổi chế độ.
Năm 1971, sau cuộc tṛ chuyện tương đối
có hiệu quả với hai nhà ngoại giao Liên Xô,
Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đă bộc
phát khi một trong số họ nêu ra vấn đề
về một bài trên Nhân dân Nhật báo mà họ tin
rằng đă kêu gọi người dân Liên Xô bắt
đầu một cuộc cách mạng. Chu lưu ư
rằng, Liên Xô đang tiếp đón Vương Minh,
một lănh đạo đảng CSTQ trong thời
kỳ đầu, là người có xung đột
với Mao và đă bị lưu đày. Chu nói: “Ông nghĩ chúng
tôi sợ ông ta à.
Ông ta c̣n thối hơn cả cứt!” Khi
một nhà ngoại giao Liên Xô yêu cầu một
tham dự viên Trung Quốc ngừng la hét, nói rằng
“hét
lên không phải là tranh căi”, nhà ngoại giao
Trung Quốc đáp trả: “Nếu
không la hét, các ông sẽ
không nghe”. Tuy nhiên, nói một
cách nhẹ nhàng, nước Nga ngày nay đă khác
xa với những lư tưởng của chủ nghĩa
cộng sản. Mặc dù Putin từng gọi sự
sụp đổ của Liên Xô là một “thảm
họa địa chính trị”, nhưng ông thường
bộc lộ những quan điểm khá tiêu cực
về đảng Cộng sản Liên Xô. Trong bài phát
biểu trước ngày Nga xâm lược Ukraine, ông
đổ lỗi cho Lenin v́ đă tạo ra Ukraine
hiện đại và nói về “chế độ
độc tài” và “chế độ toàn trị”
của Stalin. Mặt khác, Tập Cận B́nh tiếp
tục coi trọng di sản của chủ nghĩa
cộng sản. Theo một nhà ngoại giao Úc, các nhà
ngoại giao Nga cảm thấy lúng túng khi ông Tập trích
dẫn về cuốn tiểu thuyết cách mạng Nga
“Thép đă tôi thế đấy”.
Mặc dù không phải là một người theo
chủ nghĩa giáo điều, nhưng Tập Cận B́nh
quan tâm sâu xa đến ư thức hệ và thậm chí
c̣n đổ lỗi cho sự sụp đổ của
Liên Xô một phần là do Moscow đă thất bại
trong việc bảo đảm người dân coi
trọng chủ nghĩa Mác – Lênin. Bất chấp
những khác biệt quan trọng này, giới tinh hoa
Trung Quốc và Nga đều có chung một thế
giới quan bảo thủ, ủng hộ nhà nước.
Cả hai đều coi các cuộc tấn công vào
lịch sử của họ khi những âm mưu
của phương Tây nhằm làm mất đi tính chính
thống của chế độ và coi việc thúc
đẩy dân chủ là một mối đe dọa sinh
tồn. Cả hai đều đề cao các giá trị
truyền thống như một bức tường thành
chống lại sự bất ổn và cho rằng phương
Tây đang tự hủy hoại ḿnh bằng những
cuộc tranh luận về văn hóa. Cả hai kết
luận rằng các chế độ độc tài
giải quyết tốt hơn trước những thách
thức hiện đại. Cả hai đều mong
muốn đất nước của ḿnh lấy
lại địa vị và lănh thổ đă mất.
Thậm chí Putin và Tập c̣n đưa ra cùng một câu
chuyện về tính hợp pháp, họ cho rằng các
bậc tiền nhiệm của họ cho phép sự suy
thoái quyền lực không thể chấp nhận
được (và chịu ảnh hưởng của phương
Tây) mà chỉ có sự cai trị độc tài của
họ mới có thể ngăn chặn được. Mối
quan hệ Putin và Tập Một yếu
tố khác ràng buộc Moscow và Bắc Kinh ngày nay là
mối quan hệ nồng ấm giữa Putin và Tập.
Các phương tiện truyền thông Trung Quốc và
Nga ca ngợi mối quan hệ cá nhân bền chặt
giữa hai nhà lănh đạo, mặc dù khó có thể nói
t́nh bạn của họ chân thành đến mức nào.
