Nước
Mỹ bỏ rơi miền Nam? Trọng Đạt |
Ai bỏ
rơi miền Nam Cách đây
khoảng hơn chục năm tôi có đọc một
bài nói về những người dân thiểu số Lào
đi lính biệt kích cho Mỹ bị bỏ lại sau
năm 1975. Họ phải sống trốn chui trốn
nhủi trong rừng với vợ con, một tập
thể gồm cả đàn bà trẻ nít rất đáng
thương và không lối thoát. Họ vẫn bị
Cộng Sản Lào truy đuổi khốn khổ mà
vẫn phải sống, phải chiến đấu
bằng những khẩu súng cũ mà người
Mỹ trang bị cho họ. Không phải riêng
nhóm người này bị bỏ rơi mà miền Nam VN
và cả Đông Dương bị người Mỹ rút
quân bỏ họ lại cho CS trả thù, biết trước
là những người cộng tác với Mỹ sẽ
bị trả thù nhưng vẫn bỏ lại. Nhưng nếu nói
Mỹ bỏ đồng minh th́ cũng rất mơ
hồ v́ nước Mỹ có hai chính đảng
Cộng Ḥa và Dân Chủ hay nói khác đi Bảo
Thủ và Cấp Tiến. Hai đảng chủ trương
hoàn toàn khác nhau y như mặt trăng với mặt
trời, bên này bảo thủ, giữ những nền
nếp cũ thí dụ cấm phá thai, trong khi bên kia
cấp tiến chủ trương cho phá thai. Người
dân muốn có cả hai đảng để dung ḥa
mọi vấn đề xă hội cũng như chính
trị, văn hóa. Trên thực tế người dân không
phân biệt Cộng Ḥa hay Dân Chủ, đảng nào có
lợi cho đất nước, đưa nước
Mỹ tới chỗ cường thịnh th́ bọ
bầu lên. Người dân Mỹ thường bầu
cho mỗi đảng làm hai nhiệm kỳ xen kẽ
nhau v́ họ sợ độc tài, trừ trường
hợp đặc biệt một đảng được
làm ba nhiệm kỳ. Trong thời kỳ
Chiến tranh Việt Nam từ năm 1960 tới 1974 phe Dân
Chủ luôn nắm ưu thế Quốc Hội dù bên nào
nắm giữ Hành Pháp (Theo Wikipedia) Từ 1960-1964
thời TT Kennedy, Dân Chủ vừa giữ Hành Pháp và
60% Hạ Viện (262 ghế), 64% Thượng Viện
(64 ghế). Từ 1964 tới
1968 thời TT Johnson họ giữ 67% Hạ Viện (295
ghế) và 68% Thượng Viện Thời TT Nixon (1969)
mặc dù Cộng Ḥa giữ Hành Pháp nhưng Dân
Chủ vẫn giữ ưu thế tại Lưỡng
Viện Quốc Hội: 1969- 70, Dân Chủ
giữ 55% Hạ Viện (243 ghế) và 57% Thượng
Viện 1970-72, Dân Chủ 55
% Hạ Viện (242 ghế), 56% Thượng Viện 1974-76, Dân Chủ
giữ 66% Hạ Viện (291 ghế) và 61% Thượng
Viện Họ chiếm
ưu thế tại Quốc Hội có nghĩa là họ
giữ túi tiền, họ có thể cắt viện
trợ cho nước ngoài hoặc ra Luật Chấm
dứt chiến tranh, đem quân về nước T́nh h́nh ngày càng
bất lợi cho Cộng Ḥa và Đông Dương, TT
Nixon Cộng Ḥa muốn giữ Đông Dương ít
nhất trong hai nhiệm kỳ của ông. Trước
sự đ̣i hỏi của nhóm Phản Chiến đ̣i
rút bỏ Đông Dương, ông theo yêu cầu của
họ nhưng cho đánh sang hậu cần CSBV tại
Miên, Lào để chúng suy yếu, khi Mỹ rút quân
đi họ sẽ không tấn công chiếm miền Nam
được. Trong khi ấy Dân
Chủ có chính sách ngược lại, họ chủ trương
rút bỏ Đông Dương. Nixon chủ trương rút
quân về nước, kư kết Hiệp Định và
thực hiện Ḥa B́nh trong Danh Dự, Dân Chủ
muốn vứt bỏ Đông Dương cho rảnh
chuyện. Trong cả hai lần tranh cử Tổng
Thống 1968 và 1972 Dân Chù đều muốn vứt
bỏ và cả hai lần người dân Mỹ
muốn rút khỏi Đông Dương thực hiện
Ḥa B́nh trong Danh Dự, họ đều bỏ phiếu
cho Nixon. Kissinger nói khi Nixon
nhậm chức vào Ṭa Bạch Ốc năm 1969, Dân
Chủ trước đây đă can thiệp vào
Việt Nam, nay họ trung lập giữa Hành Pháp (CH) và
Phản Chiến, sau ngả theo Phản Chiến, họ
kết án ông Nixon không theo giải pháp này, giải pháp
nọ để giải quyết cuộc chiến mà chính
họ đă gây nên, chính họ đă không giải
quyết được (1). Năm 1965, 66.. TT
Johnson đưa quân vào để cứu miền Nam
đang bị CSBV tấn công mạnh có nguy cơ
sụp đổ, họ chiến đấu cho chính
họ v́ cái tương quan “môi hở răng
lạnh”. Nếu mất Việt Nam sẽ mất Đông
Dương, Thái Lan, Miến Điện, Mă Lai, Singapore..
