Richard Nixon, Henry Kissinger và Sự Sụp Đổ Của Miền Nam Đỗ Kim Thêm* |
Vấn
đề "Mỹ
không thể bỏ Việt Nam" đó là một
niềm tin son sắt của chính giới và người
dân miền Nam trước ngày 30 tháng 4 năm 1975. Hơn
nữa, VNCH với 1 triệu 1 quân nhân, một không
lực đứng hàng thứ tư trên thế
giới, kiểm soát trên 50% dân chúng và 75% lănh
thổ, không ai tin là có thể đầu hàng.
Cuối cùng, chuyện không muốn đă đến
khi Đồng Minh tháo chạy. Cho đến nay,
vẫn c̣n có câu hỏi đặt ra là tại sao VNCH
sụp đổ, v́ trong lịch sử chiến tranh
của nhân loại, đă chưa có một trường
hợp nào tương tự như vây đă xảy
ra và các lư giải vẫn chưa thoả đáng. Lư
do thật dễ hiểu: Việt Nam không c̣n các
sử gia chân chính; nhiều cán bộ sử học
của phe thắng cuộc đang tiếp tục làm
nhiệm vụ tuyên truyền; các sử gia khả tín
của phe thua cuộc không c̣n cơ hội lên
tiếng; sử gia ngoại quốc cũng chẳng soi
sáng được nội t́nh nhiều hơn v́ là người
ngoại cuộc. Thế hệ tham chiến không
thể kể hết tiếng ḷng của nạn nhân
chiến cuộc; các tự sự qua kư ức cá nhân
và kư ức tập thể mờ nhạt qua bụi
thời gian. V́ không có một chương tŕnh giáo
dục khách quan cho thế hệ hậu chiến, nên các
mờ ảo của lịch sử cận đại c̣n
đó. Tổng
Thống Richard Nixon và Cố vấn Henny Kissinger là hai
chính khách trực tiếp can dự vào sự
sụp đổ của VNCH. Richard Nixon đă thú
nhận những sai lầm qua danh tác “No More Vietnam“.
Henry Kissinger, vốn là nhà sử học và có nhiều
trước tác liên quan; nhưng gần đây ông cũng
cho là chưa có một tác phẩm nào về chiến
tranh Việt Nam là khách quan và thuyết phục. Trước
đống tro tàn của lịch sử, một câu
hỏi được đặt lại là Richard Nixon
và Henry Kissinger đă làm ǵ trong tiến tŕnh Việt
Nam Hoá chiến tranh và ai thắng ai thua trong sự sup
đổ của VNCH; đó là nội dung của
vấn đề ở đây và bài viết này là
một thử nghiệm khiêm tốn. Nhậm
chức Tổng Thống và bổ nhiệm Cố
Vấn Sau
bao năm thăng trầm trong chính trường, Nixon
thắng cử và trở thành Tổng Thống
thứ 37 của Hoa Kỳ. Ông là một luật sư
có tài hùng biện, văn tài diễn đạt trong sáng,
mà tác phẩm “No More Vietnam” là một thí dụ
điển h́nh, nhưng thái độ kiên quyết
chống Cộng làm ông nổi danh. Trước
đây, trong trận Điện Biên Phủ, ông đă
từng kêu gọi Hoa Kỳ phải oanh tạc Bắc
Việt, rồi đến việc xây dựng miền
Nam, ông ủng hộ Tổng Thống Diệm không
điều kiện và sau này ông c̣n cáo giác Johnson là
không có đủ biện pháp mạnh để
giải quyết vấn đề. Sau
khi nhậm chức, ông nhận ra rằng cần
phải có một chính sách ngoại giao mới, mà khó
khăn nhân sự là hàng đầu. Ngoại Trưởng
William Rogers vốn là một người bạn vong niên
mà ông tín cẩn, lại thiếu nhạy bén trong các
vấn đề ngoại giao, trong khi William Laird,
Bộ Trưởng Quốc pḥng, luôn tỏ ra là người
thừa lịnh hơn là đề xuất sáng
kiến. Để
làm việc hiệu năng hơn, ông quyết định
bổ nhiệm Henry Kissinger, Giáo sư Đại
học Harvard, vào chức vụ Cố Vấn An ninh
Quốc gia, mà ư kiến sẽ ảnh hưởng
trực tiếp đến các quyết định liên
quan với chiến cuộc Việt Nam đang leo thang. Chiến
cuộc leo thang Nixon
đồng quan điểm với các bậc tiền
nhiệm về học thuyết Domino: Việt Nam
lọt vào tay Cộng sản là một tai hoạ chung
cho các nước Đông Nam Á. Tham chiến là một
tṛ chơi quá nguy hiểm cho uy tín quốc tế
của Hoa Kỳ và chiến thắng bằng giải
pháp quân sự là khó; v́ có nhiều lư do: quân đội
cần hiện đại hoá các trang bị để
gia tăng hiệu năng tác chiến mà ngân sách đang
thâm thủng; kinh phí quốc pḥng hằng năm đă
lên đến gần 30 tỷ Đô la, chiếm
dụng 40% ngân sách. Nếu rút quân để tránh
tiếp tục sa lầy, t́nh h́nh sẽ nghiêm
trọng. Áp lực chính trị quốc nội ngày càng
nặng nề. Phe Bồ câu kêu gọi thương
thuyết, trong khi phe Diều Hâu chủ trương không
kích, nhưng cả hai cùng có một đ̣i hỏi
chung là 543.000 quân nhân Hoa Kỳ phải hồi hương,
nhất là khi số lượng tử vong của binh
lính lên tới 14.600. Nixon
và Kissinger tin là phải chấm dứt chiến tranh
bằng cách thông qua Moscow và Bắc Kinh; nhưng không
phải các vấn đề dị biệt ư thức
hệ là chính, mà là quyền lợi cụ thể
sẽ thuyết phục Moscow và Bắc Kinh quan tâm
giải quyết. Nhưng t́m cách nối kết các
quyền lợi dị biệt này thành quan điểm
chung về ngoại giao đó là mục tiêu, một
giải pháp lư tưởng mà Hoa Kỳ chấp
nhận được là Moscow và Bắc Kinh phải
ngưng viện trợ vũ khí cho Bắc Việt. Dù
bang giao với Moscow đă có nhiều cải thiện
sau thời kỳ giảm căng thẳng, nhưng Hoa
Kỳ vẫn c̣n trở ngại với Bắc Kinh. Hai
giải pháp tương lai của chiến trường
và đàm phán đều c̣n mờ mịt. Để
thực hiện, ông dựa theo học thuyết Nixon
1969 là tiếp tục ủng hộ VNCH và Đồng
Minh, nhưng chính phủ VNCH phải chịu trách
nhiệm chính trong công cuộc chiến đấu. Hoa
Kỳ sẽ trang bị tối đa vũ khí cho QLVNCH
cùng lúc với việc rút quân theo lịch tŕnh dự
định và can thiệp quân sự chỉ là trường
hợp ngoại lệ. Khác
với các luận điểm trong chiến dịch
tranh cử, Nixon đề ra một kế hoạch
tuyệt mật và hy vọng là sẽ kết thúc
chiến tranh trong ṿng một năm. Ông theo đuổi ba mục tiêu chính: Một
là gây ư thức trong công luận về triển
vọng kết thúc chiến cuộc, nhưng không
nhất thiết phải là chiến thắng quân
sự thuần túy. Hai
là
Hoa Kỳ không bỏ rơi VNCH và từ bỏ mục
tiêu cao cả đă cam kết. Ba
là kết thúc chiến cuộc là một giải pháp
khả thi, nhưng đầy danh dự cho Hoa Kỳ.
Ông
đề ra các giải pháp cụ thể: Để
phá vỡ hậu cần tại miền Bắc,
cần tiếp tục oanh tạc các đường
tiếp vận và phong toả hải cảng nơi
nhận các quân dụng viện trợ. Để làm
suy yếu tiềm lực chiến đấu tại
miền Nam, cần tăng cường chiến
dịch B́nh Định Nông Thôn mà Johnson đă thành công.
Để
gây chuyển biến nhanh hơn, Nixon muốn quyết
định táo bạo mà ông gọi là lư thuyết
của người điên (Madman Theory). Dù không có trên
văn bản, nhưng qua các cuộc hội luận
với H. R. Haldeman, một công sự viên thân tín, ông
nêu các lập luận qua trích thuật “Tôi sẽ
chứng tỏ cho Hà Nội biết rằng khi nổi
điên lên đến cực điểm, tôi sẽ làm
tất cả những ǵ để kết thúc
chiến cuộc. Chúng ta sẽ cho Hà Nội thấy là
khi Nixon căm ghét Hà Nội biết chừng nào, khi
Nixon nổi điên, th́ không ai kiềm chế
được“. Việc
Hoàng thân Norodom Shihanouk thuận cho CSBV sử dụng lănh
thổ Campuchia làm cơ sở hậu cần để
cho QĐNDVN xâm nhập miền Nam là vấn đề
mà Nixon thấy cần phải giải quyết trước.
