William
Egan Colby
1*
Mở bài
Cơ Quan T́nh Báo Trung Ương Hoa Kỳ (CIA=Central
Intelligence Agency) được xem như một cơ
quan t́nh báo nổi tiếng nhất thế giới, v́
bất cứ ở đâu, chỗ nào cũng có tai
mắt của CIA cả.
Trước
những biến cố quan trọng trên thế
giới, câu hỏi thường được đặt
ra là: CIA có nhúng tay vào không?, CIA có biết trước
được vụ việc đó không?
Chính quyền và người dân Hoa Kỳ quan niệm
rằng nhiệm vụ của CIA là phải biết rơ
mọi việc trên thế giới, v́ thế CIA
bị chỉ trích là không biết trước
được việc lănh tụ Bắc Hàn Kim Jong-il
sắp chết, không biết trước được
việc Putin động binh đánh chiếm bán đảo
Crimea thuộc Ukraina.
Vừa qua ngày 11-3-2014, Chủ tịch Ủy Ban T́nh Báo
Thượng Viện Hoa Kỳ, bà Dianne Feinstein tố cáo
CIA xâm nhập vào máy vi tính của Thượng
Viện. Giám đốc CIA là John Brennan bác bỏ cáo
buộc đó. Thế là tranh căi nổ ra, gây căng
thẳng giữa hai cơ quan đó.
CIA có nhiệm vụ thu thập và phân tích tin tức
của các chính phủ, các tổ chức và cả các
nhân vật quan trọng, có liên quan đến chính
trị, quân sự, kinh tế của các quốc gia,
để giúp chính quyền Mỹ thiết lập chính
sách đối ngoại với từng quốc gia
một. Thu thập tin tức có hai cách: công khai và bí
mật. Công khai là hợp pháp, v́ không hợp pháp nên
phải dùng biện pháp bí mật. Đồng
thời CIA thực hiện những công tác bí mật
do Tổng thống Mỹ trực tiếp điều
khiển.
CIA có nhiều thành công rực rỡ, và cũng có
những thất bại thê thảm như vụ đổ
bộ lên Vịnh Con Heo ở Cuba năm 1961, và
việc tổ chức những toán biệt kích VNCH ra
miền Bắc trong kế hoạch ngăn chặn
sự xâm chiếm miền Nam của Cộng Sản
Bắc Việt.
2* Những thất bại trong việc thả
điệp viên ra Bắc của cơ quan t́nh báo CIA
2.1. CIA giải mật 36 điệp vụ gián
điệp biệt kích xâm nhập miền Bắc
Biệt
kích CIA lên đường nhảy dù xuống miền
Bắc.
Năm 1968
đă có khoảng 500 biệt kích bị bắt giam
ở miền Bắc và những gia đ́nh được
thông báo là họ đă chết, được
cấp cho mỗi gia đ́nh 4,000USD.
Hai mươi năm sau, hơn 500 biệt kích
được trả tự do từ những trại
tù miền Bắc, nhiều biệt kích đă sống
qua tù đày, có người bị giam cầm gần
20 năm.
Trong bốn năm từ 1961 đến 1965, CIA đă
thực hiện 36 điệp vụ xâm nhập
miền Bắc Việt Nam. Từ năm 1965 về sau
những vụ xâm nhập miền Bắc do phái
bộ Viện Trợ Quân Sự Hoa Kỳ (MACV/SOG)
thực hiện. (MACV/SOG=The US Military Assistance Command
Vietnam/Studies and Observation Group (Nhóm Nghiên Cứu và Quan Sát
thuộc Bộ Chỉ Huy Viện trợ Quân Sự Hoa
Kỳ)
Bài viết nầy giới hạn trong các điệp
vụ do CIA thực hiện dựa trên tài liệu
giải mật và những tin tức do các anh hùng
biệt kích thuật lại công tác trong thời gian
1961-1965 mà thố.
Chi tiết những điệp vụ tuyệt mật
nầy đă được giải mật bởi tài
liệu của Trung Tâm Nghiên Cứu T́nh Báo thuộc
CIA.
Đánh giá về những thất bại trong việc
thả biệt kích xâm nhập miền Bắc, tác
giả Sedgwick Tourison mượn lời một cựu
biệt kích Việt Nam đă phát biểu: “Tôi không
cho rằng, không có toán biệt kích nào thành công
cả. Thực tế đă có những toán xâm
nhập vào và rút ra an toàn, nhưng đó chỉ là
những điệp viên con thoi hoạt động có
tính chất chớp nhoáng, có tính gây rối chỉ
trong phạm vi phía Bắc khu phi quân sự mà thôi.
C̣n các toán được tung ra hoạt động
ở các vùng xa trên phạm vi rộng, và trong thời
gian lâu dài th́ hầu như hoàn toàn thất bại. H́nh
như các điệp viên của chúng ta đă bị
đón lơng trước khi họ được tung ra
miền Bắc với bất cứ phương
tiện nào: đường không, đường
biển, đường bộ, ở nơi hẻo lánh
hoặc khu đông dân cư, dù ban ngày hay ban đêm,
th́ họ luôn được công an Cộng Sản
Bắc Việt chờ đón”. Tác giả Sedgwick
Tourison trong cuốn Secret Army, Secret War (Đạo quân bí
mật, cuộc chiến bí mật) viết như
thế.
Tourison nguyên là một nhân viên CIA đă có nhiều năm
hoạt động ở Việt Nam, Campuchia, Lào, Thái
Lan…Sau đó, ông là thành viên của Ủy Ban Chuyên
Trách về POW/MIA (POW=Prisoner of war/ MIA= Missing in action)
của Thượng Viện Hoa Kỳ. Ông
đă bỏ công sức 10 năm để viết
cuốn Secret Army, Secret War.