như trong ván bài Domino, hồi đó họ tin
vào thuyết Domino. Tuy nhiên Johnson sai lầm ở chỗ
không thực hiện VN hóa chiến tranh ngay từ 1965,
66, không đánh mạnh ngoài Bắc cũng như trong
Nam mà chỉ cho đánh giới hạn v́ sợ đụng
tới Nga, Trung Cộng. Ông thực hiện Chiến
tranh giới hạn, Limited war .. nên đă kéo dài
chiến tranh khiến phong trào chống đối lên
cao. Sau trận Mậu
Thân năm 1968 cuộc chiến Đông Dương coi như
vứt bỏ, không c̣n cách nào hàn gắn được,
tất cả trách nhiệm đều do ở TT Johnson.
Năm 1968 ông không ra tranh cử nhiệm kỳ hai và nhường
cho Phó TT Humphrey v́ biết trước sẽ chẳng có
ai bỏ phiếu cho ḿnh. Nhưng một ḿnh
Dân Chủ không thể khuynh loát được Hành Pháp
Cộng Ḥa, họ kết hợp với Phản
chiến, Truyền Thông để tạo một sức
mạnh ḥng có thể đánh đổ Cộng Ḥa cũng
như kiếm được ḷng tin cậy của người
dân Mỹ. Năm 1965, 66 truyền thông nói chung ủng
hộ chính phủ, họ ca ngợi cuộc chiến
chống Cộng Sản, ca ngợi người lính
Mỹ nhưng dần dần họ thu lượm
những chiến sự tàn bạo ngoài mặt trận
đem về chiếu cho người dân xem để bán
được nhiều tiền. Một vị GS
Canada có nói “Truyền h́nh
đă mang những cảnh chiến tranh tàn bạo
tới căn pḥng khách ấm cúng. Việt Nam thua
từ trong những căn pḥng ấm cúng ở Hoa
Kỳ chứ không phải tại mặt trận bên
Việt Nam” (The Media: Vietnam war
– Vietnamwar.net) Năm 2000, TT Bill
Clinton viếng thăm Việt Nam, báo Dallas Morning New
đăng h́nh ông duyệt hàng quân danh dự của
CSVN tại Hà Nội và viết: “TT Clinton duyệt
đội quân danh dự của Quân đội Nhân dân
VN, quân đội duy nhất trên thế giới đánh
bại Hoa kỳ” (The only army in the
world defeated the United States of America). Người
viết bài này bênh vực cho bọn chủ trương
bỏ miền Nam, tác giả muốn nói do VC nó mạnh
quá nên nước Mỹ bại trận. Sự thực
phần lớn Mỹ thua trận v́ cái máy Truyền h́nh,
lần đầu tiên những cảnh bắn giết hăi
hùng đă được đưa tới pḥng khách
ấm cúng từ chiến trường VN, người dân
Mỹ có thể coi những cảnh làng mạc bị
đốt, trẻ em chết cháy, những túi xác lính
Mỹ đưa về nước. Họ chỉ
chiếu những cảnh nói về tàn sát Mỹ Lai,
trong khi những cuộc tàn sát kinh hoàng của Cộng
quận tại Huế, tại đại lộ Kinh Hoàng
th́ không nói tới. Năm 1950 trong cuộc chiến tranh
Triều Tiên chỉ 9% dân chúng có TV, trong cuộc
chiến tranh VN năm 1966 số người có TV tăng
lên 93%. Theo một cuộc
thăm ḍ của viện Louis Harris thực hiện năm
1979, khoảng 60% cựu chiến binh cho rằng
truyền h́nh không nói đúng sự thật. Ngoài ra hơn
hai phần ba các cựu chiến binh cho rằng những
bản tin về Mỹ Lai ảnh hưởng tới
quan niệm quần chúng về h́nh ảnh người
cựu chiến binh. Theo ư kiến các
cựu chiến binh các phóng viên, nhà sản xuất tin
tức xuyên tạc sự thật, chỉ nói tới
vụ tàn sát Mỹ Lai mà không đề cập tới