Putin là một điệp viên KGB được đào
tạo, kinh nghiệm đă dạy cho ông ta về cách
xử lư đối với con người, và Tập
Cận B́nh có lẽ đă học được
những mánh khóe tương tự từ cha ḿnh,
một bậc thầy trong các nỗ lực “mặt
trận thống nhất” của đảng để
thu phục những người hoài nghi. Putin và Tập
là hai người rất khác nhau. Putin từng bị găy
tay khi đánh nhau trên tàu điện ngầm Leningrad.
Tập liên tục thể hiện khả năng tự
chủ phi thường, bằng chứng là khả năng
thu tóm quyền lực mà không ai biết ông ta thật
sự nghĩ ǵ. Putin thích cuộc sống thượng
lưu, trong khi phong cách cá nhân của Tập lại
gần với khổ hạnh. Nhưng ít nhất,
mối quan hệ chức năng giữa hai nhà lănh
đạo Nga và Trung Quốc là một điều ǵ
đó bất thường trong lịch sử. Đối với
Mao, thành tích về ư thức hệ và những đóng
góp của Stalin cho lịch sử Liên Xô đă khiến
ông trở thành một người khổng lồ trong
thế giới cộng sản. Tuy nhiên, thái độ
thận trọng của Stalin đối với Cách
mạng Trung Quốc trong năm năm cuối của
thập niên 1940 đă khiến Mao khó chịu. Sự
độc đoán của Stalin cũng đă như
vậy trong các cuộc đàm phán về hiệp ước
liên minh giữa hai nước vào năm 1949 và 1950. Sau cái
chết của Stalin, Mao cảm thấy tầm vóc
của ḿnh vượt xa Khrushchev, và vị chủ
tịch này nổi tiếng trong việc đối
xử với người đồng nhiệm Liên Xô
với thái độ khinh thường. Mao rất ấn tượng
trước sự cứng rắn của Đặng
Tiểu B́nh, là người được ông chống
lưng, thể hiện trong các cuộc tranh luận
bất tận về ư thức hệ ở Moscow trong
thập niên 1960, khi Đặng Tiểu B́nh là người
chiến đấu nổi bật nhất của
Bắc Kinh trên trường quốc tế. Sau khi Mao
chết, Đặng Tiểu B́nh nhận định
rằng, các nước gần gũi với Liên Xô có
nền kinh tế vận hành kém, trong khi các đồng
minh của Mỹ phát triển mạnh. Vào thời điểm
Đặng Tiểu B́nh trở thành nhà lănh đạo
tối cao của Trung Quốc, nhiều cộng sự viên
của ông hy vọng có được một mối
quan hệ tốt đẹp hơn với Moscow, nhưng
Đặng Tiểu B́nh đă phớt lờ những
tiếng nói đó. Ông và Gorbachev chỉ gặp nhau
một lần trong cuộc biểu t́nh ở Quảng trường
Thiên An Môn và Đặng Tiểu B́nh kết luận
rằng, nhà lănh đạo Liên Xô là “một thằng
ngốc”. Sau khi Liên Xô sụp đổ và Boris Yeltsin
trở thành tổng thống Nga, người Trung
Quốc ban đầu tỏ ra nghi ngờ ông Yeltsin, v́
vai tṛ của ông trong việc góp phần làm sụp
đổ chủ nghĩa cộng sản, nhưng
mối quan hệ giữa các nhà lănh đạo cấp
cao được cải thiện dần. Người
kế nhiệm Đặng Tiểu B́nh là Giang Trạch
Dân, là người từng học ở Liên Xô và hát
những bài hát ca ngợi t́nh hữu nghị Trung – Xô. Mối quan hệ
nồng ấm giữa các cá nhân không phải là lư do
chính khiến Nga và Trung Quốc ngày nay thân thiết
đến như vậy, nhưng quá khứ chắc
chắn cho thấy cá nhân các nhà lănh đạo có
thể quan trọng đến mức nào khi họ coi thường
những người đồng nhiệm và quốc gia
mà họ lănh đạo. Và bất chấp những khác
biệt của họ, không khó để đoán
tại sao Putin và Tập có thể ḥa hợp trên phương
diện cá nhân. Họ gần như bằng tuổi nhau
và đều là con của những người đă
hy sinh cho đất nước. Và có lẽ điều
quan trọng nhất là cả hai đều có kinh
nghiệm h́nh thành về sự nguy hiểm của
việc bất ổn chính trị. Trong cuộc Cách
mạng Văn hóa, Tập và gia đ́nh bị Hồng
vệ binh của Mao bắt cóc và đánh đập,
trong khi năm 1989, Putin khi đó là sĩ quan KGB, đóng
ở Dresden, chứng kiến Đông Đức sụp
đổ khi không thể nhận được chỉ
thị từ Moscow. Cả hai có nhiều điều
để nói khi cùng nhau làm bánh blini và bánh bao trước
ống kính truyền h́nh. Hợp
tác Tính linh hoạt hơn
trong mối quan hệ đối tác giữa Bắc Kinh
và Moscow ngày nay cũng khiến mối quan hệ này
trở nên khó khăn hơn so với trước đây.