Đây là những câu chuyện có thật về
hoạt động của đội quân gián điệp
biệt kích do Mỹ xử dụng trong chiến tranh
Việt Nam. Một đội quân tới 500 người
gồm 50 toán đă bị bắt, bị vô hiệu hóa
khi thi hành hoạt động tuyệt mật của
Washington chống lại Cộng Sản Bắc
Việt.
2.2. Lội qua sông Bến Hải
Đêm 5-12-1960 một điệp viên Việt Nam dùng
ruột bánh xe hơi làm phao lội qua sông Bến
Hải. Trong tài liệu giải mật, tên của
điệp viên nầy bị bôi đen. Một điệp
viên Việt Nam ở bờ bên kia giúp x́ xả hơi,
cắt ruột xe ra nhiều mảnh nhỏ rồi chôn
để thủ tiêu dấu vết.
Với giấy tờ giả mạo do CIA cung cấp,
điệp viên nầy đă vượt qua hai
chốt kiểm soát của công an Bắc Việt, anh
đến thị trấn Hồ Xá trước khi
trở về miền Nam theo đường cũ.
Tài liệu giải mật không cho biết điệp
viên nầy đă thực hiện những nhiệm
vụ ǵ ở bên kia sông thuộc miền Bắc.
Vào thời điểm thực hiện việc xâm
nhập đầu tiên nầy th́ một viên chức
cao cấp của CIA, Robert Myers, đến thăm Sài G̣n
và được trưởng pḥng CIA Sài G̣n, William
Colby, báo cáo chi tiết về dự án tung gián điệp
người Việt Nam nhảy xuống miền
Bắc.
Myers cho rằng kế hoạch rất khó thực
hiện, nhưng Colby thuyết phục rằng có
thể thực hiện ở những khu vực ít dân
cư.
Trong báo cáo gởi về Tổng Hành Dinh CIA ở
Langley, VA, CIA Sài G̣n cho biết quá tŕnh chuẩn
bị, từ việc tuyển mộ, đào tạo
điệp viên phải mất một năm.
2.3. Điệp viên Việt Nam xâm nhập Đồng
Hới
Ngày 26-3-1961 CIA thực hiện việc xâm nhập
đơn độc thứ hai. Một điệp viên
được đưa tới gần Đồng
Hới, cách khu phi quân sự không xa.
Trong 5 ngày nằm vùng, điệp viên nầy quan sát
hoạt động của công an miền Bắc, các
kho quân sự nhỏ. Sau đó đi bộ đến
sông Bến Hải và lội về miền Nam vào lúc
ban đêm.
2.4. Toán biệt kích nhảy dù Castor và toán
Echo
Castor
Team Leader Ha Van Chap Một
địa điểm nơi toán Castor nhảy
xuống.
Nửa
đêm 27-5-1961, CIA tiến hành việc xâm nhập
miền Bắc bằng toán biệt kích nhảy dù mang
tên Castor. Phi công là những người được
tuyển chọn rất kỹ, lái phi cơ C-47 bí
mật bay qua không phận miền Bắc trong đêm
trăng sáng. Sở dĩ chọn những đêm trăng
từ mồng mười đến rằm đến
đêm 20 âm lịch, v́ phi công cần ánh sáng để
lái, biệt kích cần ánh sáng để điều
khiển dù xuống đúng băi đáp.
Toán Castor nhảy xuống vị trí đă được
ấn định thuộc tỉnh Sơn La, với
nhiệm vụ là giám sát, ủng hộ và giúp phát
triển sự nổi dậy của nhóm sắc
tộc thiểu số trong vùng, đồng thời
quan sát theo dơi sự chuyển quân của Cộng
Sản Bắc Việt trên đường số 6. Toán
Castor do thượng sĩ Hà Văn Chấp chỉ huy,
ba toán viên là Đinh Văn, Quách Thường và
Phạm Công Thương.
Castor được tuyển chọn rất kỹ
với hy vọng họ sống sót ở một khu
vực xa xôi không có người Kinh sinh sống. Thượng
sĩ Hà Văn Chấp cùng ba toán viên nhảy
xuống đồi 885, cách làng Nghĩa Lộ tỉnh
Sơn La một km. Dân làng báo công an Bắc Việt là
họ nghe tiếng động cơ của máy bay khi
bay ngang qua ngôi làng hẻo lánh của họ. Cả toán
Castor bị bắt sau 4 ngày chạm mặt đất.
Nhân viên truyền tin bị ép buộc phải làm
việc cho Bắc Việt, đánh điện báo cáo
về CIA Sài G̣n là cuộc xâm nhập đă thành công.
Ngày 2-6-1961 CIA cho toán Echo gồm ba người xuất
phát từ Đà Nẵng nhảy xuống cùng vị
trí của toán Castor với mục đích là hai toán
bắt liên lạc với nhau để thi hành
nhiệm vụ. Phi công trở về báo cáo cuộc
nhảy dù suôn sẽ, xem như thành công. Thế nhưng
sau khi chạm mặt đất, toán Echo chịu chung
số phận của toán Castor, nằm trong tay an ninh
Bắc Việt gồm công an vũ trang, bộ đội
địa phương và chó nghiệp vụ. Một
biệt kích bị dù vướng trên ngọn cây, anh
ta cắt dây, té xuống đất bị găy chân.
Tiếp theo sau đó những toán khác được
thực hiện như các toán: Atlas (12-3-1961), Eros (Thanh
Hoá ngày 10-3-1962), Swan (Cao Bằng ngày 4-9-1963), Tourbillon
(1962), Remus (1963), Easy (1963), Hector, Romeo (Quảng B́nh ngày
19-11-1965) …
2.5. Rơ ràng là CIA đă thất bại
Biệt
kích bị bắt ở tỉnh Quảng B́nh .