những tội ác của CSBV. Họ chỉ nói tới
những hành động tàn ác của một thiểu
số lính Mỹ mà không đề cập tới
những cái tốt của lính Mỹ như đă giúp
đỡ người dân quê VN về nhiều phương
diện. Họ chủ trương tạo những tin
giật gân để gây chú ư ḥng thủ lợi. Trận Tết
Mậu Thân 1968 là sự thất bại lớn của
Cộng quân, tại các thành phố lớn số
tử của họ là mười đổi một,
nhiều cán binh vào Sài G̣n ngơ ngác lạc đường
bị tóm cổ nhưng dưới sự mô tả láo
khoét của Truyền Thông Mỹ th́ đó lại là
thắng lợi lớn lao của CS. H́nh ảnh Đại
tá Loan, Tổng giám đốc Cảnh Sát đă cầm
súng lục bắn vào đầu tên tù binh Việt
Cộng khiến cho dư luận chống chiến tranh
có cớ la ó lên dă man, vô nhân đạo. Năm 1968 Nixon đắc
cử Tổng Thống, ông nhậm chức 1969 nhưng
không có quyền quyết định mấy về
Hiệp Định Paris, các vị chức sắc
tại Quốc Hội Dân Chủ buộc ông phải kư
Hiệp Định trễ nhất là tháng 1/1973. Họ
luôn đe dọa ra Luật Chấm dứt Chiến
tranh, rút quân về nước để đổi
lấy 580 tù binh Mỹ (2).
Nixon đă không có quyền hành th́ thử hỏi
Kissinger lấy quyền ở đâu? ông này chỉ là
tay sai đắc lực của Nixon, trong White House Years,
Kissinger kể lại tại Ḥa đàm Paris, cứ ba ngày
phải báo cáo cho Tổng Thống một
lần để xin ư kiến. Theo lời Kissinger sáu
tháng sau khi Hiệp Định Paris được kư
kết, Quốc Hội Dân Chủ cắt giảm quân
viện cho VNCH tới xương tủy: Tài Khóa 1973 là
2 tỷ, năm 1974 chỉ c̣n 1 tỷ, năm 1975 c̣n 700
triệu. (3). Quốc Hội
muốn trói tay Hành Pháp, khi Tu chính án Luật cấm
oanh tạc Đông Dương tŕnh lên TT Nixon, ông
phủ quyết (veto) và cho biết sẽ không yêu
cầu CSBV rút khỏi Miên được. Quốc
Hội giận dữ, TNS Mansfield hăm dọa Tổng
Thống sẽ không có ngân khoản để điều
hành Chính phủ “Nếu Tổng
Thống không muốn ngưng oanh tạc tại Miên coi
như ông không muốn Chính phủ hoạt động,
Tổng Thống sẽ phải chịu trách nhiệm” (4). Cuối cùng ông
phải đồng ư, không thể làm ǵ khác. Phe
phản chiến đa số tại Quốc Hội
muốn Nixon phải làm theo ư họ. Ngày 30 tháng 6 (1973),
TT Nixon kư thành luật Chấm dứt oanh tạc. Tu Chính
Án nói: “Từ nay sẽ
không có ngân khoản nào để yểm trợ
trực tiếp hay gián tiếp các hoạt động chiến
đấu của Quân lực Mỹ tại tại Miên,
Lào, Bắc Việt và Nam Việt hoặc ngoài khơi Miên,
Lào, Bắc Việt, Nam Việt, và sau ngày 15 tháng 8 năm
1973, sẽ không có ngân khoản nào khác xử dụng
cho mục đích này” (No
More Vietnams trang180) Một biến
cố lớn của Cuộc chiến là TT Nixon bị
lật đổ v́ vụ Watergate ngày 8/8/1974. Dân
Chủ lấy cớ ông ta nghe lén để dứt
bỏ mối hiểm họa Nixon có thể liều lĩnh
oanh tạc như tháng 12 năm 1972. Tội nghe lén cũng
chẳng có ǵ lớn lao, chính TT Dân Chủ Johnson đă
từng nghe lén Nixon xúi dục ông Nguyễn Văn
Thiệu không tham dự ngày khai mạc Ḥa đàm Ba Lê 10/5/1969.