Kể từ năm 1949, thách thức về mặt
chiến lược chủ yếu là làm thế nào hai
cường quốc cùng nhau tạo nên trung tâm độc
tài của Á – Âu, có thể hợp tác hiệu quả
để chống lại mối đe dọa từ khu
vực ngoại vi dân chủ do Hoa Kỳ lănh đạo.
Bất chấp sức mạnh phi thường trong
vị thế của Washington tại các khu vực lân
cận, Bắc Kinh và Moscow vẫn phải chật
vật để có được sự phối
hợp hiệu quả. Hết lần này đến
lần khác, họ tỏ ra không sẵn sàng hy sinh
lợi ích của ḿnh cho nhau, một phần là do nghi
ngờ rằng đối phương đang bán đứng
ḿnh và t́m cách cải thiện mối quan hệ với
phương Tây. Trước khi Trung
– Xô chia rẽ, liên minh giữa Moscow và Bắc Kinh
đă tạo ra những vấn đề thật
sự cho Mỹ và mang lại lợi ích thật sự
cho hai nước Trung – Xô. Biên giới yên b́nh
giữa hai nước cho phép họ tập trung vào
việc đối đầu với phương Tây và
chia sẻ công nghệ quân sự. Năm 1958, khi Trung
Quốc tấn công Đài Loan trong nỗ lực
chiếm quyền kiểm soát ḥn đảo này,
Khrushchev đă đến trợ giúp Bắc Kinh bằng
cách công khai cảnh báo rằng ông sẽ can thiệp
để bảo vệ Trung Quốc nếu Hoa Kỳ
tham gia vào cuộc xung đột – mặc dù ông
bực bội v́ Bắc Kinh đă không báo cho ông
biết trước về kế hoạch của
Bắc Kinh. Tuy nhiên, mối quan
hệ giữa trung tâm với vùng ngoại vi luôn là
sự kết hợp giữa cùng tồn tại và
cạnh tranh, và Moscow với Bắc Kinh hiếm khi coi
trọng những mục tiêu cạnh tranh như nhau.
