Sau
ngày 30 tháng 4 năm 1975 , tất cả quân cán chính
Việt Nam Cộng Ḥa đều trở thành đối
tượng của “chế độ lao động
cải tạo”, một chính sách do cộng sản
Việt Nam du nhập từ Trung cộng và được
tôi luyện từ miền Tây Bá Lợi Á của thiên
đường Sô viết.
Tài
liệu của Viện Bảo TàngViệt Nam tại
San Jose ghi nhận số lượng tù cải tạo
như sau:
-
Năm 1975 QLVNCH có 980.000 quân nhân gồm 1/10 cấp Tá
và cấp Tướng tổng cộng 9.600, cấp úy
là 80.000, c̣n lại là hạ sỹ quan và binh sĩ.
- Cấp Tướng tại ngũ đến 30 tháng 4
năm 75 là 112; bị tù cải tạo: 32 vị, 80 tướng
lănh di tản và 1 số nhỏ không bị bắt
giam.
- Đại tá có 600, bị tù 366.
- Trung tá có 2.500, bị tù 1.700.
- Thiếu tá có 6.500, bị tù 5.500.
- Cấp úy có 80.000, bị tù 72.000. Trong số này bao
gồm cả nữ quân nhân cũng như thành viên
đảng phái và các cấp chính quyền.
Đây là con số ghi nhận được từ phía
Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Ḥa, không có tài
liệu của các trại giam phía cộng sản
để đối chiếu; và không có con số chính
xác tù cải tạo bị chết trong khi giam cầm.
Ghi chú: Tất cả danh từ “cải tạo”
thực sự đều là tù chính trị.
NHỮNG NGƯỜI TÙ KHÔNG ÁN
Không kể thành phần bị bắt trước
1975 nhưng không được trao trả tù binh sau
1973, th́ thời gian tù “cải tạo” kéo dài
từ 1 năm đến 17 năm. Từ 1975 đến
1992.
Năm 1988 gần như là năm cuối cùng, hầu
hết tù được trả tự do.
Suốt 4 năm tiếp theo chỉ c̣n lại 120 tù
bị giam tại Z30D gọi là Trại Thủ Đức
tại Hàm tân. Trong số này có 9 vị tướng lănh.
Đại tá Phạm Duy Khang khóa 6 Vơ bị, làm thư kư
Trại c̣n nhớ tên từng người. 4 Thiếu
tướng: Lê Minh Đảo, Đỗ kế Giai, Trần
Bá Di, Nguyễn Ngọc Sang, và 5 Chuẩn Tướng:
Lê Văn Thân, Hoàng Lạc, Mạch Văn Trường,
Trần Quang Khôi, Phạm Duy Tất.
Cấp Đại tá có 22 người, 20 thiếu tá và các
thành viên cảnh sát, đảng phái.
Thiếu tướng Đỗ Kế Giai tả lại
quang cảnh khi tất cả mọi người
được thả hết chỉ c̣n mấy ông Tướng.
Trại Hàm Tân hoàn toàn vắng lặng. Cộng
sản cho xe chở 5 ông tướng về chuyến
cuối cùng. V́ đường đi thuận
tiện, xe về Saigon đến nhà các vị Tướng
khác hết 1 ṿng, Thiếu Tướng Đỗ Kế
Giai là người về sau cùng. Ông bước
xuống xe, tâm trạng thực băn khoăn khó
tả. Tù vừa tṛn 17 năm. Những ông tướng
khác về trước ông chừng nửa giờ nên
tướng Giai là người sau cùng, theo ư nghĩa
tiêu biểu của lịch sử.
Hỏi chuyện ngục tù, ông Giai nhắc lại câu
danh ngôn của người xưa: “Bại binh chi tướng,
bất khả ngôn dũng“ (Tướng quân thua
trận, không thể nói mạnh).
Lại hỏi rằng, suốt thời kỳ 17 năm
có thấy cộng sản hay thế giới tự do vào
quay phim hay chụp h́nh để bây giờ có thể
đi t́m dấu tích của những năm dài
“cải tạo”; vị chỉ huy trưởng binh
chủng Biệt động quân cho biết, dường
như chẳng thấy ǵ.
NHỮNG NĂM THÁNG KHÔNG QUÊN:
1975 : Hàng trăm ngàn quân cán chính Việt Nam
Cộng Ḥa bị cộng sản tập trung “cải
tạo”.