Theo tài
liệu “How American Lost the Secret War in North Vietnam”-
Kenneth Conboy, Dale Andradé, United Press, 2000 do Bạch Hổ
ghi lại nội dung như sau:
Trong tháng 6 năm 1962, không đếm xỉa ǵ đến
những toán biệt kích đă mất tích, ngày
4-6-1962 CIA đă thả 3 toán cùng trong một ngày.
Chỉ có toán Bell báo cáo, hai toán kia im bặt.
Ngày 7-6-1962. Ba ngày sau. CIA thả 2 toán đi trên cùng
một chiếc C-54, thả dù xuống Ninh B́nh và Thanh
Hoá. Hai toán nầy cũng biến mất luôn.
Ngày 9-6-1962. Hai ngày sau. Hai toán khác lên đường
nhảy xuống Hà Tĩnh và Nghệ An. Cũng
bặt vô âm tín.
Ngày 11-6-1962. Hai hôm sau. Hai toán biệt kích lên
đường. Một toán mật danh là Packer do Ngô
Quốc Chung, người sắc tộc Tày làm trưởng
toán. Toán thứ hai gồm ba người nhảy
xuống tỉnh Ḥa B́nh. Cả hai toán cũng im hơi
lặng tiếng.
Toán kế tiếp 8 người, mật danh là Giant, lên
chiếc C-123 vào buổi tối, bay ra biển rồi lên
Vịnh Bắc Bộ. Đến nơi nhảy ra
khỏi phi cơ. Trong khi đó CIA Sài G̣n ngồi ḍ t́m
làn sóng chờ nhận báo cáo, nhưng hoài công.
Lại mất tích.
Mất tích quá nhiều, CIA Sài G̣n chuẩn bị cho
toán chót nhưng rồi cũng không có hồi âm.
Trong ṿng 7 tháng CIA đă thả ra Bắc 13 toán.
Rơ ràng là CIA đă thất bại v́ những lư do sau
đây:
- Chọn băi đáp không đúng chỗ.
- Nhiều toán nhảy xuống quá gần khu đông dân
nên nhanh chóng bị phát hiện.
- Nhiều toán bị bắt v́ bị sập bẫy
dụ địch của Bắc Việt.
Những ví dụ cụ thể như sau. Toán Tellus
nhảy xuống Ninh B́nh ngày 7-6-1962 bị phát hiện
trong khi c̣n lơ lửng từ trên trời rơi
xuống, bị bắt gọn trong ṿng 25 phút.
Toán Packer th́ xui xẻo hơn, nhảy ngay giữa làng.
Nhân viên truyền tin rơi ngay trên nóc nhà của dân.
Ở một mục tiêu, từ xa phi công thấy
lửa thắp sáng h́nh chữ “T” th́ bổng nhiên
súng pḥng không 12.7 ly bắn lên trúng nhiều chỗ trên
thân phi cơ, nhưng về đến nơi an toàn.
Viên phi công người Tàu Đài Loan rét quá, chê
đô la Mỹ nên xin nghỉ việc, dông tuốc
về Đài Bắc. Phi hành đoàn Đài Loan khác cũng
từ chối chuyến bay tiếp tế được
lên lịch mà biệt kích và cả công an Bắc
Việt cũng đang chờ đón.
Sở dĩ người Tàu Đài Loan được
mướn thi hành công tác v́ họ có kinh nghiệm xâm
nhập bí mật vào lục địa.
Từ khuyết điểm nhỏ là chọn băi đáp
không đúng, đưa đến bị bắt và
từ bị bắt khiến cho Cộng Sản Bắc
Việt thi hành những kế dụ địch, tung
ra những mẻ lưới mà các anh hùng vô danh
của Việt Nam Cộng Ḥa phải rơi vào tay
giặc, kéo dài cuộc sống tù đày như địa
ngục ở trần gian.
3* Điệp vụ Hạ Long (Ares)
3.1. Phạm Chuyên
Phạm Chuyên sinh năm 1922 tại Tiền An, tỉnh
Quảng Ninh, là điệp viên xâm nhập miền
Bắc bằng đường biển đầu tiên.
Hồ sơ Việt Cộng mô tả anh là một
đảng viên thiếu kỷ luật, vi phạm
đạo đức, tự cao tự đại, thái
độ công thần, gây mất đoàn kết
nội bộ nên bị khai trừ ra khỏi đảng.
Bị vợ bỏ nên anh trốn vào Nam vào tháng 6 năm
1959.
Năm 1960, Pḥng Liên Lạc Phủ Tổng Thống
giao cho trung úy Đỗ Văn Tiên (mật danh là François)
phái một điệp viên đơn tuyến xâm
nhập miền Bắc. Trung úy Tiên và nhân viên CIA là
Edward Reagan t́m được người thích hợp
là Phạm Chuyên, nhưng anh từ chối. Trung tá Lê
Quang Tung cử nhân viên theo dơi và thuyết phục
suốt 6 tháng anh Phạm Chuyên mới nhận lời.
Anh được đưa ra Nha Trang để làm
trắc nghiệm tâm lư và hai thử nghiệm khác, anh
đạt được điểm xuất sắc.
Anh dự các khoá huấn luyện thời gian 6 tháng.
Phạm Chuyên có mật danh là Hạ Long, tên liên
lạc là Ares (Artery là động mạch, ư nghĩa là
nguồn cung cấp tin tức quan trọng)
Theo kế hoạch th́ Hạ Long sẽ xâm nhập
bằng đường biển đến Vịnh
Hạ Long là quê nhà của anh.