Từ tháng 2 năm 1969, qua cuộc hành quân Operation
Menu, Nixon ra lịnh cho Không Quân Hoa Kỳ ném bom
xuống các căn cứ của CSBV trên lănh thổ
Campuchia. Công luận và các giới chức cao cấp
không được thông báo về diễn tiến này.
Trong 14 tháng liên tục Hoa Kỳ đă ném 100.000
tấn bom làm cho Hà Nội bị tổn thất
nặng nề, nhưng không hề công bố về
con số thương vong và tiềm lực suy
giảm. Vào
tháng sáu 1969, Nixon đề nghị Hoa Kỳ và CSBV rút
quân khỏi Nam Việt Nam và mọi h́nh thức hoà
đàm sẽ do hai phiá Bắc và Nam quyết định.
So với Johnson, Nixon và Kissinger mềm dẻo hơn. Ông
đề nghị là đến tháng 11 năm 1969,
nếu Hà Nội không chấp thuận th́ ông sẽ tăng
cường các giải pháp quân sự. Nhưng Hà
Nội bác bỏ, nên hoà đàm không khả thi. Thoạt
đầu, áp lực của giới phản chiến
xuống thấp, khi Nixon tuyên bố rút 25.000 quân vào
tháng 6 năm 1969 và tiếp tục rút thêm 60.000 vào tháng
9. Lịnh nhập ngủ được thay thế
bằng h́nh thức rút thăm và giới trẻ cũng
như sinh viên ít khi gặp phải. Đến tháng 10
phong trào phản chiến gây sôi động khi
Quốc Hội thông qua đạo luật cấm đóng
quân Hoa Kỳ tại Thái và Lào vào tháng 9. Chống
đối lên đến cao điểm khi có 4
triệu người biểu t́nh trên 200 thành
phố. Bài hát của John Lenon “Give Peace a Chance“ và
việc trưng bài danh sách các binh sĩ nằm
xuống tại bậc thềm Quốc Hội là hai
biểu tượng chính. Trước
áp lực của công luận, Nixon không có phản
ứng thích hợp và ra lịnh cho 300 quân nhân phong
toả Toà Bạch Ốc. Trong diễn văn truyền
h́nh ngày 3 tháng mười một, ông cảnh báo
giới phản chiến là một hiện tượng
tắm máu sẽ xảy ra khi miền Nam thất
thủ và phong trào phản chiến gây khó khăn cho
thiện chí đem lại hoà b́nh của Hoa Kỳ. Chính
Hoa Kỳ có thể làm suy yếu CSBV, và không có trường
hợp ngược lại. Tài hùng biện trong
diễn văn này đem lại thành công đáng
kể cho Nixon khi gần 70% dân chúng đồng
thuận với chính sách. Phong trào phản chiến suy
giảm khi tiến tŕnh Việt Nam Hoá chiến tranh
bắt đầu. Việt
Nam Hoá Chiến Tranh Khi
công luận Hoa Kỳ hoan nghênh việc Việt Nam Hoá
chiến tranh và hồi hương các binh sĩ, th́ các
giới chức tại Ngũ Giác Đài và Bộ
Quốc Pḥng VNCH bi quan cho rằng sách lược này
chỉ là để miền Nam đầu hàng CSBV theo
thời gian. Chính quyền VNCH, mặc dù triệt để
chống kế hoạch, nhưng không c̣n cách nào khác
hơn là tỏ ra ủng hộ giải pháp này. Giữa
tháng 6 năm 1970 QLVNCH gia tăng quân số từ
850.000 lên đến một triệu, do lịnh
Tổng Động Viên ban hành, thanh niên trong tuổi
từ 18 đến 35 phải nhập ngủ. Hoa
Kỳ trang bị cho QLVNCH vũ khí, quân xa va trực thăng
hiện đại. Chiến dịch B́nh Định Nông
Thôn thành công đem lại an ninh cho các vùng xôi đậu
trước đây. Cuối năm 1971, chính phủ
đă kiểm soát nông thôn nhiều hơn; không khí b́nh
yên trở lại xóm làng và các cuộc bầu
của Hội Đồng Xă là có tự do thật
sự. Luật Người Cày Có Ruộng của
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đem
lại ưu thế chính trị hơn cho ông, khi
số lượng đất cấp phát từ 29% lên
đến 56% trong năm 1972, cụ thể là 800.000 nông
dân vô sản có được đất để
canh tác. Thành phố sung túc hơn với các mặt hàng
tiêu dùng do viện trợ Hoa Kỳ bán ra. Tất
cả biểu hiện cho một sự thành công đáng
kể của miền Nam trong việc xây dựng
một quốc gia dân chủ trong bước khởi
đầu. Dù
an ninh văn hồi, nhưng chiến tranh thay đổi
bộ mặt nông thôn, dân chúng bỏ làng ra thành
phố mưu sinh, người ở lại cũng không
thể sống bằng canh nông, chương tŕnh
cấp đất không tạo thu hút dân chúng hồi cư
v́ không hứa hẹn sẽ đem lại một
cuộc sống sung túc. Binh lính VNCH vẫn chưa quen
sử dụng vũ khí hiện đại của Hoa
Kỳ nên hiệu năng tác chiến vẫn chưa
đạt được, trong khi tỷ lệ đào
ngủ c̣n cao. Sự tàn bạo của chiến
dịch Phượng Hoàng tạo thuận lợi cho
MTGPMN chiêu phục thêm được nhiều du kích
quân. Tháng
Ba năm 1970, Nixon công bố đă có nhiều diễn
tiến tốt đẹp trong chương tŕnh
Việt Nam Hoá chiến tranh và rút thêm 15.000 quân nhân
để t́m hậu thuẩn nơi phe phản
chiến. Thực ra, hoà đàm không chuyển biến
làm Nixon lo âu nhiều hơn. Trong khi phong trào phản
chiến ngày càng mạnh, nên tháng 4 Thượng
Viện ra cảnh báo về t́nh h́nh nghiêm trọng và
yêu cầu Tổng Thống kết thúc chiến tranh.
Một cơ hội văn hồi hoà b́nh cho Việt Nam
đến, không phải xảy ra tại Việt Nam mà
tại Campuchia. Tấn
công Campuchia. Thủ
tướng Lon Nol đảo chính Hoàng thân Norodom
Sihanouk vào ngày 18 tháng 3 năm 1970. Đến nay
vẫn chưa xác định được là có CIA
nhúng tay trong vụ này không. Hoa Kỳ thấy có
thuận lợi để tấn công các cơ sở
hậu cần của CSBV nằm trong lănh thổ
Campuchia. Không theo quan điểm của Bộ Quốc
Pḥng và Ngoại Giao, Nixon quyết định dùng
bộ binh hành quân vào các khu vực biên giới Tây
Nam Campuchia, không phải chỉ cách Sài g̣n 70 cây
số mà là toàn bộ các khu vực của MTGPMN chưa
hề được phát hiện trước đây.
Mục tiêu của đợt tấn công này là giúp
cho VNCH đủ thời gian tập trung lực lượng
cho chương tŕnh Việt Nam Hoá chiến tranh. Ngày
1 tháng năm Hoa Kỳ mang 31.000 quân và VNCH mang 43.000 quân
tấn công Campuchia. Do có mật tin t́nh báo mà các
bản doanh của MTGPMN di chuyển trước, nên
QLVNCH không thể nào t́m ra. Thành công của đợt
hành quân này quá giới hạn; mức tử vong
của Cộng quân là 2.000 và một số kho vũ khí
căn cứ bị huỷ diệt. Phản ứng
đầu tiên của CSBV là phải rút sâu hơn
trong nội địa của Campuchia. Với vũ khí
của CSBV và Trung Quốc cung cấp, lực lượng
Khmer Đỏ có thêm phương tiện gia tăng
kiểm soát nhiều các khu vực khác. Dĩ nhiên, các
cuộc hành quân hỗn hợp này làm cho xung đột
vốn dĩ lâu đời của Khmer Đỏ và chính
quyền Campuchia trầm trọng hơn. Thoạt
đầu, dân chúng Hoa Kỳ tỏ ra đồng ư dè
dặt về việc tấn công Campuchia. Trong một
cuộc biểu t́nh của giới phản chiến
tại khuôn viên Đại học Kent State, Ohio, Vệ
Binh Quốc Gia đă nổ súng làm chết 4 và bị
thương 15 sinh viên vào ngày 4 tháng năm 1970. T́nh h́nh
căng thẳng hơn khi 100.000 sinh viên liên tục
biểu t́nh trước Toà Bạch Ốc. Trước
áp lực nặng nề, Nixon tuyên bố sẽ
chấm dứt tấn công Campuchia vào tháng 6. Nixon khó
xử hơn bao giờ hết v́ thấy rằng Hoa
Kỳ không thể thắng, nhưng lại không
muốn kết thúc và cũng không dám công khai thú
nhận là thua. Sau
cuộc xâm lăng Campuchia, tinh thần dân chúng mệt
mỏi và cho là một sai lầm đạo đức,
nhất là khi các cơ quan truyền thông đồng
loạt khai thác vụ tàn sát Mỹ Lai và Bí Mật Ngũ
Giác Đài. Pentagon
Papers Muà
hè 1971, The New York Times phổ biến tài liệu
gọi là Bí Mật Ngũ Giác Đài, Pentagon Papers, làm
hoang mang dư luận. Tài liệu này do Daniel Ellsberg
tổng hợp theo yêu cầu của Bộ trưởng
Quốc pḥng MacNamara. Ông cáo giác chánh sách tham chiến
dựa trên quan điểm là do bị đe doạ
nhiều hơn trên các nhận định quyền
lợi thực tế. Các chính quyền Kennedy và Johnson
thông báo tin tức sai lạc cho dân chúng và lư tưởng
hoá về tầm vóc tham chiến tại Việt Nam. Để
đối phó với mặt trận truyền thông ngày
càng gay gắt, Nixon phải xin lịnh Toà án ngưng công
bố các tài liệu này, nhưng gặp thất
bại. Nixon yêu cầu các giới chức an ninh
hỗ trợ để chận đứng t́nh h́nh.