1980 : Sau 5 năm tranh đấu, dư luận Mỹ và
thế giới áp lực Hà Nội phải thả tù
.
1982 : Tại Pháp, Phạm văn Đồng, Thủ tướng
Hà Nội thách thức sẽ trả tự do nếu
Mỹ nhận hết tù cải tạo.
1982 : Ngoại trưỡng Mỹ điều trần
tại Quốc hội cho biết sẽ nhận 10.000 tù
chính trị Việt Nam và gia đ́nh.
1985 : Lần đầu tiên , cơ quan IRCC,Inc. tại
San Jose nhận được 1 video tape do phóng viên
tự do Hoa Kỳ quay tại Việt Nam. Trong đó có
ba đoạn hết sức đặc biệt:
1) Phi công Việt Nam Cộng Ḥa, vừa được
tự do
2) Vợ con tù thăm nuôi tại Hàm tân;
3) Ban văn nghệ của Trại Hàm Tân;
4) Phỏng vấn 1 người tù cụt chân cấp
Thiếu tá.
1985 : Hoa Kỳ và Việt Nam gặp nhau tại New York bàn
về việc thả tù cải tạo.
1987 : Lần đầu tiên nhà báo Thụy Điển
được vào làm phóng sự tại Trại Nam Hà,
tiếp theo Hà Nội bắt đầu chuyển thêm
tù cải tạo vào Nam và trả tự do từng
đợt .
Tháng 7 năm 1988 : Phái đoàn Funseth đi Hà nội
họp về việc nhận tù cải tạo.
Tháng 8 năm 1988 : Hà Nội đơn phương loan
báo đ́nh chỉ việc thảo luận.
Tháng 1 năm 1989 : Lần đầu tiên Hồng
thập tự Hoa Kỳ được phép gửi quà
cho tù “cải tạo”.
Một chiến dịch gửi quà được phát
động tại hải ngoại .
Tháng 4 năm1989 : Phái đoàn Quốc hội Cali
về Việt Nam thảo luận về đề tài
xă hội và tù “cải tạo”. Có các thành
phần tỵ nạn Việt Nam cùng đi. Đại
diện IRCC trách nhiệm tiểuban tù chính trị. Phái
đoàn yêu cầu trả tự do cho Vơ Đại Tôn.
Phỏng vấn thu thanh Phan Nhật Nam vừa được
tự do tại Saigon.
Tháng 6 tháng 1989 : Thượng viện Mỹ tuyên
bố yêu cầu Hà Nội trả tự do cho tù
“cải tạo” và Hoa Kỳ sẽ đón nhận .
Tháng 7 năm 1989 : Phái đoàn Hoa kỳ về Việt
Nam kư thỏa ước nhận định cư tù
“cải tạo”
Tháng 8 tháng 1989 : Báo San Jose Mercury News gửi phóng viên
về Saigon làm một loạt bài phỏng vấn “tù
cải tạo” sắp ra đi có gia đ́nh chờ
đợi tại San Jose.
Tháng 1 tháng 1990 : 15 gia đ́nh H.01 đi chuyến đầu
tiên đến phi trường San Francisco, có 4 gia đ́nh
về Bắc Cali. 11 gia đ́nh chuyển tiếp đến
các tiểu bang khác và Quận Cam
Tháng 8 năm1993 : Đại tá Phạm Duy Khang, sau 17 năm
tù đă trở về đợt sau cùng với 120 người.
Ông đến San Jose và dự lễ thượng
kỳ ngày 8/8/1993 .
Sau đó các đợt HO bổ túc và chương tŕnh
đoàn tụ gia đ́nh HO lần lượt tiếp
diễn suốt 15 năm từ 1994 đến 2009. Cho
đến tháng 4 năm 2009 vẫn c̣n gia đ́nh
thuộc diện “tù cải tạo” đến Hoa
Kỳ.
NHỮNG THIÊN ANH HÙNG CA
Trước năm 75, Miền Nam xây dựng hai
nền cộng ḥa đă tồn tại hết sức
hào hùng qua hai chiến dịch tấn công của địch.
Chúng ta đă đứng vững trong trận Mậu
Thân 68 và vượt qua trận mùa hè 72.
Sau 1975 miền Nam thất thủ nhưng vẫn c̣n ghi
thêm hai thiên anh hùng ca bất tử.