Tháng 2 năm 1961 từ căn cứ Đà Nẵng
Hạ Long lên tàu Nautilus 1 theo hành tŕnh hai ngày về hướng
Bắc. Nhưng v́ thời tiết quá xấu nên
phải quay trở về. Ngày 4-4-1961 từ tàu Naulilus
1 Hạ Long chèo xuồng nhỏ vào bờ, chôn
giấu hai máy truyền tin rồi đi thẳng
về nhà cũ. Khi sum họp gia đ́nh, Phạm Chuyên
thuyết phục em là Phạm Độ và hai người
bà con tham gia công tác.
Liền sau đó anh gởi về Sài G̣n 22 bản tin.
3.2. Lộ tẩy v́ bút bi
Ngày 17-6-1961 công an Bắc Việt vây bắt Phạm
Chuyên tại nhà. Bắt đầu từ việc
một dân chài đi báo là đă thấy một
chiếc xuồng nhỏ giấu ở bờ biển.
Công an lục soát từng nhà, chú ư đặc
biệt đến những gia đ́nh có liên hệ
với miền Nam và có liên quan với chính quyền
Pháp trước kia.
Một dân làng báo cáo đă thấy người
lạ mặt ở căn nhà mé biển, người
lạ nầy ngoảnh mặt đi khi họ chạm
mặt nhau.
Một dân làng khác cho biết anh ta thấy người
trong nhà xử dụng bút bi, môt thứ rất
hiếm có ở miền Bắc.
3.3. Thành lập Ban Chuyên Án BK63
Tài liệu Việt Cộng cho biết ngày 17-6-1961
Phạm Chuyên với mật danh là Hạ Long, tên liên
lạc là Ares đă bị bắt và chịu hợp tác
để lấy công chuộc tội.
Bộ Công An cử Cục trưởng Cục K61 là
Nguyễn Tài đến Quảng Ninh trực tiếp
chỉ đạo việc xử dụng Phạm Chuyên
thực hiện chuyên án BK63 để bí mật đấu
tranh với CIA ở Sài G̣n. Phương thức
được đặt ra là:
- Duy tŕ chuyên án BK63 hoạt động lâu dài
nhằm khống chế hoạt động t́nh báo
của CIA ở địa bàn Đông Bắc Việt
Nam
- Phát hiện toàn bộ âm mưu, phương
thức và thủ đoạn hoạt động
của gián điệp biệt kích xâm nhập
miền Bắc Việt Nam.
- Tổ chức câu nhử, đón bắt những nhóm
gián điệp khác để chiếm giữ
những phương tiện kỹ thuật và vũ
khí hiện đại của CIA.
3.4. Mở màn chuyên án BK63
Ngày 8-8-1961 dưới sự chỉ đạo của
chuyên án BK63, phiên liên lạc đầu tiên của
Phạm Chuyên (Hạ Long-Ares) với đài P8M Sài G̣n,
mở màn cho một chiến dịch đấu trí
với CIA trong suốt gần 10 năm sau đó. BK63
đă qua mặt được CIA Sài G̣n.
BK63 cho biết, đă dụ địch tiếp tế
6 lần bằng cả đường biển và
đường hàng không, tịch thu được
nhiều phương tiện phục vụ công tác gián
điệp, thuốc men, tiền bạc và cả vàng
nữa.
3.5. CIA Sài G̣n tiếp tế cho gián điệp
biệt kích “Hạ Long” (Ares, Phạm Chuyên)
Năm 1968 Phạm Chuyên cho biết bị bịnh
sốt rét nặng và xin tiếp tế thuốc men. CIA
báo cho Hạ Long biết ngày giờ và tọa độ
của một số điểm tiếp tế.
Đến ngày N, giờ G th́ một đoàn phản
lực cơ xuất hiện bắn phá một số
mục tiêu ở Hải Pḥng trong khi đó, một
phản lực cơ khác thả một container
xuống đám ruộng đă ấn định và
Hạ Long đă đánh dấu bằng 2 cụm khói
trắng như đă quy ước. Cách tiếp
tế nầy đă thực tập hai lần ở căn
cứ Long Thành, đă có kết quả tốt.
Trong container, ngoài lương thực, thuốc men,
quần áo c̣n có 10 khâu vàng thay thế tiền bạc
để xử dụng khi cần. Ngoài các vật
dụng trên c̣n có 4 lá thơ, trong đó một lá là
thơ hỏi thăm của trưởng công tác. 3 lá
c̣n lại được dán b́ kín. Chỉ thị mua
tem và gởi tới một địa chỉ ở Thái
Lan. Trong một thời gian ngắn, hai lá thơ thăm
hỏi thông thường đến tay người
nhận, nhưng lá thơ thứ ba có “gài” một
tài liệu mật giả tạo, không đến tay
người nhận. Chờ hai tháng sau, CIA Sài G̣n
hỏi về lá thơ thứ ba, th́ được
trả lời là hôm đi gởi thơ, bất
ngờ có báo động v́ lo t́m chỗ trú ẩn, thơ
bị rơi xuống vũng bùn nên không gởi.
Thơ thứ ba là một đ̣n kiểm chứng, và
BK63 bị sập bẫy của CIA. Hoa Kỳ nghi
ngờ ḷng trung thành của điệp viên Phạm
Chuyên.
3.6. Giương bẫy bắt gián điệp
biệt kích CIA
Theo tài liệu Việt Cộng, họ dùng kế
hoạch dụ địch, ban chuyên án BK63 đă
bắt trọn toán Eagle và Dragon xâm nhập miền
Bắc.
3.6.1. Toán Dragon
Câu chuyện của biệt kích quân Mộc A Tài trưởng
toán Dragon. Tất cả biệt kích trong toán Dragon
đều có gốc rễ ở miền Bắc.
Họ nói rành ngôn ngữ, đúng cách phát âm,
biết rơ phong tục tập quán địa phương.
Trong khóa huấn luyện, các toán viên nhận ra
rằng họ c̣n phải học hỏi thêm nhiều
danh từ mới của chế độ mới
ở miền Bắc.