Một mặt, ông cáo buộc Daniel Ellsberg bị
bịnh tâm thần; mặt khác, ông dùng các thủ
thuật bất hợp pháp như tổ chức đánh
cắp tài liệu mật, nghe lén, theo dơi thư tín và
đời tư các người liên quan. Quốc
Hội ư thức hơn về tầm vóc vấn đề
và theo dơi các hoạt động của Tổng
Thống. Tháng tư và năm có hàng trăm ngàn dân
phản chiến tham gia biểu t́nh và có vài thành
quả nhất định. Dù các đài truyền h́nh
ít đưa tin về các hoạt động phản
chiến hơn, nhưng các bất ổn tâm lư lan tràn. Bất
ổn tâm lư Từ
khi phát động chương tŕnh Việt Nam Hoá
chiến tranh, từ Tướng Tư lệnh Abhrams
cho đến binh sĩ có cảm tưởng chung là
mục tiêu cao cả của cuộc chiến đấu
v́ tự do đă mất đi. V́ chỉ c̣n chờ
ngày hồi hương, nên họ mang tâm trạng pḥng
thủ và bất ổn tinh thần. Tinh
thần xuống cực thấp qua việc sử
dụng ma túy. Theo một ước lượng, có
khoảng 40.000 binh sĩ Hoa Kỳ lâm cảnh nghiện
ngập. Các vấn đề phân biệt màu da và
bất tuân thượng lịnh trở nên nghiêm
trọng hơn. Hậu quả chính trị của
vấn đề càng nghiêm trọng, khi có tin một
số tướng lănh VNCH cũng tham gia việc mua bán
ma túy. Ngay
khi c̣n ở Việt Nam, binh sĩ Hoa Kỳ không
thể suy đoán hết về các diễn biến
của các phong trào phản chiến. Lúc hồi hương,
họ càng gặp khó khăn trong việc tái hội
nhập xă hội và nhận ngay ra các bất ổn tâm
lư cá nhân, "họ không thể tập trung, lo
sợ trước bóng tối như trẻ con, thường
bị mệt mỏi nhanh, ác mộng thường xuyên,
phản ứng quá mức trước tiếng động
không b́nh thường, đột qụy trước
trong cơn giận dữ hay xung động." Các
chứng bịnh tâm thần kéo dài không thể
trị hết làm cho nhiều người thất
nghiệp, phạm pháp và vào tù. Trong chiến tranh,
họ được ca ngợi là anh hùng, khi hồi hương
họ mới nhận ra ḿnh là một phương
tiện cho một chính sách thất bại. Chính
quyền không quan tâm giải quyết các vấn đề
tâm lư cá nhân cũng như gia đ́nh. Họ mang tâm
trạng làm điều vô ích cho kẻ vô ơn. Tinh
thần binh sĩ VNCH cũng sa sút v́ mặc cảm
bị Hoa Kỳ bỏ rơi và phải tự
chiến đấu trong trong hoàn cảnh thiếu
yểm trợ. Khi Quốc Hội cấm binh sĩ Hoa
Kỳ hành quân trên lănh thổ Lào, QLVNCH gặp
vấn đề trầm trọng hơn, mà thảm
bại của Hành quân Lam Sơn 719 là thí dụ chính. Mục
tiêu Hành quân Lam Sơn 719 nhằm phả huỷ các
đường hậu cần, buộc CSBV trở
lại hoà đàm khi nhận ra được khả
năng thiện chiến của QLVNCH. Do mật tin
của các cơ quan t́nh báo mà mọi kế hoạch
đều bị CSBV phát hiện và kết quả là
QĐNDVN đă gây thảm bại nặng nề cho
QLVNCH. Nếu không có các cuộc oanh tạc của Hoa
Kỳ yểm trợ vào giờ chót, th́ tầm vóc
thiệt hại càng thảm khốc hơn. Con số
thương vong của QLVNCH lên tới 8.483 chết,
12.420 bị thương, 691 mất tích. Quân
đội Mỹ có 215 chết, 1.149 bị thương,
38 mất tích, 168 trực thăng bị bắn rơi
và 618 chiếc khác bị bắn; QĐNDVN bị thương
vong là 2.163 chết, 6.176 bị thương; các số
liệu đều là ước đoán. CSBV
và MTGPMN trong tiến tŕnh Việt Nam Hoá chiến tranh. Tổng
công kích Tết Mậu Thân mang lại thành công về
ngoại vận cho CSBV và MTGPMN, nhưng là một
thất bại quân sự nặng nề và hiệu năng
tác chiến trở nên cực kỳ suy yếu.
Chiến dịch tấn công sang Campuchia và Chương
tŕnh Phượng Hoàng của QLVNCH làm cho CSBV chỉ
duy tŕ thế thủ; MTGPMN cần có thời gian để
phục hồi và không c̣n đánh phá mạnh ở
mức độ địa phương. Nhưng
tiến tŕnh Việt Nam Hoá làm thay đổi t́nh h́nh;
Quân lực Hoa Kỳ không thể phát triển
được nửa khi quân số đă lên đỉnh
điểm và QLVNCH khó khăn hơn khi phải tự
đảm nhận các cuộc hành quân. MTGPMN và CSBV
nhận ra rằng đă đến lúc phải
phản ứng trước t́nh h́nh thuận lợi,
nghĩa là phải công kích đối phương
nhiều hơn, kể cả ngoại vận, cho dù
thực lực đang suy giảm. Thực
ra, nỗ lưc kiện toàn cơ sở và tăng cường
tiềm lực không gặp trở ngại v́ CSBV
nhận nhiều viện trợ của Liên Xô, Trung
Quốc và các nước thuộc khối Đông Âu
trong các lĩnh vực pḥng không,
xây dựng, kỹ thuật và huấn luyện. Theo
một ước lượng, CSBV nhận viện
trợ quân sự của Liên Xô và Trung Quốc
khoảng 7 tỷ Đô la, và riêng Trung Quốc mỗi
năm khoảng 200 triệu Đô la về trang bị
vũ khí nhẹ. Sau
khi Hồ Chí Minh chết vào năm 1969, đấu tranh
giành độc lập dân tộc, chống Mỹ xâm
lược và thống nhất đất nước
là mục tiêu cao cả của CSBV. Để đạt
mục tiêu này, Lănh đạo Đảng Lao Động
ư thức được các tác động chuyển
biến của Việt Nam Hoá chiến tranh. Vào tháng giêng
1970, họ thay đổi chiến lược bằng
cách sử dụng Hoà đàm Paris là một trận
tuyến mới, mà trước đây họ xem là
một công cụ tuyên truyền. Vùng
châu thổ sông Cửu Long, một khu vực đông dân
và nhiều luá gạo, có ư nghĩa chiến lược,
nên MTGPMN đă tăng cường mọi biện pháp
để bám khu vực. Hành quân tấn công sang
Campuchia của QLVNCH đă làm phân tán sức bảo
vệ, nhưng sau đó đành phải rút về
để bám đất và giữ dân. Điểm
ngạc nhiên nhất là đến giữa năm 1971,
tiềm năng chiến đấu của hai bên đều
suy yếu, một t́nh trạng bất phân thắng
bại, không bên nào chứng tỏ có ưu thế quân
sự để có thể chiến thắng. Thuận
lợi nhất cho CSBV là Hoa Kỳ bắt đầu rút
quân theo lịch tŕnh, cứ sáu tháng là có 50.000 binh sĩ
hồi hương. Nga-Hoa
đang nỗ lực cải thiện bang giao với Hoa
Kỳ để có nhiều thoả ước thương
mại và giải giới vũ khí. Để đánh
đổi mặc cả này, cả hai sẳn sàng gây
áp lực Hà Nội trong việc mưu t́m một
giải pháp hoà b́nh. Dù xung đột có vũ trang
tại biên giới Nga - Hoa vào mùa hè 1969 tại vùng
Ussuri cũng không làm cho t́nh h́nh bang giao của
Việt Nam với Trung Quốc và Liên Xô xấu hơn.