Người chiến sĩ sống c̣n sau trận
“cải tạo” và toàn dân miền Nam thành công
với những chuyến đi của thuyền nhân
tỵ nạn.
Chúng tôi đă có bài viết về thuyền nhân và
riêng bài này xin dành cho câu chuyện tù “cải
tạo”. Lần lượt đă kể ra những
con số lịch sử, những người tù không
án, những ngày tháng không quên, những dữ
kiện tuy khô khan cằn cỗi nhưng chính là máu xương
của một đạo quân, của một thể
chế dân chủ không c̣n nữa.
Từ những con số này chúng ta hăy đi t́m nhân
chứng và thu hồi di sản dành cho trang sử
gửi thế hệ tương lai.
ĐI T̀M NHÂN CHỨNG
Trong số muôn vàn lănh vực, xin đưa ra
một vài thí dụ để chứng minh về câu
chuyện tù “cải tạo.” Trong hơn 10 năm tù
đày, người tù Miền Nam đă sáng tạo
biết bao di vật để dùng và để làm quà
kỷ niệm gởi cho mẹ, cho vợ, cho con. Chúng
tôi cần những di vật đó. Chúng tôi đă có,
nhưng chưa đủ.
Thư từ là những liều thuốc thần
diệu để người tù nhờ đó mà
sống trong hy vọng. Chúng tôi cần giử lại
những lá thư của t́nh yêu, bằng hữu và
gia đ́nh. Chúng tôi đă có, nhưng chưa đủ.
Chúng tôi thường nghe nói khi người cha đi tù,
th́ mẹ đi bán thuốc lá bên lề đường.
Khi cha về phải đi đạp cyclo. Trong suốt
20 năm, chúng tôi đi t́m những tấm h́nh như
thế nhưng không có. Cho đến năm 2008
mới t́nh cờ có được các h́nh ảnh quư
giá. Nhưng vẫn c̣n đón chờ thêm các tài
liệu tương tự.http://www.take2tango.com/MyFiles/image/News/05-2009/Tuan%2010/NhanChung-04.jpg
Chúng tôi được biết có nhiều gia đ́nh
cả hai vợ chồng đều đi tù cải
tạo. Cả cha con đều bị tù và nhiều
anh em một nhà cùng chung số phận. Chúng tồi c̣n
cần thêm những sử liệu như thế.
CAN TRƯỜNG TRONG CHIẾN BẠI
Vị tướng hải quân vùng một, phó đề
đốc Hồ Văn Kỳ Thoại có xuất
bản một tác phẩm hồi kư. Ông lấy câu
chuyện đứt phim 1975 để đặt
tựa cho cuốn sách. T́nh cờ chúng tôi có
được tấm h́nh chụp hai chiến binh
của sư đoàn 3 bộ binh Quân lực Việt
Nam Cộng Ḥa bị bắt làm tù binh tại Quảng
Trị khi Cộng quân tấn công 1972. H́nh này nằm
trong bộ sưu tầm độc đáo của
một phóng viên Anh quốc.
A
wounded ARVN in pain beside another prisoner at fire base QuangTri overrun
by NVN, March 1972 (Another VietNam, Tim Page Colection).http://www.take2tango.com/MyFiles/image/News/05-2009/Tuan%2010/NhanChung-05.jpg
Hai chiến binh Cộng Ḥa bị địch quân
giải về khu tập trung tù binh bên kia biên giới
và một phóng viên của cộng sản Hà Nội
đă chụp được tấm h́nh chân dung
bất hủ xứng đáng gọi là “Can trường
trong chiến bại”. Khuôn mặt người lính
số 2 dựa vào người chiến binh số 1.,
Anh số 1 có thể là sĩ quan. Anh sỹ quan trẻ
này bị thương ở tay c̣n băng bó, mặt c̣n
mang dấu của các mảnh trái pháo, ánh mắt
buồn bă nhưng vẫn đầy vẻ bất
khuất.
Suốt
đời tôi, chưa bao giờ nh́n thấy một gương
mặt đầy ẩn dụ như vậy.
Bài viết sẽ đăng kèm tấm h́nh độc
đáo này. Giờ này anh ở đâu?
Trên
tài liệu DVD do IRCC, Dân Sinh và Viện Bảo Tàng San
Jose sẽ phát hành ngày quân lực 2009, chúng tôi
phổ biến rộng răi để nhắn tin đến
bốn phương trời ngơ hầu t́m cho được
người lính chiến bại có nét mặt can trường
của sư đoàn 3 bộ binh.