Những toán viên Dragon gồm có: Ṿng A Ung, Trênh A Sam,
Giác Tú Cam, Ṿng Hàng Quay và Trần Văn Mẫn.
Cả 6 người đều là sắc tộc Nùng.
Họ đi trên ba chiếc thuyền buồm được
đóng tại Đà Nẵng theo khuôn mẫu của tàu
đánh cá ngoài Bắc.
Toán Dragon và toán Eagle nằm trong kế dụ địch
của chuyên án BK63 nên bị bắt ngay sau khi đến
nơi.
3.6.2. Toán Eagle
Ngày 27-6-1964 toán biệt kích Eagle được
thả dù xuống khu vực gần biên giới
Việt Trung. Nhiệm vụ phá hoại đường
sá, đường rầy xe lửa, căn cứ không
quân. Họ chưa thi hành nhiệm vụ th́ bị
mất liên lạc. Toán nầy cũng nằm trong
kế dụ địch của Cộng Sản Bắc
Việt nên chịu chung số phận với Ares
Phạm Chuyên.
3.7. Có đi mà không đến nơi
Sau Tết Mậu Thân năm 1968, CIA muốn rút
Phạm Chuyên về Sài G̣n, chuyên án BK63 tổ
chức cho Phạm Chuyên trở về miền Nam
bằng đường bộ, đến khu vực Vĩnh
Linh th́ mất liên lạc. Hà Nội cho biết,
thể theo yêu cầu của Phạm Chuyên và gia đ́nh,
đương sự được đưa đến
một nơi bí mật an toàn để Phạm Chuyên
sống như một người dân b́nh thường.
CIA Sài G̣n chờ măi mà không thấy biệt kích
Hạ Long trở về.
Tài liệu Việt Cộng cho biết, trong suốt
gần 10 năm đương đầu với CIA,
ban chuyên án BK63 đă 13 lần vượt qua những
bẫy thử thách về an ninh của CIA, đă cung
cấp 300 tin tức giả mạo, câu nhử bắt
hàng chục gián điệp biệt kích xâm nhập
miền Bắc, thu giữ tàu địch, và hàng
tấn vũ khí hiện đại, thuốc men,
tiền bạc và có cả vàng nữa.
Sau 45 năm các cơ quan nghiên cứu của Mỹ
khai thác hàng ngàn trang tài liệu, gặp gỡ
phỏng vấn hàng chục nhân chứng và họ
đă viết ra nhiều trang sách về điệp viên
Ares.
Cựu nhân viên t́nh báo CIA, Sedgwick Tourison cho biết:
“Điệp viên Ares, tôi biết anh ta quá rơ đi
chứ.Tôi đă nghiên cứu hồ sơ của anh
ta, anh ta có nhiều tên nhưng tên thật là Phạm
Chuyên. Chúng tôi tuyển mộ anh để đưa
anh quay trở lại Bắc Việt năm 1961. Anh ta
vẫn giữ liên lạc với chúng tôi cho tới năm
1968. Và tôi không biết rơ anh ta hoạt động cho
chúng tôi hay hoạt động cho Bắc Việt”.
Đến năm 1968 đă có 40 toán xâm nhập
miền Bắc bằng đường hàng không nhưng
chỉ c̣n có 5 toán giữ được liên lạc
với trung ương Sài G̣n. Đó là những toán:
Tourbillon (1962), Ares (Phạm Chuyên 1962), Remus (1963) Easy
(1963) và Eagle (1963)
Theo đánh giá chung của Việt Mỹ th́ 5 toán
nầy h́nh như bị địch kiểm soát và
khống chế.
4* Đem con bỏ chợ
Từ năm 1965 trở về sau, công tác biệt kích
nhảy Bắc do Nhóm Nghiên Cứu và Quan Sát thuộc
Bộ Chỉ Huy Viện Trợ Quân Sự Hoa Kỳ
ở Việt Nam (MACV-SOG) phối hợp với Nha
Kỹ Thuật Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH thực
hiện.
Tại Long Thành, CIA để lại cho SOG hơn 20 nhân
viên đă huấn luyện xong, nhưng SOG không tin tưởng
họ. Không thể trả họ về các đơn
vị cũ v́ họ đă biết quá nhiều
về hoạt động bí mật cũng như
về số phận của các toán ở miền
Bắc. Người Mỹ cho rằng cách giải
quyết tốt nhất là thả họ ra Bắc
rồi tùy vào số phận may rủi của họ dưới
tay lực lượng an ninh Bắc Việt. Và như
thế trong 3 tháng: tháng 5, 6 và tháng 7 năm 1964 tất
cả những toán biệt kích: Boone, Buffalo, Lotus,
Scorpion nhảy dù xuống miền Bắc đều
bị bắt.
Sau đó SOG tuyển mộ nhân viên mới cho họ.
5* Vinh danh những anh hùng Biệt Kích “vô danh”
Biệt
Kích Nhảy Bắc Toán Hadley chụp h́nh tại Trung Tâm
Huấn Luyện Long Thành.
Những
chiến sĩ biệt kích thuộc Toán Strata trước
ngày xâm nhập ra Bắc vào Tháng Mười Một,
1967.
Những Anh Hùng “Vô Danh”
Biệt kích
Nguyễn Văn Hợp.
“Những người
trai trẻ hăng say lao ḿnh vào cuộc chiến để
bảo vệ dân chủ, tự do cho Tổ Quốc, dân
tộc trong một “quân đội bí mật của
cuộc chiến bí mật”. (Secret Army-Secret War)
“Năm 1972, theo Hiệp Định Paris th́ tù binh
Mỹ được trao trả nhưng những người
biệt kích như chúng tôi th́ không được ai
nhận cả.