Chuyến
đi bí mật của Kissinger vào ngày 9 tháng 6 năm
1971 tại Bắc Kinh là để mở đường
cho chuyến thăm viếng chính thức của Nixon vào
ngày 21 đến 28 tháng 2 năm 1972. Triển vọng
tái lập bang giao Hoa - Mỹ tạo bất lợi cho
Hà Nội, v́ một trong những điều kiện
tiên quyết mà Kissinger đặt ra cho Bắc Kinh là
tạo áp lực cho Hà Nội phải đàm phán. Lo
sợ trước chuyển biến này, Phạm Văn
Đồng sang Bắc Kinh gặp Mao Trạch Đông t́m
cách ngăn trở. Mao
phản bác yêu cầu của Phạm Văn Đồng
bằng một h́nh ảnh bóng bẩy: “Chổi
của Trung Quốc quá ngắn không thể nào quét
sạch lính Mỹ tại Đài Loan, chổi
của các Đồng chí ở miền Bắc c̣n
ngắn hơn, th́ làm sao quét sạch miền Nam.“
Bắc Kinh chống đề nghị này là một
thất bại cho Hà Nội. Nhiều tư liệu
giải mật về sau cho thấy, dù viện trợ
cho Bắc Việt tối đa, nhưng Trung Quốc không
hề tin CSBV sẽ chiến thắng. Bảng
Tuyên bố chung Thượng Hải vào ngày 28 tháng 2
mở đầu giai đoạn bang giao mới
giữa hai nuớc, mà mục tiêu chung là xây dựng
một cấu trúc về hoà b́nh và công lư cho thế
giới (the goal of building a world structure of peace and justice).
Nội dung không đề cập đến các dị
biệt ư thức hệ hay giải quyết các
vấn đề Đài Loan, Việt Nam và Bắc Hàn,
nhưng là một thay đổi quan trọng về
thế giới quan về hợp tác. Từ
quan điểm của một vị Tổng Thống
chống Cộng cực đoan, Nixon chuyển sang
lợi dụng các xung đột Nga-Hoa hầu t́m
một cấu trúc mới cho chính trị thế
giới, mà cũng không quên quyền lợi chính
của Hoa Kỳ. Giải pháp cho vấn đề
Việt Nam tất nhiên bị ảnh hưởng trong
sự thay đổi này. Đợt
tấn công muà hè 1972 Bất
chấp thành công của Nixon trong chuyến Hoa du và
đợt vận động tranh cử tại Hoa
Kỳ vừa kết thúc, CSBV mở một đợt
tấn công miền Nam vào mùa hẻ năm 1972 với
120.000 quân qua ba ngả phi quân sự, vùng cao nguyên và
biên giới Campuchia, lần này có trang bị
nhiều chiến xa tối tân của Liên Xô. Vào
thời điểm này, Hoa Kỳ chỉ c̣n 6.000 binh sĩ
chiến đấu trong tổng số 95.000 quân. CSBV
tấn công năm tỉnh phiá Bắc, khởi đầu
là Quảng Trị, rồi đến Komtum thuộc cao
nguyên, với hy vọng là cắt đôi miền này,
và điểm cuối cùng là biên giới Tây Nam, cách
thủ đô Sài g̣n 70 cây số. Tổng Thống
Thiệu phải ra lịnh cứu nguy các thành phố
và tạo ṿng đai an toàn cho dân chúng. Để
làm cơ sở bao vây Sài G̣n, MTGPMN đă bắt đầu
kiểm soát vùng châu thổ sông Cửu Long; tấn công
này làm cho tinh thần chiến đấu của QLVNCH
lung lai v́ thiếu yểm trợ. Nixon
kiên quyết không bỏ rơi miền Nam và không
thể chịu thất bại trong năm tranh cử
khi ông đưa ra cuộc hành quân Linebacker I vào ngày 8
tháng năm. Ông quyết định phong toả
hải cảng Hải Pḥng và mở các đợt không
kích tàn bạo nhất, cho dù các chuyên gia có cảnh báo
về hậu quả nghiêm trọng của quyết
định "điên khùng" này. Lập
luận chung là ai cũng sợ Hoa Kỳ bị trả
đuả; để tỏ t́nh đoàn kết
với CSBV, Trung Quốc sẽ trực tiếp can
thiệp và Liên Xô sẽ cắt đứt ngoại
giao với Hoa kỳ. Nixon bất chấp cảnh báo này
và cho ném 112.000 tấn bom xuống miền Bắc. Điểm
ngạc nhiên là Liên Xô phản ứng yếu kém khi
một chiếc hạm của Liên Xô bị phá
hủy ở hải cảng Hải Pḥng. Sau đó,
Leonid Breschnew tiếp Nixon vào tháng năm với nghi
lể trang trọng dành cho một quốc khách. Trung
Quốc cũng tỏ ra không gay gắt trước
những thiệt hại nặng nề của miền
Bắc. Dù Thượng Viện nổi giận, nhưng
công luận Hoa Kỳ tỏ ra đồng thuận
với việc ném bom miền Bắc, v́ dẫu sao cũng
ít gây hậu quả tệ haị hơn là hành quân
bằng bộ binh. Nixon nhận nhiều ủng hộ
chính trị hơn trong thời gian này. Cuộc
hành quân muà hè 1972 là một thất bại cho Hà
Nội; v́ mọi hoạt động hậu cần
bị tê liệt và với trên 100.000 quân của QĐNDVN
bị thiệt mạng cùng 700 xe tăng Liên Xô bị
tiêu hủy, trong khi quân của VNCH tử vong khoảng
25.000. Chua chát nhất là Liên Xô đă cắt giảm
viện trợ, c̣n Trung Quốc gây sức ép để
buộc ngừng chiến đấu. Hà Nội
đang trong t́nh trạng hoàn toàn kiệt quệ
mọi mặt và nhận ra rằng không thể kéo dài
chiến lược vưà đánh vừa đàm, v́
thiệt hại nhiều hơn trong khi Hoa Kỳ c̣n
tiếp tục oanh tạc; dù Đảng Dân Chủ
của McGovern có thắng cử, th́ t́nh h́nh cũng không
thể thuận lợi hơn. Ngược
lại, v́ đang được dân chúng ủng
hộ, nên Nixon và Kissinger nhận ra một lối thoát
trong danh dự cho Hoa Kỳ đă đến. Dù Hoa
Kỳ vẫn tiếp tục hỗ trợ cho miền
Nam, nhưng Nixon thấy không thể kéo dài mưa bom và
áp lực phản chiến trong nước lên đến
đỉnh điểm. Theo công luận th́ những
thuận lợi về việc xây dựng nền
tảng dân chủ của VNCH cũng như triển
vọng thành công trong chương tŕnh Việt Nam Hoá
không c̣n nửa. Cả
Hoa Kỳ và CSBV cùng nhận định là phải
trở lại hoà hội Paris trong một thái độ
nghiêm chỉnh hơn. Hiệp
Định Paris Các
cuộc hoà đàm chính thức tại Paris khởi
đầu từ 10.5.1968 trong thời Johnson, nhưng v́
có quá nhiều dị biệt nên không đạt
kết quả. Từ 4.8.1969 Kissinger đă có nhiều
mật đàm với Lê Đức Thọ và cũng
không có tiến triển. Thực ra, vị thế
đàm phán của Kissinger kém hơn CSBV, khi ông đ̣i
hỏi hai bên cùng rút quân. Lúc này, Hoa Kỳ chỉ c̣n
27.000 binh sĩ và phương tiện duy nhất là
tiếp tục đe doạ không kích. Cuối
cùng, qua hai cuộc thương thảo 26 tháng 9 và 10
tháng 10 năm 1973, cả hai bên đạt đến
một thoả hiệp chung: CSBV đồng ư cho
chế độ VNCH tồn taị và thành lập
một Uỷ Ban Quốc Gia Hoà Giải và Hoà hợp Dân
tộc gồm có đại diện VNCH, MTGPMN và các thành
phần thứ ba cùng làm việc chung. Mục tiêu
của UB là chuẩn bị cho cuộc phổ thông
đầu phiếu toàn quốc. Cùng với nỗ
lực này là một thoả ước đ́nh
chiến và trao trả tù binh cho các bên liên quan. Ủy
ban Quốc tế Kiểm soát Đ́nh chiến sẽ
hỗ trợ cho hai miền trong tiến tŕnh này. Một
bất ngờ trong lúc thương thảo cho Kissinger là
gặp phản ứng cực kỳ mănh liệt
của Tổng Thống Thiệu. Ông thấy nguy cơ
sống c̣n cho chế độ nên không thể kư hoà
ước. Kissinger nhận ra rằng vấn đề
không c̣n phải là chuyện soạn thảo các điều
kiện rút quân hay hoà giải mà sự dị biệt
nền tảng trong quan điểm đấu tranh.