THIẾU TÁ ĐỘC CƯỚC LÊ HỮU CƯƠNG
Câu
chuyện sau cùng xin nói về người tù cải
tạo Lê Hữu Cương, khóa 16 vơ bị Đà
Lạt, quận trưởng Củ Chi. Số là ngay
từ đầu năm 1985 t́nh cờ chúng tôi gặp
được một anh phóng viên Hoa Kỳ tặng
cho video tape quay phóng sự Saigon từ 1984, trong đó có
những đoạn hết sức đặc biệt.
Câu chuyện một phi công cựu tù, mới
được tự do có mở tiệm bán đồ
nhậu tại Saigon. Đối thoại bằng Anh
ngữ. Xin hăy tưởng tượng lúc đó là năm
1985, chúng tôi coi phim mà ḷng dạ nôn nao. Xúc động
dâng lên khóe mắt. Anh em cùng ngồi xem mà mặt mũi
ai nấy hết sức căng thẳng. Cho đến
nay chúng tôi vẫn không biết anh phi công này là ai.
Một đoạn khác, quay tại trại tù Z30D
tại Hàm Tân. Trại tù khang trang sạch sẽ và
rất ít người. Ai mà chẳng biết là
cộng sản đă cho dọn dẹp và lùa tù đi
làm, chỉ c̣n lại cả trại trống vắng.
Phóng viên quay phim và anh chàng làm phóng sự đi cùng
một thông dịch viên. Ban văn nghệ của
trại được giới thiệu hát một bài.
Khán giả duy nhất là anh phóng viên Mỹ. Nhạc
trưởng là ca sĩ chính nét mặt hết sức
đau khổ và cam chịu. Ông trả lời cấp
bậc là thiếu tá, đă ở trại này
nhiều năm. Dường như cũng từ Nam Hà
chuyển về.
Một
đoạn khác là cảnh tù “cải tạo”
được vợ con lên thăm. Xin lưu ư đây
là thời điểm của năm 1984 ở trại
tù Miền Nam và cảnh này được tŕnh
diễn cho báo Mỹ quay phim. Tuy nhiên nếu lưu ư
vẫn nh́n ra được những nỗi đoạn
trường.
Sau cùng, chúng tôi được xem đoạn phim
đặc biệt. Một tù cải tạo cụt chân
ngồi cầm cặp mắt kiếng. Mắt anh
rất sáng và dáng ngồi b́nh thản.
Gần như bất chợt, anh phóng viên hỏi
bằng anh ngữ và người tù trả lời
trực tiếp cũng bằng anh ngữ. Anh cấp
bậc ǵ? -Thiếu tá. Anh có đủ ăn không? -Có
được ăn, nhưng biết thế nào là
đủ. Người tù hỏi ngược lại?
Phóng viên Mỹ nói: Có phải người công an này
đứng đây nên anh không trả lời? (Đến
đây phóng viên ra hiệu yêu cầu quản giáo
đi ra). Không
đủ ăn phải không ? Not enough? Trả lời,
- Yes, not enough. Anh có điều ǵ nhắn gởi
với tổng thống Reagan không? - Tôi muốn
được tự do. Tôi muốn rằng thế
giới tự do cứu chúng tôi. Cho chúng tôi được
tự do càng sớm càng tốt.
Máy
quay phim chiếu xuống bàn tay cầm mắt
kiếng. Rồi chiếu lên khuôn mặt người
tù với ánh mắt ngời sáng như ánh thép trong
ngục tù.
Chúng tôi bị ánh mắt này theo đuổi trong
nhiều năm. Suốt 20 năm, từ 1985 đến
2005 đă có ư hỏi thăm về người
thiếu tá cụt chân này là ai, c̣n sống hay đă
chết.
Năm 2005 Asia quay video tại Hoa Thịnh Đốn
kỷ niệm 30 năm biệt xứ, chúng tôi có cơ
hội giới thiệu dự án viện Bảo Tàng và
đồng thời có chiếu đoạn phim này trong
phần tài liệu.
Tiếc
thay, dù đă có hàng chục ngàn khán giả nhưng
vẫn không ai nhận ra người tù bất
khuất.