Sau 20 năm trong cảnh tù đày, ngày trở về
th́ những người biệt kích sống lang thang
đói rách v́ không c̣n một ai, kẻ th́ vượt
biên, người th́ đă sang ngang. Và trong sổ
bộ đời th́ họ là những “xác ướp
biết đi” v́ đă bị khai tử từ lâu.
Trong chương tŕnh HO, lúc ban đầu chúng tôi không
đủ điều kiện để được
thoát ra khỏi nhà tù lớn của chế độ
mặc dù chúng tôi bị tù ít nhất cũng là 15 năm”.
5.1. Những lời phiền trách nhẹ nhàng nhưng
thấm thía
Trong bài diễn văn đọc ngày 29-10-1995 tại
Georgia, một đại diện Biệt Kích Nhảy
Bắc phát biểu:
“Thảm kịch của những biệt kích Việt
Nam không phải là ngẫu nhiên. Thất bại
của cuộc chiến tranh bí mật Việt Nam là
thất bại của những người điều
hành cuộc chiến đó. Thảm kịch của dân
tộc Việt Nam cũng bắt nguồn từ sự
sai lầm và bội ước trong quá khứ”.
Phải đau ḷng lắm mới thốt ra những
lời trách cứ nhẹ nhàng nhưng sâu sắc và
thấm thía như thế.
Nhưng ai chịu trách nhiệm về những sai
lầm của lịch sử trong quá khứ đây?
5.2. Ghi ơn những anh hùng biệt kích “vô
danh”
Kư giả Rô Lăng, cựu trung tá Phan Lạc Phúc, cho
biết: “Chúng tôi đi tù cải tạo dù đau
đớn khổ nhục đến đâu vẫn c̣n
có tên có tuổi, hàng tháng, hàng quí vẫn có liên
lạc với gia đ́nh. C̣n những anh em biệt kích
dù th́ đúng là “thượng diệt hạ
tuyệt” v́ không có quân bạ, quân số, không có tên
tuổi nào được đăng kư, không có chính
phủ nào, quân đội nào thừa nhận. Không
được liên lạc với ai, coi như không c̣n
có mặt trên cơi đời nầy. Không được
hưởng qui chế tù binh Geneve, và các tổ
chức nhân đạo như Hồng Thập Tự
Quốc Tế, Ân Xá Quốc Tế cũng không
biết làm sao mà can thiệp”.
6* CIA thất bại
trong sự kiện Vịnh Con Heo ở Cuba
Vịnh
Con Heo (Bay of Pigs)
Lữ đoàn Cuba lưu vong 2506.
Sự
kiện Vịnh Con Heo (Playa Giron-Bay of Pigs) là một
nổ lực quân sự của người Cuba lưu
vong được CIA huấn luyện và quân đội
Hoa Kỳ hỗ trợ, đổ bộ lên Vịnh
Con Heo để lật đổ chế độ
Cộng Sản của Fidel Castro.
Tổng
thống Kennedy
Fidel Castro.
Kế
hoạch do Phó Tổng thống Nixon đề xuất,
Tổng thống Dwight D. Eisenhower phê chuẩn. Phó Giám
đốc CIA Richard Mervin Bissell Jr. biên soạn và
Tổng thống John F. Kennedy phát lịnh tấn công, và
giao toàn bộ cho CIA trực tiếp diều khiển
gọi là Chiến dịch Pluto.
Ngân khoản 46 triệu USD.
Quan điểm của Tổng Thống Kennedy là : “Không
thể để cho Cộng Sản thống trị Tây
bán cầu”.
Theo kế hoạch, sau khi đổ bộ làm chủ
Vịnh Con Heo (Playa Giron) một Chính Phủ Kháng
Chiến Lâm Thời được thành lập.
Lập tức, Hoa Kỳ công nhận đó là chính
phủ hợp pháp, và thể theo yêu cầu của chính
lâm thời, HK sẽ yểm trợ quân sự toàn
diện tiến hành lật đổ chế độ
Cộng Sản Cuba.
8.2. Chuẩn bị cuộc đổ bộ
Tháng 4 năm 1960, CIA bắt đầu tuyển mộ
người Cuba lưu vong ở Miami, Florida. Việc
huấn luyện được thực hiện
nhiều nơi. Huấn luyện du kích, bộ binh,
nhảy dù, xâm nhập, phá hoại, đào tạo phi
công và lái xe tăng tại nhiều nơi như
ở Nicaragua, Guatemala, Puerto Rico, ở trong nước
th́ tại Fort Benning (Georgia), Kentucky, New Orleans.
Lực lượng Cuba lưu vong 1,500 người,
tự đặt tên là Lữ Đoàn 2506. Mỗi người
được lănh 400USD và 175 USD phụ cấp gia
đ́nh.
Ngày 9-4-1961.
Tất cả nhân sự, tàu bè, xe tăng, xe bọc thép,
phi cơ được chuyển từ Nicaragua đến
Guatemala. 32 chiếc phi cơ ném bom B-26, một số
mang nhăn hiệu Không lực Guatemala (Fuerza Aérea
Guatemalteca), số c̣n lại xoá tất cả xuất
xứ Hoa Kỳ. 20 chiếc B-26 trong số đó
được cải tiến, gắn thêm súng máy và
các bệ phóng hỏa tiễn.
8.2.1. Đổ bộ nghi binh ngày 14-4-1961
Đêm 14-4-1961, 164 người Cuba lưu vong do Higinio
“Nino” Diaz chỉ huy. Dùng thuyền nhẹ mang cờ
hiệu Costa Rica đổ bộ lên Baracoa, tỉnh
Oriente, trong khi đó, những tàu chiến Hoa Kỳ
thả neo ngoài khơi, tạo cảm giác lực lượng
sẽ đổ bộ lên địa điểm
nầy. Đó là kế nghi binh.