Miền Nam không muốn mất vào tay Cộng Sản và
cần có một phương cách để bảo
đảm cho chiến thắng. Qua hinh thức kư
kết này Hoa Kỳ cũng sẽ không hỗ trợ ǵ
đặc biệt hơn cho VNCH. Kissinger
nổi giận v́ các mật đàm giữa Hà Nội
và Washington đều không đạt kết quả,
nhất là không làm cho Tồng Thống Thiệu tin tưởng
thiện chí của Hoa Kỳ. Dù Kissinger dấu
nhẹm mọi tin tức về tiến tŕnh đàm phán,
t́nh báo của Tổng Thống Thiệu cũng t́m ra
được nội dung các điều kiện,
nhất là Kissinger cũng sẽ không thương
thảo với Tổng Thống Thiệu, mà chỉ
với MTGPMN; chỉ với lư do này cũng đủ
làm cho Tổng Thống Thiệu từ chối kư
kết hoà ước. T́nh
thế khó khăn hơn, nhưng Kissinger vẫn hy
vọng t́m ra một thoả hiệp. Ngày 19 tháng 7 năm
1972 ông gặp lại Lê Đức Thọ để
thương thuyết. Đến ngày ngày 31 tháng 10 là
ngày trước ngày bầu cử Tổng Thông
một tuần, ông tuyên bố: “Hoà b́nh đang
ở trong tầm tay“ (“Peace is at hand”). Đây là
một kết luận vội vàng gây nhiều hậu
quả tai hại, trong khi ông không tham khảo ư
kiến của Tổng Thống Thiệu cũng như
Nixon. Nixon thú nhận là những lo âu của Tổng
Thống Thiệu là hợp lư và nếu ông thắng
cử th́ cơ hội cho một hoà ước
thuận lợi hơn. Kissinger cũng không thể lựng
được là 61% dân chúng ủng hộ Nixon
thằng cử, MacGovern thua đậm là một thành tích
hiếm thấy cho Nixon. Sau
khi thắng cử vào ngày 7 tháng 11 năm 1972, Nixon bày
tỏ thiện chí ủng hộ miền Nam. Ngay sau
cuộc hành quân Enhence Plus, ông quyết định trao
cho miền Nam một số lượng vũ khí quan
trọng. Đáng kể nhất trong đợt
viện trợ này là 600 máy bay, trong đó hơn 200 phản
lực chiến đấu và oanh tạc cơ, hơn
300 trực thăng, máy bay vận tải, thám thính.
Tổng số máy bay VNCH lên đến 2.075 chiếc và
không lực đứng thứ 4 trên thế giới
về số lượng. Ngoài
ra, trong các mật thư với Tổng Thống
Thiệu, Nixon c̣n cam kết là dù có ngưng bắn, ông
sẽ tiếp tục ném bom miền Bắc khi CSBV vi
phạm thoả ước. Cả Nixon và Kissinger
về sau cũng không hề nhắc đến mật
ước này, chỉ có Tổng Thống Thiệu gián
tiếp công bố khi lưu vong. Muốn
chứng tỏ không bỏ rơi miền Nam, một
lần nửa, Nixon kiên quyết tiếp tục ném bom
Hà Nội và Hải Pḥng qua cuộc hành quân Linebacker
II. Cuộc không kích kéo dài từ 18 cho đến 29 tháng
12 năm 1972, ngoại trừ đêm Giáng Sinh. Mưa
bom này làm kinh động công luận thế giới,
cả Đức Giáo Hoàng Paul VI cũng lên tiếng
phản đối Nixon. Khoảng 2000 thường dân
chết và 1500 bị thương, nhưng thiệt
hại các khu dân cư quá nặng nề. Tại
Paris, Kissinger buộc Hà Nội trở lại đàm phán.
Hà Nội hoảng sợ phải trở lại bàn
hội nghi; VNCH lên tinh thần hơn, tin tưởng là
mật ước của Nixon sẽ tiếp tục không
kích miền Bắc là khả thi và cũng đồng
ư thương thuyết. Cuối cùng, Hiệp Định
Chấm dứt Chiến tranh và Văn hồi Hoà b́nh
được kư vào ngày 27 tháng giêng năm 1973
với bốn bên là CSBV, VNCH, MTGPMN và Hoa Kỳ. Các
điểm chính trong Hiệp Định Paris là ngưng
mọi cuộc giao tranh, Hoa Kỳ rút quân trong ṿng 60 ngày
ra khỏi Việt Nam; QĐNDVN được ở
lại miền Nam; bù lại Hà Nội trao trả các
tù binh Hoa Kỳ. UBQGHGHHDT sẽ làm việc trong khi VNCH
và MTGPMN cùng hoạt động trên lănh thổ
của ḿnh. Khu phi quân sự là một lằn ranh
tạm thời và không được quốc tế công
nhận theo luật quốc tế. Trong một mật
ước với Hà Nội, Nixon hứa sẽ
viện trợ tái thiết cho CSBV và sẽ không hành
quân trên lănh thổ Lào và Campuchia. Hiêp
Định Paris không phải là một thoả
hiệp giữa hai phe thắng và thua, nhưng CSBV
và MTGPMN có ba thắng lợi thuộc loại bất
chiến tư nhiên thành: một là toàn bộ binh sĩ
Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam; hai là công nhận
sự hiện diện của 140.000 quân chính quy QĐNDVN
ở miền Nam và chính phủ ”ma” MTGPMN; ba là quy
chế khu phi quân sự sẽ không đuợc
luật quốc tế công nhận và không ai sẽ can
thiệp khi vi phạm. Dù
VNCH kiểm soát trên 50% dân chúng và 75% lănh thổ, nhưng
là một thất bại nặng nề khi kư kết,
v́ không có tiếng nói chính thức trong hội
nghị. Hai mục tiêu chính của VNCH là duy tŕ binh sĩ
Hoa Kỳ để tiếp tục hỗ trợ QLVNCH
chiến đấu và phải trục xuất binh sĩ
CSBV ra khỏi miền Nam đều không có kết
quả. Thắng
lợi cho Hoa kỳ là mang binh sĩ hồi hương,
một lối thoát danh dự, một thành quả
của Nixon mà Kennedy và Johnson không đạt được.
Nixon c̣n buộc Hà Nội phải công nhận chính
phủ VNCH là một thực thể chính trị để
đối thoại, làm cho CSBV phải từ bỏ yêu
sách là một chính phủ liên hiệp không có chính
quyền Thiệu tham gia. Nixon ư thức về khó khăn
của việc thực hiện Hiệp Định
Paris v́ QĐNDVN c̣n đóng tại miền Nam và
việc tiếp tục ném bom miền Bắc trong tương
lai là khó khả thi. Khi
cải thiện bang giao với hai nước Nga-Hoa,
Nixon và Kissinger đem lại ưu thế cho Hoa kỳ;
v́ mở rộng vị thế siêu cường, nên các
áp lực quốc tế và quốc nội trong cách
giải quyết vấn đề Việt Nam giảm
đi. Nixon
vẫn c̣n lo âu về mật ước với
Tổng Thống Thiệu. Kissinger, vốn dĩ không dành
thiện cảm cho VNCH, nên cảm thấy nhẹ nhàng
hơn và không quan tâm đến vận mệnh tương
lai của miền Nam. Ông tiên đoán sẽ có một
khoảng cách thích hợp cho việc đ́nh chiến
và sự sụp đổ của miền Nam. Khi đuợc
hỏi miền Nam sẽ c̣n sống được bao
lâu sau ngày ngưng bắn, ông trả lời:
”Nếu có may mắn chế độ Sài G̣n chỉ
sống sót được trong ṿng một năm rưởi.”
Quốc
Hội và Watergate Sau
khi người lính cuối cùng rời khỏi
Việt Nam và Hà Nội trao trả 580 tù binh th́ chính
giới Hoa Kỳ không c̣n lư do để ủng
hộ cho VNCH. Dù có nhiều tin tức về vi
phạm Hiệp Định Paris nhưng công luận không
c̣n quan tâm. Hai khái niệm chính yếu cho Hoa Kỳ
trong gia đoạn này là Hoà B́nh và Danh dự. Cuối
tháng 7 năm 1973 Quốc Hội t́m cách hủy bỏ
các quân viện cho chiến trường Đông Dương.
Nixon phủ quyết quyết định của
Quốc Hội, t́nh h́nh căng thẳng và không
một thoả hiệp nào đạt được.
Ngày 15 tháng 8 năm 1973 các cuộc ném bom trong phạm
vi biên giới Campuchia dọc theo Nam Việt Nam kết
thúc. Hoa Kỳ đă ném tổng cộng hơn 250.000
tấn bom xuống khu vực này, nhiều hơn
số lượng bom trong Thế chiến thứ Hai, làm
cho khoảng 7 triệu dân Campuchia phải chạy
tỵ nạn. Quốc
Hội t́m mọi cách gây ảnh hưởng ngăn
chận trong mọi tiến tŕnh quyết định
của Tổng Thống. Tháng 11 năm 1973 Quốc
Hội biểu quyết luật War Power Act, quy định
trường hợp can thiệp quân sự trong các xung
đột quốc tế; Tổng Thống có quyền
điều quân ra nước ngoài trong thời hạn
60 ngày; nếu Quốc hội không cho phép can thiệp,
th́ trong vỏng 30 ngày sau đó Tổng Thống
phải rút quân. Do đó, thẩm quyền can thiệp
quân sự của Tổng Thống trong tương lai
bị hạn chế. Biến
động Watergate làm cho Nixon hoàn toàn bất lực.