Ông Nguyễn Tiến Hưng, Trần Đông Phong đều
đă nói thế, phim The Vietnam War và cả trên Wikipedia cũng
nói vậy. Sở dĩ Cộng Ḥa không truy tố hay thưa
kiện v́ chuyện chẳng đáng làm vả lại
Johnson chỉ là một Tổng Thống vịt què
thất bại, lật đổ một anh vịt què
thật chẳng đáng làm. Chúng ta chú ư
một chuyện diễu khôi hài hết chỗ nói, Hoa
Kỳ đưa trước 400 triệu c̣n lại 300
triệu họ chưa đưa và cho các Dân Biếu
Mỹ sang Sài G̣n thăm hỏi nhân dân xem có thực
sự cần 300 triệu hay không trong khi miền Nam
bị Cộng quân tấn công dở sống dở
chết, cuối cùng họ không đưa nốt
lấy lư do đưa rồi cũng thua! Quyết định
cắt giảm đưa tới t́nh trạng thê
thảm, theo ông Cao Văn Viên hậu quả là
năm 1974 không quân đă phải cho hơn 200 phi cơ
ngưng bay v́ thiếu nhiên liệu, giảm số
giờ bay yểm trợ, huấn luyện 50%, thám thính
giảm 58%, phi vụ trực thăng giảm 70%. Hải
quân cũng cắt giảm hoạt động 50%, 600
giang thuyền các loại nằm ụ (5) Đạn dược
chỉ c̣n đủ đánh tới tháng 4 /1975, năm
1972 ta xử dụng trên 69 ngàn tấn đạn
một tháng, từ tháng 7/1974 đến tháng 3/1975 ta
chỉ c̣n xử dụng khoảng 19 ngàn tấn một
tháng hoả lực giảm 70%. Tháng 2/1975 chỉ c̣n
đủ đạn tất cả các loại súng cho 30
ngày, tháng 4/1975 chỉ c̣n đủ đạn đánh
trong khoảng hai tuần (Sách đă dẫn trang 92). Trung
Tướng Trần Văn Minh, cựu Tư lệnh không
quân cho biết máy bay thiếu cơ phận thay thế,
thiếu nhiên liệu cất cánh nên phần nhiều năm
ụ. Trong khi ấy theo
Kissinger (6)
Hà Nội đă xin được viện trợ
của Sô viết tăng gấp bội. Tháng 12/1974,
một viên chức cao cấp Nga viếng Hà Nội
lần đầu tiên kể từ sau ngày kư Hiệp
định Paris, Tổng tham mưu trưởng Nga Viktor
Kulikov tới tham dự họp chiến lược
với Bộ chính trị BV, nay họ băi bỏ hạn
chế trước đây. Sô Viết đă chở vũ
khí viện trợ quân sự cho Hà Nội tăng
gấp 4 lần trong những tháng sau đó. Cả hai miền
Nam Bắc chỉ trông cậy vào vũ khí đạn dược
của ngoại quốc như Nga, Trung Cộng và
Mỹ, trong khi Nga, Trung Cộng tăng cường
viện trợ cho CSBV, Mỹ cắt viện trợ cho
VNCH tới xương tủy thế mà tác giả
Issacson c̣n nói: Miền Nam chỉ dựa vào quân đội
Mỹ, khi Mỹ rút đi th́ sụp đổ chẳng
lẽ thanh niên của chúng ta cứ phải bảo
vệ cho họ suốt đời !!! Vài
nhận xét Dân Chủ bỏ
miền nam VN ai cũng thấy cả và họ luôn có
những c̣ mồi bào chữa cho ḿnh, đổ lỗi
lên đầu Kissinger, Nixon. Trước hết phải
kể Frank Snepp với cuốn sách nổi tiếng Decent
Interval, Khoảng Cách Vừa Đủ, cuốn sách này
đă được Việt Cộng dịch ra
tiếng Việt chắc quí vị đă biết. Theo
Frank Snepp th́ Kissinger và Nixon đă kư Hiệp Định
Paris với Bắc Việt, tạo một khoảng cách
vừa đủ để miền Nam sụp đổ
dần dần khoảng 1, 2 năm sau Hiệp Định.