8.2.2. Tấn công phi trường Cuba ngày 15-4-1961
6 giờ sáng ngày 15-4-1961, 8 phi cơ ném bom B-26, chia làm
3 nhóm, tấn công 3 phi trường. Các phi cơ sơn
dấu hiệu “Lực lượng Không quân Cách
Mạng” (Fuerza Aérea Revolucionairia-FAR). Phi cơ cất cánh
từ Nicaragua, mục đích phá hủy những phi cơ
chiến đấu của Fidel Castro. Kết quả, 10
phi cơ của Castro bị phá hủy. Một phi cơ
Mỹ bị bắn rơi.
8.2.3. Chuyến bay giả ngày 15-4-1961
Ngày 15-4-1961, 90 phút sau khi 8 chiếc B-26 cất cánh,
một phi công Cuba lưu vong giả làm phi công của
Fidel Castro đào ngũ, xin được đáp
khẩn cấp xuống phi trường quốc tế
Miami, v́ phi cơ bị trúng đạn, hỏng máy.
Anh tự khai là Juan Garcia và tuyên bố, anh cùng 3 đồng
chí đào ngũ khỏi Không Quân của Castro.
Ngày hôm sau, anh được phép cho tỵ nạn
tại Hoa Kỳ, và ngay đêm đó, anh được
đưa trở lại Lữ đoàn 2506 để
tham gia đổ bộ ngày 17-4-1961.
Để dàn cảnh như thật, cái tấm che
động cơ của chiếc B-26 được tháo
ra, bắn đạn vào rồi ráp lại, cho nên các
phóng viên có thể chụp h́nh những vết đạn
của phi cơ. Một số B-26 của Hoa Kỳ mang
số 933 của không quân Cuba.
8.3. Cuộc đổ bộ ngày 17-4-1961
8.3.1. Lực lượng đổ bộ
Lực lượng Cuba lưu vong 1,400 người chia
thành 6 tiểu đoàn của Lữ đoàn 2506.
Hải Quân Hoa Kỳ huy động trên 20 chiến
hạm đủ loại, bao gồm hàng không mẫu
hạm USS Essex và 2 tàu ngầm.
Tàu
đổ bộ của Lữ đoàn 2506 tại băi
Playa Larga.
Lính Mỹ tại Vịnh Con Heo
Hai người Cuba lưu vong chào cờ trước
khi đổ bộ.
8.3.2.
Cuộc đổ bộ nghi binh lần thứ hai ngày
16-4-1961
Đêm 16-4-1961, một cuộc đổ bộ nghi binh
được thực hiện tại tỉnh Pinar del
Rio, gồm một toán quân nhỏ, kéo theo những
chiếc bè phát ra những âm thanh tạo cảm giác
như một cuộc đổ bộ thật sự
đang diễn ra ở nơi nầy. Nghi binh nầy có
kết quả, là Fidel Castro đă rời bỏ
Vịnh Con Heo.
8.3.3. Cuộc đổ bộ thật sự ngày
17-4-1961
Hai địa điểm đổ bộ là Vịnh
Con Heo (Playa Giron) và Playa Larga.
- Lúc 00 giờ ngày 17-4-1961
Hai toán phá hoại dưới nước và người
nhái xâm nhập vào 2 vịnh nói trên, bật tín
hiệu cho 6 tiểu đoàn đổ bộ. 1,300 người
Cuba lưu vong cùng xe tăng, xe bọc thép tiến lên
bờ.
Ở băi Larga, việc đổ bộ bị tŕ
trệ v́ những chiếc thuyền nhỏ bị
đá ngầm và san hô làm hư hỏng. Số là
những băi san hô h́nh dạng sắc bén được
phi cơ do thám U-2 chụp h́nh, làm cho CIA hiểu
lầm, cho rằng đó là những đám rong
biển, nên chọn làm nơi đổ quân.
Sự tŕ hoăn làm cho kế hoạch bị bại
lộ. Đám dân quân trên bờ báo cáo về bộ
chỉ huy của họ, trước khi họ bị
quân đổ bộ tiêu diệt.
- 6 giờ 30 sáng
Các phi cơ của Fidel Castro tấn công vào quân đổ
bộ. Ở băi Larga một chiến hạm Mỹ
bị trúng hỏa tiễn. Khoảng 270 người
được thả xuống, nhưng khoảng 180 người
bị chết ch́m hoặc bị bắn chết khi
tiến vào bờ.
- Lúc 7 giờ sáng
2 phi cơ Cuba đánh ch́m một tàu hộ tống
Mỹ.
- 7 giờ 30 sáng
5 phi cơ vận tải HK thả 177 lính dù thuộc
Lữ đoàn 2506, 30 người cùng vũ khí
nặng được thả xuống gần nhà máy
đường của Úc, nhưng những thiết
bị nặng bị lạc trong đầm lầy không
lấy lên được. Các nhóm khác được
thả xuống chung quanh khu vực, mục đích
phong tỏa và kiểm soát con đường tiến
quân của Castro, nhưng họ chỉ làm chủ con
đường trong 2 ngày.
- 8 giờ 30
Một phi cơ Cuba bị bắn hạ.
- 9 giờ
Quân đội và dân quân Cuba được tăng
viện bằng những chiếc xe thiết giáp
được xe tải chở đến, họ
bắt đầu tiến về khu vực ḷ
đường của Úc, nơi quân dù đang
chiếm giữ. Trận chiến nổ ra, quân dù
thất thế v́ vũ khí nặng bị kẹt
ở đầm lầy và quân số quá ít.
- 9 giờ 30
Một chiến hạm Mỹ bị phi cơ Cuba
bắn ch́m.