Thông tin sai lạc và lạm quyền Tổng Thống
quá mức lần lượt bị báo chí phơi bày,
nên không c̣n được tín nhiệm Nixon; Tối
Cao Pháp Viện đồng thanh quyết định
Nixon phải trao các băng ghi âm các buổi nói
chuyện tại văn pḥng Bầu dục cho Uỷ viên
Điều tra là Jaworski; Uỷ Ban Tư pháp của
Hạ Viện truy tố Nixon vi phạm ba tội h́nh
sự; toàn thể Hạ Viện và Thượng
Viện đồng thanh chấp thuận tiến hành
thủ tục huyền chức (Impeachment) Tổng
Thống, một vụ việc chưa có tiền
lệ. Để
tránh khỏi thủ tục này, ngày 2 tháng 8 Nixon tuyên
bố từ chức và không nhận tội. Người
kế nhiệm là Gerald Ford. Ông tuyên bố kế
tục chính sách ngoại giao của Nixon và Kissinger
vẫn nắm chức vụ Cố vấn An ninh
Quốc gia đến cuối tháng 11 năm 1975. Trong
thời gian này, các mật ước của Nixon
hỗ trợ Tổng Thống Thiệu không ai biết
tới, nhưng bất ổn xă hội tại
miền Nam càng thể hiện trầm trọng hơn. Bất
ổn xă hội Sau
khi Hiệp Định Paris kư kết, cả hai phe Nam
Bắc liên tục cáo giác nhau về các vi phạm ngưng
bắn, cùng ngăn trở hoạt động của
UBHG và gia tăng phương tiện kiểm soát lănh
thổ và dân chúng. Trong chiến dịch này QLVNCH
chiếm lại được hơn 1000 làng xă. Thành
quả này cũng là một thách thức mới v́
QLVNCH c̣n phải đảm nhiệm thêm các công tác hành
chánh địa phương và b́nh định nông thôn,
vượt quá khả năng bảo vệ. Quân
số QLVNCH lên đến tên 1,1 triệu trong khi quân
số của CSBV và MTGPMN có khoảng 300.000. Ưu
thế quân số không tạo thắng lợi hơn
cho VNCH v́ 2/3 Quân lực phải lo cho việc kiểm
soát lănh thổ, trong khi đối phương chỉ
cần có 10% lo chuyện pḥng thủ. Hà
Nội kiên quyết kết thúc chiến tranh bằng
chiến thắng quân sự. Để chuẩn bị
cho đột tấn công mới, CSBV tập trung
kiện toàn đường ṃn Hồ Chí Minh; nhờ
việc tiếp vận từ biên giới Hoa-Việt
đến biên giới Miên-Việt hoàn chỉnh, nên
chuyển chở vũ khí, nguyên liệu và quân
dụng nhanh hơn. Trong năm 1974 CSBV tăng cường
hoạt động trong các tỉnh thuộc khu phi quân
sự và các tỉnh cao nguyên trong khi MTGPMN chiếm
gần phân nửa vùng châu thổ sông Cửu Long.
T́nh
h́nh kinh tế của Miền Nam suy sụp trầm
trọng. Viện trợ cắt giảm, khu vực cung
ứng dịch vụ cho Quân đội Đồng
minh không c̣n, làm mất đi gần 300.000 công
việc và tỷ lệ thất nghiệp lên đến
40%. Đời sống công chức và binh sĩ gặp
khó khăn khi giá lương thực tăng. Thực
phẩm khan hiếm khi chánh phủ VNCH kiểm soát
thị trường luá gạo và MTGPMN t́m cách bóp
nghẹt các trục vận chuyển. Quốc
Hội chấp thuận viện trợ 700 triệu cho
VNCH trong tài khoá năm 1975, sau khi trừ chi phí vận
chuyển chỉ c̣n lại 300; hậu quả là QLVNCH
không thể trang trải mọi quân phí. Chiến lược
của QLVNCH là theo kiểu Mỹ, nên cực kỳ
tốn kém, sử dụng số lượng vũ khi
17 lần hơn đối phương trong năm 1973,
và 12 lần hơn trong năm 1974. Giảm quân viện
làm tiêu hao tiềm năng chiến đấu và
nhất là khi lương quân nhân không đủ
sống. Ảnh hưởng này làm cho tỷ lệ
đào ngũ lên cao, 240.000 người trong năm 1974,
một kỷ lục chưa từng có. T́nh
h́nh kinh tế càng khó khăn khiến cho dân thành
phố, thành phần trí thức, kể giới làm giàu
nhờ chiến tranh tỏ ra chống đối
Tổng Thống Thiệu qua chương tŕnh chống
tham nhũng. Giới hữu sản bắt đầu
chuyển tiền của và t́m cách định cư nước
ngoài. Một niềm tin c̣n lại dành cho tất
cả mọi người là: “Mỹ không thể
bỏ Việt Nam“, nhưng càng ngày càng mơ hồ
hơn v́ thiếu cơ sở luận chứng. Tất
cả mọi người dân đều mong muốn có
sự thay đổi phù hợp cho miền Nam, nhưng
không ai có khả năng để thích nghi khi CSBV
khởi động chiến dịch Hồ Chí Minh 1975. Chiến
dịch Hồ Chí Minh 1975 Hoa
Kỳ rút quân và Nixon từ chức sau vụ Watergate là
hai món quà vô giá dành cho CSBV. Gerald Ford không đủ tư
thế và cũng không chống Cộng cuồng
nhiệt như Nixon. Không c̣n cần Hiệp Định
Paris, Hà Nội quyết định mở chiến
dịch Hồ Chí Minh vào ngày 18 tháng 12 năm 1974 để
tiến chiếm miền Nam. Tháng
12 năm 1974, CS tấn công Đồng Xoài, Phước
Long, tháng 3 năm 1975 tấn công Ban Mê Thuột.
Tổng thống Thiệu quyết định bỏ
ngỏ cao nguyên để cũng cố lực lượng
cho vùng duyên hải và miền Tây. Quân đội
triệt thoái khỏi Pleiku và Kontum gây hỗn loạn
và nhiều người chết. V́ không c̣n ai lănh
đạo nên dân chúng và binh sĩ chạy thoát thân
trên các “đại lộ kinh hoàng“ để lánh
nạn nơi vùng duyên hải. Các trạm giao thông
tắc nghẻn, quân nhu và vũ khí đều bỏ
lại trên đường tháo chạy. 25 tháng 3 CSBV
chiếm Huế và sau đó 30 tháng 3 Đà Nẳng
thất thủ. Ngày
4 tháng 4 Tướng Frederick Weygand, Tham mưu Trưởng
Liên quân, c̣n đề nghị Gerald Ford nên tăng
viện cho Việt Nam 722 triệu. Gerald Ford bác bỏ v́
không thể t́m sự đồng thuận của
Quốc Hội. Ngày 23 tháng 4 năm 1975 trước các
sinh viên Đại học Tulane, New Orleans, đang hân
hoan về t́nh h́nh thay đổi tại Việt Nam,
Gerald Ford tuyên bố là: "Chiến tranh Việt Nam
đă qua đi trong mối quan hệ với Hoa
Kỳ" (The war is over as far as American is concerned). Hoa
Kỳ đă học hỏi những sai lầm của
ḿnh; nhưng loại sai lầm nào th́ ông không kể
tới. Thắng
thế, Hà Nội quyết định tấn công Sài
g̣n và các tỉnh miền Tây. Ngày 21 tháng 4 Tổng
Thống Thiệu trao quyền cho tướng Dương
Văn Minh và lưu vong sang Đài Loan. Hy vọng
cuối cùng cho người dân miền Nam là Tướng
Minh sẽ có một cơ hội đối thoại
với MTGPMN. V́ tương quan lực lượng không
c̣n nửa nên Hà Nội quyết định không
đối thoại và ngày 30 tháng 4 tiến chiếm Sài
g̣n. Ngày 1 tháng 5 tướng Minh tuyên bố đầu
hàng.
T́nh
h́nh chuyển biến quá nhanh ngoài sự dự
liệu của Đại sứ Hoa Kỳ Graham Martin.
Ông bối rối trong việc tổ chức di tản
cho 9000 nhân viên người Mỹ và khoảng 150.000 người
Việt. Khi chiếc trực thăng cuối cùng
rời khỏi Toà Đại Sứ, trang sử
mới cho Việt Nam bắt đầu. Ai
thắng? Ai thua? Tại sao? Tại
sao Hoa Kỳ thua? Hoa
Kỳ thua v́ phải trả 167 tỷ Đô la, kinh phí
tổng cộng cho chiến cuộc và 58.000 binh sĩ
hy sinh. Về đối ngoại, uy tín của Hoa
Kỳ như một siêu cường không c̣n. Hậu
quả là phong trào chống Mỹ tại châu Âu,
vổn dĩ đă có sẳn, nay lên cực điểm;
các nước chậm tiến không c̣n tin tưởng
việc kết ước liên minh quân sự với
Mỹ, mà ngược lại, xem là một tai hoạ.