Trong thập niên 1950 và 1960, về cơ bản Trung
Quốc bị loại khỏi hệ thống quốc
tế trong khi Liên Xô phần lớn là một cường
quốc c̣n duy tŕ nguyên trạng. Khi Mao ung dung đe
dọa chiến tranh hạt nhân, cùng với việc
sử dụng vũ lực ở biên giới Trung –
Ấn và chống lại các đảo ngoài khơi
ở eo biển Đài Loan, đă làm dấy lên lo
ngại ở điện Kremlin rằng Trung Quốc
sẽ lôi kéo Liên Xô vào cuộc chiến. Moscow ủng
hộ Hiệp ước Không phổ biến Vũ khí
Hạt nhân, từ chối giúp đỡ Trung Quốc
trong nhiều cuộc khủng hoảng khác nhau và hy
vọng cho việc hoà hoăn với phương Tây,
những hành động khiến các nhà lănh đạo
ở Bắc Kinh kết luận rằng, Moscow quan tâm
đến phương Tây nhiều hơn là khối
cộng sản. Hiện nay, Trung
Quốc và Nga đă đổi vị thế. Bắc
Kinh hy vọng sẽ được hưởng lợi
về mặt kinh tế và công nghệ từ việc
tiếp tục duy tŕ mối quan hệ với Mỹ và
châu Âu, trong khi Moscow tự coi ḿnh là trong một mối
quan hệ cạnh tranh thuần túy. Người Nga
chắc chắn mong muốn rằng Bắc Kinh sẽ
viện trợ vũ khí sát thương ở Ukraine và
đồng ư với Sức mạnh Siberia 2, một
dự án về đường ống được
đề xuất sẽ đưa khí đốt tự
nhiên đến vùng đông bắc Trung Quốc. Tuy nhiên,
không giống như thời kỳ hoàng kim của liên
minh Nga – Hoa, về mặt kỹ thuật, Bắc Kinh không
có nghĩa vụ hy sinh lợi ích kinh tế hoặc
thanh danh của ḿnh cho Moscow v́ hai nước không
phải là đồng minh chính thức. Người Nga
có ít lư do hơn để cảm thấy bị
phản bội và người Trung Quốc có ít lư do hơn
để sợ bị mắc bẫy. Bài
học lịch sử Là con trai của
một người có liên quan mật thiết đến
các mối quan hệ giữa đất nước ḿnh
với Moscow, Tập Cận B́nh hiểu rơ lịch
sử của ḿnh. Lịch sử đă cho ông thấy
mối nguy hiểm trong việc vừa ôm hôn thiếu
thận trọng, vừa thù địch toàn diện như
thế nào. Giờ đây, Tập cũng muốn có
chiếc bánh của ḿnh và ăn nó – tiến đến
Nga đủ gần để gây rắc rối cho phương
Tây, nhưng không quá gần đến mức Trung
Quốc phải tách rời hoàn toàn. Nhưng chiếc bánh
này không dễ nướng, và có thể trở nên khó
hơn. Washington đang cố gắng gây cản trở
nhiều nhất có thể, bằng cách mô tả Nga và
Trung Quốc cùng một giuộc với nhau, nói một
cách chính xác rằng Trung Quốc là nước tạo
điều kiện cho cuộc chiến của Nga ở
Ukraine. Cuộc xung đột đă gây ra tổn
thất thật sự về kinh tế và thanh danh cho
Bắc Kinh, ngay cả khi nước này né tránh một
số yêu cầu của Moscow. Vấn đề
sẽ luôn tồn tại trong bất kỳ mối quan
hệ nào, đặc biệt giữa các cường
quốc. Điều khác biệt so với thời
Chiến tranh Lạnh là các vấn đề gai góc
về ư thức hệ và cá nhân không c̣n khiến
những thách thức đó trở nên khó giải
quyết nữa. Nếu không có các biến động
với tác động to lớn nhưng xác suất
xảy ra thấp – chẳng hạn như việc
sử dụng vũ khí hạt nhân ở Ukraine, sự
sụp đổ của nhà nước Nga hay chiến
tranh ở Đài Loan, th́ Trung Quốc có thể sẽ
vận dụng thủ thuật trong phạm vi rộng răi
mà nước này đă đặt ra cho mối quan
hệ [với Nga]. Đôi khi Bắc Kinh sẽ đề
ra một mối quan hệ chặt chẽ với Moscow,
và đôi khi sẽ ám chỉ một mối quan hệ
xa cách hơn, điều chỉnh thông điệp
của ḿnh tùy theo t́nh h́nh yêu cầu. Về phần ḿnh,
Hoa Kỳ có thể định h́nh một số tính toán
của Trung Quốc và hạn chế những loại
trợ giúp mà Nga nhận được. Tuy nhiên, trong tương
lai gần, mô h́nh của ông Tập về quan hệ
Trung – Nga có thể tỏ ra vững chắc hơn trước
đây bởi v́, có lẽ trái ngược với
trực giác thông thường, nó tránh được
mối nguy hiểm từ sự thân mật. _______ Tác giả: Joseph Torigian là nghiên cứu viên của Viện Lịch sử Hoover, Đại học Stanford và là Giáo sư trường American University. |