Nhưng Nixon bị Dân Chủ đàn hặc, truất
phế v́ Watergate khiến ông phải từ chức ngày
8/8/1974 th́ c̣n quyền hành ǵ để bỏ miền
Nam? Kissinger chỉ là tay sai đắc lực của
Nixon quyền hành ở chỗ nào mà bỏ miền Nam? Tôi đă viết
một bài về đề tài này “BBC: Frank Snepp
giải thích Hoa Kỳ đă ‘bỏ rơi’ Việt
Nam Cộng ḥa như thế nào” xin đề cập
một tác giả khác. Walter Issacson trong
cuốn Kissinger, A Biography nhà xuất bản Simon &
Schuster năm 1992, tác giả bỏ ra gần 700 trang
giấy để viết về Kissinger một phụ tá
đắc lực của TT Nixon cho thấy sự không cân
bằng. Tác giả đă khoác cho Kissinger một vai tṛ
lớn mà thực ra chính ông ta kể lại th́ ông
chẳng là cái ǵ của Nixon. Trong cuốn White House
Years, Phần thứ XXXIII, Peace Is at Hand và Peace at Last
ở cuối sách (trang 1395 tới trang 1476), Kissinger
kể về Ḥa Đàm Paris giai đọan cuối, ông
nói vài ngày phải báo cáo cho Tổng Thống một
lần để xin ư kiến, Nixon giám sát chặt
chẽ Ḥa Đàm, thế mà người ta vẫn
cứ tưởng Hiệp Định Paris là tác
phẩm của Kissinger! Dễ ǵ Kissinger qua mặt
được một Tổng Thống cáo già như
Nixon! Trong cuốn biên
khảo này, phần đầu Issacson nói về Kissinger
và Nixon nhậm chức tại Ṭa Bạch Ốc và Ḥa
Đàm Paris, trong nhận xét của Walter Issacson về
Hiệp Định ông ta có nói ở trang 484 như
thế này “But was it worth four
more years of war in order to get a cease-fire that allow Thieu to retain
authority in Saigon?” “Có đáng giá cho
ta kéo dài chiến tranh thêm bốn năm nữa để
đạt ngưng bắn và để Thiệu giữ
được Chính quyền tại Sài G̣n” Đó chính là
giọng của Con Lừa, muốn vứt bỏ
miền Nam ngay cho đỡ phức tạp. Theo Walter Hiệp
Định tháng 1/1973 cũng giống như Hiệp
Định do VC đưa ra 1969: Chương tŕnh mười
điểm, ông ta nói Sự thương thuyết đă
trả giá, làm chết thêm 20,552 lính Mỹ, Chính
phủ Nixon gây tai tiếng xấu cho nước Mỹ.
Hiệp Định chỉ kéo dài hai năm, sau đó CS
chiếm hết, Thiệu bỏ chạy, đó chỉ là
sự cố gắng vô nghĩa. Nhưng ai cắt
viện trợ tới xương tủy để
miền Nam không c̣n sức kháng cự? Có khi nào Dân
Chủ ngưng tay phá hoại không? Có khi nào họ
để yên cho TT Nixon làm việc hay không? Trang 488 Walter nói
nếu dân miền Nam VN và chế độ sộc
sệch của họ không đủ sức tự
vệ sau tám năm được Mỹ yểm trợ
to tát, nếu họ không đủ sức chống
lại BV mà không có thanh niên Mỹ hy sinh cho họ măi măi,
như vậy có đáng để ta hy sinh hay không? Quân đội VNCH
có trên 200 ngàn lính đă tử trận, chẳng lẽ
miền Nam VN nhờ xương máu của 58 ngàn lính
Mỹ mới tồn tại? Giọng Walter
Issacson chính là giọng của Con Lừa Trang 485 ông ta nói
tại Nixon và Kissinger phải thảo luận với
Quốc Hội Để lấy sự ủng hộ
của QH và trong nước! diễu hết chỗ nói,
một QH Dân Chủ xỏ lá ba que chuyên phá đám mà
ủng hộ ai. Tướng Weyand