- 11 giờ
Một phi cơ Cuba bị bắn hạ. Đồng
thời, hai chiến hạm HK rút lui ra hải phận
quốc tế.
Sau 3 ngày chiến đấu, cuộc đổ bộ
không thành công. Tổng thống Kennedy ra lịnh
ngừng tiếp viện cho lực lượng đổ
bộ, v́ do áp lực của Liên Xô và dư luận
tại Liên Hiệp Quốc.
Cuộc đổ bộ thất bại, một
phần do kế hoạch bí mật bị tiết
lộ. Đó là qua những cuộc nói chuyện
của những thành viên trong Lữ đoàn 2506,
kế hoạch bị tiết lộ, đồng
thời t́nh báo KGB của Liên Xô cũng đă thông báo
cho Fidel Castro về việc nầy. Để đối
phó, Che Guevara đă tổ chức dân chúng thành nhưng
toán dân quân và huấn luyện cho họ xử
dụng vũ khí.
Fidel
Castro và Che Guevara chỉ huy cuộc đánh trả.
5.3.4.
Hậu quả
Bị
bắt làm tù binh.
Chiến
hạm Houston của Mỹ bị bắn ch́m
Vũ khí Mỹ bị tịch thu
Phi cơ ném bom B-26 bị bắn rơi.
Đài
tưởng niệm chiến sĩ Lữ đoàn 2506
ở Miami, Florida.
1). Về phía
Hoa Kỳ
118 chết, trong đó có 4 phi công Mỹ.
1,201 người Cuba lưu vong bị bắt làm tù binh
2). Về phía Cuba của
Fidel Castro
176 quân chính quy thiệt mạng.
Từ 4,000 đến 5,000 chết, mất tích và
bị thương. Họ là dân quân và thường dân
có vũ trang.
5.3.5. Phân tích nguyên nhân thất bại
Ngày 22-4-1961, Tổng thống Kennedy yêu cầu tướng
Maxwell D. Taylor, Bộ trưởng Tư Pháp Robert F.
Kennedy, Đô đốc Arleigh Burke, và Giám đốc
CIA Allen Dulles báo cáo nguyên nhân thất bại.
- Không thấy trước được sự
thất bại của một chiến dịch bí
mật.
- Thiếu phi cơ, tàu đổ bộ và súng đạn.
Đến năm 1996, bản báo cáo tuyệt mật
của CIA mới được biết đến:
1. CIA đă vượt quá khả năng của ḿnh
khi phát triển một kế hoạch gồm 2 giai
đoạn, du kích chiến và vũ trang công khai.
2. Không có sự tham gia đầy đủ của các
lănh tụ lưu vong.
3. Không tổ chức được 1 cuộc nổi
dậy bên trong Cuba. (Có lẻ v́ dân Cuba chưa
thấm đ̣n Cộng Sản sau 2 năm “cách
mạng”.)
4. Quản lư và thông tin nội bộ kém, v́ thiếu
người Mỹ biết nói tiếng Tây Ban Nha
của Cuba.
5. Thiếu kế hoạch xử lư khi bị thất
bại bất ngờ, nên không cứu được
người đổ bộ.
Giám đốc CIA Allen Dulles và 2 Phó Giám đốc
Charles Cabell và Richard Bissell Jr. được khuyến cáo
nên từ chức năm 1962.
6* Kết luận
Một đại diện của biệt kích đă phát
biểu: “Thảm kịch của những
biệt kích Việt Nam không phải là ngẫu nhiên.
Thất bại của cuộc chiến tranh bí mật
Việt Nam là thất bại của những người
điều hành cuộc chiến đó”.
Thất bại của CIA Sài G̣n đă đẩy hàng
ngàn thanh niên nhiệt t́nh bảo vệ Tổ Quốc
vào cảnh tù đày như địa ngục
trần gian của lao tù Cộng Sản. Một số
chết trên đường hành quân, chết khi đụng
trận, bị xử bắn khi bị kết án
tử h́nh, chết v́ bịnh tật trong nhà giam, và
cuối cùng c̣n 500 người bị tù từ 10 đến
25 năm.
Họ là những thanh niên nhiệt t́nh yêu nước,
chấp nhân phương châm khi gia nhập binh
chủng là “Hy sinh trong bóng tối. Tất cả v́
Tổ Quốc”. Những thanh niên phải từ
giả người yêu, từ giả mẹ già tham gia
vào cuộc chiến bảo vệ tự do dân chủ
cho miền Nam Việt Nam.
Một trưởng biệt kích ghi lại những
kỷ niệm không quên, đó là câu chuyện của
một nhân viên sắp lên đường đi công tác.
“Một nhân viên của tôi sắp lên đường.
Anh đến gặp tôi và trao một chồng thơ
khá dày đă đề sẵn tên người
nhận. Anh nói:”Anh Dũng, anh biết em là con
một, em đi nhưng không dám nói thật cho mẹ
em, vậy em nhờ anh mỗi tháng đến thăm
mẹ em và trao cho mẹ em bức thơ nầy, nói là
em đang đi học ở ngoại quốc gởi
về, cho mẹ em yên tâm. Tôi xúc động. Nh́n người
thanh niên ấy với tất cả ḷng thương yêu
và mến phục. Hàng tháng, tôi đến thăm và
trao thơ cho bà mẹ. Nhưng đau đớn thay, lá
thơ cuối cùng đă được trao nhưng khóa
học…vẫn chưa măn”. (Nguyễn Văn Vinh)
Trời thương, người thanh niên kiên cường
và hiếu thảo ấy đă trở về từ cơi
chết sau 20 năm trong lao tù Cộng Sản.
Nha Kỹ Thuật Âm Thầm Trong Bóng Tối, Th́ Vinh
Quang Không Vượt Khỏi Bóng Đêm.
Trúc Giang
Minnesota ngày 24-3-2014 |