Măi
đến năm 2007 vừa qua, chúng tôi t́m được
tin tức th́ nhân chứng không c̣n nữa. Người
đó là thiếu tá Lê Hữu Cương, khóa 16 vơ
bị, mới ra trường đă bị thương
với cấp bậc trung úy. Anh bị cưa một
chân nhưng tiếp tục tại ngũ. Tốt
nghiệp chỉ huy tham mưu và học xong lớp quân
chánh th́ về làm quận trưởng Củ Chi. Ông
là một trong số rất hiếm hoi các sỹ quan
cấp tá, mất một chân mà vẫn c̣n làm chi khu
trưởng tại vùng đất dữ nhất
của miền Đông Nam phần.
Sau 1975 ông đă bị tù, giải ra Bắc, rồi
đưa về miền Nam và t́nh cờ gặp phóng
viên Mỹ tại Hàm Tân. Thiếu tá Cương H0
đến Hoa Kỳ đúng ngày 4/7/1991 và cư
ngụ tại Orange County. Trong suốt thời gian dài
trên 10 năm sống tại miền Nam Cali, Lê Hữu
Cương đă sinh hoạt với giới văn
nghệ, báo chí, nhưng chính ông và anh em cũng
chẳng ai được xem đoạn phim quay trong tù
mà ông đóng vai chính.
Năm
2000, Lê Hữu Cương viết hồi kư về
cuộc đời có kể lại đoạn
được hỏi chuyện trong tù bởi phái
đoàn Mỹ. Trong cuốn tự chuyện này, chúng tôi
mới được đọc qua đă thấy
được hai điều phải ghi lại, Lê
Hữu Cương sinh trưởng tại Huế và
đă gặp thảm kịch đau thương khi
mẹ và ba em gái của ông bị cộng sản
giết trong kỳ Mậu Thân.
Câu
chuyện thứ hai cần phải ghi lại là tinh
thần tương trợ hết sức hào hùng
của các cựu sinh viên sỹ quan Đà Lạt khóa 16
thể hiện trong tù đă giúp cho Lê Hữu Cương,
dù chỉ có một chân đă sống c̣n.
Nhưng
tiếc thay khi bộ phim Asia phổ biến năm 2005
th́ sau đó chúng tôi cũng đă được tin
Lê Hữu Cương đă qua đời tại
Miền Nam California.
Nhân chứng của một trang sử H0 không c̣n
nữa.
Major
Le, Huu Cuong 1970 SaiGon and 1984 Ham Tan, VietNam (Photo from Video).http://www.take2tango.com/MyFiles/image/News/05-2009/Tuan%2010/NhanChung-06.jpg
Đó là lư do chúng tôi viết bài này phổ biến trên
báo, đọc bài này trên các chương tŕnh phát
thanh và ghi lại các h́nh ảnh có được trên
DVD phát hành ngày quân lực tháng 6 năm 2009.
Xin
hăy đọc báo, xin hăy xem h́nh, xin hăy nghe radio, xin hăy
đón coi DVD để thấy rằng lịch sử
đă được gom lại như thế nào?
Phải được thu hồi như thế nào?
Cần được tập trung như thế nào? Trước
khi di sản mai một và nhân chứng không c̣n
nữa.
Xin
hăy liên lạc về IRCC, Inc. số 1445 Koll Circle, suite
110, San Jose, CA 95112. Tel: 408-392
9923
để có được đoạn phim đối
thoại hào hùng duy nhất trong tù của thiếu tá
độc cước Lê Hữu Cương, người
nhân chứng không c̣n nữa. Bộ DVD “Chân dung người
lính VNCH” của viện Bảo tàng Việt Nam c̣n có
h́nh ảnh người phi công ngồi hát bản t́nh
ca trên hè phố Sài G̣n ngay từ 1984. Người
vợ thăm chồng “cải tạo”, ông nhạc
trưởng của ban văn nghệ Hàm Tân ca vang
bản nhạc vui với bộ mặt sầu thảm
như dao cắt trong ḷng. Và sau cùng là h́nh ảnh người
lính vô danh của sư đoàn 3 bộ binh tiêu
biểu cho danh hiệu “Can trường trong chiến
bại”.
Xin
hăy cùng chúng tôi lên đường đi t́m nhân
chứng cho thiên anh hùng ca của QLVNCH sau tháng tư
1975.
Giao
Chỉ, San Jose
|