Về đối nội, chiến tranh đă đem
lại một vết thương tinh thần, không
phải chỉ riêng với các cựu chiến binh mà
toàn dân tộc. Các giá trị cao cả mà người
Hoa Kỳ đề cao và theo đuổi trước
đây, nay được đặt lại nghiêm túc
hơn để t́m một hướng đi mới làm
hồi sinh dân tộc. Các
cuộc thảo luận tại Hoa Kỳ về
cuộc chiến hầu hết tập trung vào khiá
cạnh quân sự. Họ nêu lên ba luận điểm
chính trong ba thời kỳ khác nhau và đi đến
kết luận là Hoa Kỳ đă có nhiều cơ
hội để thắng CSBV mà Hoa Kỳ không
nhận ra hoặc không theo đến cùng. Một
là khái niệm Counterinsurgency của Kennedy là một sách
lược chống Cộng đúng đắn cho
Việt Nam mà kinh nghiệm tại Mă Lai đă
chứng minh thành công. Lư do hỗ trợ cho quan điểm
này là thoạt đầu chính phủ Ngô Đinh
Diệm được hai thành phần nông dân
miền Nam và người Bắc di cư ủng
hộ. Chính quyền có hiệu năng trong việc xây
dựng đất nước, kết hợp các giáo
phái và giải quyết xung đột điạ phương
là thí dụ điển h́nh. Kinh tế trên đà phát
triển trong một xă hội đang chuyển ḿnh khi
MTGPMN chưa có lư do để tuyên truyền là Mỹ
xâm lược hay bom Mỹ phá hoại xóm làng. Chính sách
gia đ́nh trị cũng như kỳ thị tôn giáo
của Tổng Thống Diệm chưa thành h́nh. Kennedy
không quan tâm kết hợp các thành quả xây dựng
của VNCH trong công cuộc đấu tranh toàn
diện, kể cả bằng quân sự để tiêu
diệt CS c̣n trong thời kỳ phôi thai, mà chỉ
gởi các cố vần quân sự là không đủ
mạnh. Trở ngại chính một phần là do
phản ứng đầy tự ái dân tộc của
Tổng Thống Diệm, một phần do thiếu kiên
quyết của Kennedy gây áp lực. Tổng Thống
Diệm thực thi Quốc sách Ấp Chiến Lược
có nhiều sai lầm, gây bất măn cho nông dân và
MTGPMN bắt đầu có cơ hội phát triển cơ
sở. Hai
là Johnson quyết định leo thang chiến tranh, nhưng
ông lại áp dụng trong phạm vi giới hạn.
Dị biệt quan điểm giữa các cố
vấn dân sự và quân sự về sách lược
đấu tranh làm cho Johnson thiếu kiên quyết. Ông
chủ trương không gài ḿn hải cảng Hải
Pḥng sợ làm ch́m tầu Nga, luôn lo sợ là Hoa
Kỳ có thể bị Trung Quốc và Nga trả đuả;
sai lầm nhất của ông là không theo đánh đuổi
VC qua bên kia biên giới cuả Campuchia và Lào, v́
sẽ mở rộng cuộc chiến. Các biện pháp
này Nixon thấy là đúng đắn và thực
hiện về sau. Giới
chức quân sự tin là nếu Johnson oanh tạc các
trục tiếp vận và phong toả các hải
cảng miền Bắc mạnh hơn và tiến hành
Việt Nam Hoá chiến tranh ở miền Nam vào
cuối 1966, đó là cơ hội thích hợp
nhất để thắng CSBV. Ngược lại,
Johnson-McNamara cho là chiến thắng quân sự không là
một giải pháp tối ưu như quan niệm
cổ điển, mà nghĩ là xây dựng dân chủ
miền Nam và không phá hủy miền Bắc là chính.
Mục đích oanh tạc và đánh phá các căn
cứ hậu cần để giảm mức độ
xâm nhập của CSBV. Năm
1967, mặc dù thực hiện chiến dịch Rolling
Thunder và tăng quân lên 425.000 nhưng CSBV không chịu
đàm phán, nên không có triển vọng kết thúc
chiến tranh. Sự
hiện diện binh sĩ Hoa Kỳ tại miền Nam và
các đợt không kích tại miền Bắc giúp cho
CSBV có lập luận mạnh hơn để thu
phục nhân tâm tại nông thôn cũng như các trí
thức cảnh tả phương Tây về việc
Hoa Kỳ xâm lăng VN, làm cho đấu tranh ngoại
vận của Hoa Kỳ và VNCH thêm khó khăn. Ba
là thành quả cuộc không kích Linebacker II của
Nixon, đến nay vẫn c̣n là một bí ẩn.
Tại sao Nixon không kéo dài oanh tạc trước
sự nguy cơ sụp đổ của CSBV? Chiến
thắng gần kề mà Nixon lại tạo cho CSBV cơ
hội đàm phán và mua thời gian là sai lầm. Có
quá nhiều cách giải thích về chuyện ngưng
không tập này. Dư
luận thế giới kết án Hoa Kỳ nặng
nề về mặt đạo đức và kêu
gọi ngưng oanh tạc. Đó không phải là lư do
chính mà Hoa Kỳ không tiếp tục không kích, mà là
v́ đă đạt được các mục tiêu.
Oanh tac và phong toả hải cảng thành công làm cho các
lực lưọng pḥng không BV phải thôi hoạt
động. Một
lập luận khác cho rằng CSBV thắng lớn; làm
Không Quân Hoa Kỳ thiệt hại nặng nề, nên
không thể tiếp tục. Thực ra, chỉ có 15
B-52 và 12 phi cơ chiến đấu bị bắn
hạ. Một lập luận khó thuyết phục. Một
nguồn tin khác cho là CSBV đầu hàng sau cuộc
oanh tạc này. Ten Gunderson, một nhân viên FBI tiết
lộ tin này và xác quyết là CIA nhẹm tin và đổi
các nhân viên phụ trách sang các nhiệm sở khác.
Theo ông, lư do của CIA là Hoa Kỳ đang trong
tiến tŕnh thương thuyết với Bắc kinh,
kết quả ngoại giao với Bắc Kinh quan trong hơn
là chiến thắng quân sự với Hà Nội.
Nguồn tin này khó kiểm chứng và vẫn c̣n nghi
ngờ. Dù
theo lối giải thích nào, th́ Nixon cũng tỏ ra kiên
quyết chống Cộng và có nỗ lực cuối cùng
tạo chiến thắng cho Hoa Kỳ và VNCH. Ba
lập luận này khó thuyết phục v́ mang giá
trị cảnh báo hoặc giải thích một sự
kiện đă rồi. Tại sao Kennedy không tiến hành
chiến dịch B́nh Đinh Nông Thôn và hành quân
bộ binh ngay lừ lúc đầu mà Johnson đă
phải làm về sau? Tại sao Johnson không tấn công
sang Campuchia và Lào như Nixon? Tại sao Johnson và Nixon luôn
lo sợ Trung Quốc và Nga Xô trực tiếp can
thiệp? Một kịch bản đă không xảy ra.
T́m các bằng chứng cho các lập luận này là
bất khả. Vấn
đề có thể sáng tỏ hơn nếu t́m
hiểu tại sao dân tộc Việt Nam và VNCH thua và
CSBV thắng. Tại
sao VNCH thua? Việt
Nam Hoá chiến tranh đ̣i hỏi điều kiện
đầu tiên là miền Nam phải có một chính
quyền ổn định mọi mặt, nhưng
tất cả c̣n đang trong thời xây dựng ban
đầu. Chính trị Việt Nam bất ổn liên
tục và t́nh trạng tiến thoái lưỡng nan
của chương tŕnh Việt Nam Hoá là hai nghịch
lư song hành: VNCH sẽ c̣n nắm quyền cho đến
khi nào c̣n được Hoa Kỳ ủng hộ, nhưng
khi VNCH c̣n tiếp tục nắm quyền th́ chương
tŕnh Việt Nam Hoá sẽ thất bại. Ngoài
vấn đề an ninh, những vấn đề
cấu trúc cơ bản của xă hội miền Nam
vẫn chưa giải quyết, đặc biệt
nhất là khiá cạnh chính danh cho chế độ.