đi nghiên cứu t́nh h́nh VN trở về mồng
3/4/1975, ông đề nghị TT Ford cho oanh tạc B-52 và
xin viện trợ khẩn cấp 722 triệu cho quân
đội VNCH gồm 440 xe tăng, 740 đại bác,
100,000 súng cá nhân và 120,000 tấn đạn. (trang 640) Trong chương
cuối Miền Nam sụp đổ tháng 4/1975, The Fall of
Vietnam april /1975, Walter cho biết Kissinger nói “sao bọn
(VN) chúng không chết quách cho rồi” và rồi khi TT
Ford ra Quốc Hội xin 722 triệu khẩn cấp
Kissinger lại nhiệt thành ủng hộ, ông ta đă
soạn diễn văn cho Tổng Thống chỉ trích
Quốc Hội không chịu giữ uy tín cho nước
Mỹ nhưng Ford giảm bớt những lời
Kissinger chống Quốc Hội khiến sau này Kissinger cáu
um lên và ông vẫn nhiệt t́nh với miền Nam cho
tới giờ phút chót. Hôm 10 tháng 4 Ford ra
trước Quốc Hội để xin 722 triệu
viện trợ khẩn cấp, nhưng là một
Tổng Thống bù nh́n không do dân bầu, một nhà lănh
đạo tồi tệ nhất nước Mỹ, ông
chỉ xin cho có lệ. Kissinger soạn diễn văn cho
TT Ford nguyên văn. “Mỹ không
muốn cung cấp viện trợ đầy đủ
cho đồng minh của ta chiến đấu tự
vệ sẽ ảnh hưởng trầm trọng uy tín
của ta trên thế giới như một đồng
minh và chữ tín này là cơ bản cho an ninh của chúng
ta” Nhưng TT Ford
bỏ bớt câu này nhờ Chánh văn pḥng Hartmann
viết dùm khiến sau này Kissinger căi cọ ầm ĩ,
ông tin là với 722 triệu có thể soay sở
được t́nh thế . (trang 643) Ngày 24/4 TT Ford
tới Đại Học Tulane, Lousiana trước
mặt 6,000 sinh viên ông nói “The war is over”, lời nói
chậm và dài, nước Mỹ không thể chiến
đấu trở lại cái đă chấm dứt liên
hệ tới Mỹ. Đám đông sinh viên reo ḥ
ầm ĩ, sung sướng đập bàn ghế, ôm
nhau nhẩy la hét…khi biết chiến tranh VN không c̣n
với Mỹ, nghĩa là họ không phải ra trận,
không phải bỏ xác nơi chiến địa. Đó là sai lầm
lớn nhất trong lịch sử Mỹ của TT
Johnson, đáng lư ra phải Viêt nam hóa chiến tranh ngay
từ độ ấy những năm 1965, 66. Một anh
nhà nghèo không sợ chết đánh nhau với một
anh nhà giầu đêm ngày chỉ lo sợ phải ra
chiến trận. Lê Duẩn tỏ ra
am hiểu tâm lư người Mỹ khi ông ta chấp
nhận thí quân, hy sinh 15 hay 20 cán binh để giết
một người lính Mỹ ngơ hầu đẩy
mạnh phong trào phản chiến, v́ thế mà MƯỜI
người bộ đội lên đường vào Nam
chỉ có MỘT người trở về. Sau đây là
lời tác giả nói về TT Ford và Kissinger: (trang 644) “Kissinger muốn
đổ lỗi, chỉ trích lên án Quốc Hội có
thể Logic nhưng không c̣n hợp thời. Điều
bổ ích nhất cho nước Mỹ cần làm, cho tâm
lư trong nước và ngay cả uy tín với ngoại
quốc ấy là để Chiến tranh Việt Nam
ở lại sau lưng The healthiest thing for
America to do, both for its own domestic pychology and even for its
credibility abroad, was to put The VietNam War behind. Nhiều năm sau
Ford nói Kissinger không
muốn câu của Ford “chiến tranh VN đă qua”.