Tổng Thống Thiệu thắng cử độc
diễn năm 1971 với 90% số phiếu ủng
hộ, nên không tạo uy tín lănh đạo. Bộ máy
hành chánh, cơ cấu quân đội và hệ
thống kinh tế chưa tạo ra được
một ư thức về quyền lợi quốc gia
đủ mạnh. Tinh thần của đa số dân
chúng là quá mệt mỏi v́ chiến tranh và không quan
tâm đến chính sự. Nhưng trầm trọng
nhất là vấn đề tham nhũng, đa số
mong biến thành quyền lợi cá nhân và gia đ́nh
khi đóng góp cho chế độ. Khi Việt Nam Hoá
chiến tranh cũng có nghiă là dân thành phố không c̣n
tiếp tục làm giàu qua cơ chế viện trợ
Mỹ; tinh thần ủng hộ cho chính quyền cũng
suy giảm theo Khả
năng và bản lĩnh của chính giới miền
Nam là khía cạnh quan trọng nhất. Đa số là
được Pháp đào tạo qua hai lĩnh vực
quân đội hay hành chánh, nay họ tiếp tục hành
sự trong tinh thần lệ thuộc viện trợ
Mỹ, nên không thể suy nghĩ độc
lập và đủ bản lĩnh t́m một lối
đi tương kế tựu kế cho đất nước
trong gọng kiềm của lịch sử. Thiểu
số liêm chính, có khả năng, tinh thần quốc
gia và kiên cường th́ không được chế
độ trọng dụng, nhất là có cơ hội
hợp tác với Mỹ. Cùng một hoàn cảnh đất
nước bị chia cắt mà các chính khách của Tây
Đức và Nam Hàn đem lại một số thí
dụ khác biệt. Tinh thần chiến đấu
của QLVNCH sẽ ra sao khi được tiếp
tục quân viện đầy đủ, hoặc không
bị lănh đạo bỏ chạy, vấn đề
đến nay c̣n gây nhiều tranh cải. Nhưng
tấm gương bất khuất và hào hùng của các
tướng lănh và chiến sĩ luôn được
hậu thế tri ân nhân ngày 30 tháng 4. Tại
sao CSBV thắng? Bất
ổn nội t́nh và truyền thông hỗn loạn
của Hoa Kỳ là các lư giải chính. CSBV
thua nặng trong chiến cuộc Mậu Thân nhưng
truyền thông Hoa Kỳ lầm lạc khi đề cao
khả năng chiến đấu. Qua màn ảnh
truyền h́nh người dân nghĩ rằng nguy cơ
cho miền Nam đă đến khi Công quân vào tận
đến Toà Đại Sứ Hoa Kỳ và các thành
phố lớn. Phạm vi hành động của Nixon càng
thu hẹp khi phải đề ra kế hoạch
tuần tự rút quân để thu phục cảm t́nh
của giới phản chiến. Thắng lợi trong
việc cảị thiện bang giao Nga - Hoa làm cho các
lo sợ của Hoa Kỳ phải trực tiếp đối
đầu không c̣n. Áp lực quốc tế giảm
đă đem lại một suy nghĩ mới:
Thuyết Domino không c̣n có giá trị thuyết phục
cho Hoa Kỳ phải tiếp tục kết ước
tại Việt Nam và Đông Nam Á. Cuối cùng,
hậu quả của Watergate là một bất hạnh
cho định mệnh chính trị của Nixon, nhưng
là một đại bất hạnh cho sinh mệnh toàn
dân miền Nam. Sách
lược đấu tranh và nội t́nh của CSBV cũng
mang lại các lư giải khác. Ư
chí xâm chiếm miền Nam là động cơ duy
nhất. So với các nước cùng cảnh ngộ
như Đông Đức và Bắc Hàn, hai nước
này không tiến hành đấu tranh giải phóng Tây
Đức và Nam Hàn đang bị Hoa Kỳ kiềm
kẹp. Đối
với dư luận quốc tế, CSBV đánh Đế
quốc Mỹ cho đến xương máu của người
Việt Nam cuối cùng thay cho Trung Quốc và Liên Xô,
đó là một lư tưởng cao cả như đến
nay mà họ c̣n hănh diện. Chính sách đu dây
ngoại giao của CSBV trong t́nh huống xung đột
Nga - Hoa là một thành công đặc biệt; không có
nguồn lực này, chiến thắng của CSBV là
chuyện không tưởng. Điểm đặc
biệt là, dù lệ thuộc nặng nề về
viện trợ vũ khí của khối CS, nhưng CSBV
lại hoàn toàn hành sử độc lập trong
mọi lĩnh vực hoạt động tác chiến,
không như VNCH bị lệ thuộc vào mọi sự
chỉ đạo cụ thể của Hoa Kỳ. Đối
với đồng bào, CSVN dùng chiêu bài giải phóng dân
tộc qua lư tưởng đấu tranh cách mạng,
chống bạo quyền miền Nam và giặc Mỹ xâm
lăng. Họ không có các lập luận kinh điển
nhằm bảo vệ công nhân bị bóc lột trong
một xă hội công nghiệp, mà sách động
quần chúng kết hợp đấu tranh chính
trị và quân sự như là một chiến lược
chung, đôi khi qua các liên hệ với thân nhân, đó
cũng là một cách ràng buộc để làm cho người
dân đi theo CS. Kết hợp uyển chuyển này làm
cho CSBV thành công trong mặt trận t́nh báo và nội
tuyến. Đối
với Đảng viên, nghệ thuật lănh đạo
của Đảng là đồng hoá vận mệnh
của ĐCSVN, dân tộc, cá nhân, gia đ́nh, tập
thể và xă hội, tất cà hoà nhập trong một
lư tưởng đấu tranh chung; nên tất cả
phải tuân phục kỷ luật và có tinh thần hy
sinh; mà cao cả nhất là được hy sinh cho
Đảng và tổ quốc, v́ đó là hạnh phúc
của con người. Kết quả của sự tuyên
truyền này là 1 triệu 1 thanh niên miền Bắc
nằm xuống, 300.000 mất tích và 600.000 bị thương
và thế hệ thanh niên miền Bắc cho chiến
dịch 1975 là thế hệ cuối cùng. Cơ
chế lănh đạo của ĐCSVN chặt chẽ nên
tạo ra một h́nh ảnh chung là đoàn kết,
nghiêm mật và kiên cường. Hồ Chí Minh
được thần thánh hoá là h́nh ảnh cao đẹp
của vị cha già dân tộc; sách vở phương
Tây cũng phụ hoạ theo lập luận này khi so
chiếu với Bảo Đại và Ngô Đ́nh
Diệm. Ngày nay, vô số tư liệu cho thấy
nội bộ của ĐCSVN thanh toán nhau đẩm máu
để tranh giành quyền lực, nên chuyện hèn
với giặc và ác với dân không c̣n gây ngạc
nhiên. Thần tượng sụp đổ khi đời
tư và công của Bác Hồ được phơi bày.
Bác Hồ nào đă chết trong quên lăng vào năm
1932 và c̣n Bác Hồ nào c̣n được tiếp
tục sùng bái trong lăng Ba Đ́nh, các sử gia
thiếu can đảm làm sang tỏ. Tại
sao dân tộc Việt Nam thua? Toàn
dân phải trả một cái giá quá mắc cho
chiến thắng của ĐCSVN là v́ có khoảng hơn
1,5 triệu cho đến 2 triệu người
chết và 300.000 người mất tích. Người
dân Miền Bắc thua mà không biết, v́ lư tưởng
cao đẹp bị lừa dối. Đau xót nhất
là những người nằm xuống, không c̣n có cơ
hội biết đưọc sự thật về ư
nghiă của cuộc chiến tranh giải phóng. Người
dân miền Nam biết mà vẫn thua, v́ không tránh
khỏi các biện pháp tiến nhanh, tiến mạnh lên
XHCN; nông dân thua v́ bị tập thể hoá nông
nghiệp; doanh nhân thua v́ bị cải tạo tư
sản; dân thành phố thua v́ phải đi xây khu kinh
tế mới; trí thức thua v́ chiến dịch bài
trừ văn hoá Mỹ Ngụy; thảm kịch
học tập cải tạo và thuyền nhân là hai thí
dụ bi thương của phe thua cuộc. Binh
sĩ thua v́ là nạn nhân của một chính sách sai
lầm và c̣n chịu thêm hai cuộc chiến tranh biên
giới Tây Nam và Trung Việt; người nằm
xuống không được tưởng niệm và người
c̣n sống không được ghi công. Thế
hệ hậu chiến thua v́ không có kiến thức
về lịch sử đấu tranh của dân
tộc, sách về chiến tranh chống Mỹ bị
bóp méo và chiến tranh Trung Việt ghi lại có 11 ḍng
để truyền lại cho hậu thế. Đa
số không được học tập các giá
trị dân chủ, nên vô cảm trước các chính
sự trong nước và chính biến ngoài nước.
Cuối
cùng, những người thành tâm hoà giải quốc
gia và hoà hợp dân tộc cũng thua, v́ không có
chổ đứng trong ḷng dân tộc. Dân
tộc Việt c̣n thua đến bao giờ và làm gi?
Không
ai biết rơ c̣n bao lâu nửa và phải làm ǵ cụ
thể để thay đổi. Có c̣n chăng là
sự tỉnh thức trong chúng ta. Đó là một
khả năng tự soi sáng và tự quyết
định về vận mệnh của đất
nước mà toàn dân Đông Âu là một thí dụ.
Tỉnh thức thân phận là vấn đề
kiến thức; xác định ư muốn để
thay đổi là vấn đề quyết tâm.
Nếu c̣n sống trong vô cảm, mang tâm trạng nô
lệ tự nguyện hay c̣n Đảng c̣n ḿnh và
chờ đợi hạnh phúc giả tạo do Đảng,
Trung Quốc, Hoa Kỳ và cộng đồng quốc
tế ban phát, th́ người dân sẽ c̣n tiếp
tục thua trong đau khổ. Không ai có phép lạ
để chuyển hoá đất nước thay cho chúng
ta. Vấn đề là sự chọn lựa. Chúng
ta cùng giúp nhau tỉnh thức trong t́nh tự dân
tộc là một hy vọng khởi đầu: Đất
nước đang nguy cơ hơn bao giờ hết,
sức mạnh của toàn dân sẽ đem lại
giải pháp và quyền dân tộc tự quyết là
phương tiện. May ra một phép lạ nào đó
cho đất nước sẽ đến sau. *
Dr. Đỗ Kim Thêm: Non Governmental Advisor of
International Competition Network (ICN), Research Associate at United
Nations Conference on Trade and Development (UNCTAD). Bài viết là
ư kiến cá nhân và không phải là quan điểm
của ICN và UNCTAD. |