Kissinger muốn xin thêm viện trợ và đổ
lỗi cho Quốc Hội, tôi cũng vậy. Nhưng tôi
đă ở Quốc Hội 25 năm, tôi không nghĩ
họ (QH) sẽ chấp thuận, đó là điều
tôi và Kissinger không đồng ư, và tôi đúng,
tôi biết hệ thống này hơn Kissinger (trang 645, 646). Sau chiến tranh
Kissinger viết lần đầu tiên trong thời
hậu chiến Hoa Kỳ bỏ rơi một dân
tộc ḥa b́nh tin tưởng chúng ta cho chế độ
CS lâu dài (Ameria abandoned to
eventual Communist rule a friendly people who had relied on us) Trang 647 Walter
viết: Việt Nam cuối cùng đă mất năm 1975
nó thể hiện cú đấm vào Uy tín của Mỹ,
nó phá hỏng những lời đe dọa và hứa
hẹn của Mỹ trên thế giới. Kissinger nói: “v́
tính tự khoan dung cho ḿnh, nước Mỹ đă phá
hỏng cơ bản tự do khắp nơi (By our
self-indulgence, he said, we dammaged the frabric of freedom everywhere) Kissinger nói: Đông
Dương đầu hàng đă mở ra một
thời kỳ ô nhục cho nước Mỹ, nó đă
kéo dài từ Angola tới Ethiopia, tới Iran tới A
Phú Hăn. (The surrender in
Indochina, he said usherd in a period of American humiliation that stretched
from Angola to Ethiopia to Iran to Afghanistan) Issacson dù sao cũng
nh́n nhận Hoa Kỳ bị mất uy tín: Trang 648 ông ta
viết lư luận về chữ uy tín trở thành
phức tạp, ông thể phủ nhận rằng uy tín
của Quốc gia trong việc giữ lời hứa và
chống lại kẻ địch đă có ảnh hưởng
trên thế giới như Kissnger đă lư luận Walter Issacson nhận
định TT Gerald Ford, sau này ông khen Kissinger nhưng nói
Kissinger không muốn tôi nói câu Chiến tranh đă
chấm dứt, Henry muốn chiến đấu để
xin thêm viện trợ và Henry chê trách Quốc Hội
…The line about the war being finished, Henry didn’t like that sentence,
Ford said, I knew he want to keep fighting for more aid and that he blame
Congress” Kissinger và Nixon sau này
đều đổ lỗi cho Watergate (trang 487) Kissinger nói: nhưng
sự sụp đổ của Hành Pháp chỉ là
hậu quả của vụ Watergate, tôi tin đáng
lẽ ta đă thành công (but for the collapse of Executive
authority as a result of Watergate, I beleive we would have succeeded) Nixon cũng nói: Nếu
tôi c̣n tại chức, tôi nghĩ ta có thể xúc
tiến Hiệp Định được, nam VN vẫn
có thể tồn tại như một nước không
CS (Had I survived, said Nixon, I think that it would have been possible to
have implemented The Agreement. South Vietnam would still be a viable
noncommunist enclave) Nhưng tác giả
Walter Issacson nói (trang 487) một khi Mỹ đă t́m
đường thoát ra khỏi VN, cả Quốc Hội
và người dân đă không cho phép sự tái
chiến, dù có hay không có vụ Watergate. Thực ra ông này nói
sai, Quốc Hội Dân Chủ t́m đường ra
chứ không phải người dân, họ bịp
bợm người dân bằng Truyền thông láo khoét:
Trận Mậu Thân 1968, bọn Việt Cộng mất
gần hết chủ lực quân. Trong số 84 ngàn quân
đưa vào trận đánh chúng bị thiệt
hại 58 ngàn người, 10 ngàn bị tóm cổ,
chỉ có một số ít chạy thoát, cơ sở
nằm vùng bị bại lộ… nhưng bọn báo,
đài Mỹ đă loan tin bịp bợm tại nước
Mỹ, chúng nói VC thắng lớn khiến những
cuộc biểu t́nh của Phản chiến dữ
dội đă sẩy ra, chúng đ̣i chính phủ
phải ra khỏi cuộc chiến ngay. Nay năm 2022, t́nh h́nh
chiến sự Ukraine xa lơ xa lắc không ảnh hưởng
tới Mỹ là mấy nhưng chính phủ Mỹ
đưa ra Hạ Viện xin một số tiền
khổng lồ viện trợ 40 tỷ cho đất nước
này để họ đẩy lui cuộc xâm lược
của Nga. Cũng lại đảng Dân Chủ 2022
nắm ưu thế Quốc Hội như Dân Chủ
1975 trong Cuộc chiến VN, nhưng trái ngược
với Dân Chủ 1975 khi tại Quốc Hội Mỹ
Tổng Thống Gerald Ford xin 722 triệu viện trợ
khẩn cấp cho miền Nam th́ họ dè bửu, khinh
bỉ, có người bỏ ra ngoài pḥng họp. Khi xin
viện trợ để cứu với người
tỵ nạn Đông Dương th́ có hai vị dân
biểu nói quyết không cho một tên tỵ nạn VN
nào vào Mỹ! Họ giúp miền
Nam chống CS v́ tương quan “môi hở răng
lạnh”, mất miền Nam sẽ mất Đông Nam Á
như trong ván bài dominoes, nay họ giúp quân viện 40
tỷ cho Ukraine v́ bầu cử, những cuộc
bầu cử sắp tới 2022, 2024 sẽ quyết
định vận mạng Cộng Ḥa hay Dân Chủ. Một ḿnh Dân
Chủ không đủ sức mạnh để uy
hiếp đối lập và bỏ rơi Đông Dương,
họ phải kết hợp Truyền Thông và Phản
chiến. Ngay từ thời Chiến tranh VN, đám đông
thầm lặng, Great Silent Majority vẫn ủng hộ
cuộc chiến, trong phim The Vietnam War, quay năm 2017,
tập 8 The History of The World (4/1969-5/197). Trong một
cuộc biểu t́nh tại Manhattan, hàng trăm công nhân
xây cất đang làm việc, họ ngừng tay lấy
dụng cụ, gậy gộc đập bọn sinh viên
tơi bời khiến 70 anh què chân, gẫy tay phải vào
nhà thương. TT Nixon gửi thư cho nghiệp đoàn
nói ông rất vui được biết người dân
ủng hộ ông để bảo vệ đất nước
và thù ghét bọn phá rối sinh viên. Trong The White House
years của Kissinger cũng nói về đoạn đám
sinh viên biểu t́nh gây rối bị thợ xây cất
cho ăn đ̣n. Ngày nay Phản
Chiến bị xếp vào loại Phản Quốc, Jane
Fonda bây giờ đi xin lỗi trối chết, trong
cuộc tranh cử Tổng Thống năm 2004 giữa
Bush con (CH) và John Kerry (DC), cử tri không bỏ phiếu
cho John Kerry v́ trong thời kỳ Chiến tranh VN, ông
thuộc nhóm Phản chiến, ông đă ném trả huy
chương tại Quốc Hội. Sở dĩ người
ta không bầu cho Kerry làm Tổng Thống v́ ông không
đủ tư cách làm Tổng Tư Lệnh Quân đội. Truyền Thông bây
giờ cũng khó lường gạt dân như xưa,
nhiều hăng truyền h́nh, báo giấy lỗ vốn v́
ít người xem, người đọc. Truyền thông
nay nói láo c̣n hơn Việt Cộng, người dân
biết cái tẩy của Truyền thông, nay Dân Chủ
cũng kết hợp Truyền Thông như trên nhưng
không thành công mấy. Vấn đề
đặt ra là bỏ miền Nam VN và cả Đông Dương
có ảnh hưởng ǵ đến uy tín nước
Mỹ hay không? Năm 1944, 45 Mỹ nhường Đông
Âu cho Nga để nhờ Nga phụ giúp một tay đánh
quân Nhật. Cái nẩy nó sẩy cái ung, khi Nga đánh
Lộ Quân quan Đông của Nhật tại Măn Châu,
họ chiếm được kho vũ khí to lớn, vĩ
đại của Nhật để giao cho Trung Cộng
khiến sau đó Mao trạch Đông thắng Tưởng
giới Thạch trong trận chiến một mất
một c̣n. Mỹ lại bỏ Trung Hoa, bỏ Quốc Dân
Đảng để rồi hậu quả như ngày
nay ai cũng đều thấy cả. Tác giả Walter
Issacson nói bỏ miền Nam VN sẽ không làm cho các nước
khác hết tin cậy vào Mỹ, thí dụ Nhật,
Đại Hàn, Thái Lan phải tự phấn đấu
nhiều hơn để tự vệ, họ cũng coi
đó làm gương để càng trông cậy vào
Mỹ hơn. Sự thực trái
ngược với lời anh tác giả khuynh tả này,
trong xếp hạng về Quân sự trên thế
giới của Trang Hỏa Lực Toàn Cầu (globalfirepower.com),
từ 2021 tới nay Nhật đă leo lên hàng thứ 5
trên Pháp, Anh, cũng vậy Nam Hàn đă lên hàng thứ
6 trên Pháp, Anh. Họ đă tự phấn đấu
để không c̣n lệ thuộc vào Mỹ. Nay các nước
trong vùng Biển Đông như Việt Nam, Thái Lan, Mă
Lai, Nam Dương, Phi Luật Tân… đều thù ghét
Trung Cộng nhưng không có nước nào theo hay
gắn bó với Mỹ. Họ đều trông cái gương
Việt, Miên, Lào trong biến cố 1975 để mà
giữ thân. Trọng
Đạt —————————- (1)
Years of Renewal, Chương VIII The Agony of Vietnam, trang 227 (2)
Larry Berman: No Peace No Honor, Nixon, Kissinger and Betrayal in
Vietnam, trang 200 (3)
Kissinger, Years of Renewal trang 471. (4)
Nixon: No More Vietnams trang 180 (5)
Cao Văn Viên, Những Ngày Cuối Của VNCH trang 86, 87 (6) Kissinger, Years of Renewal trang 481 |