Các
cường quốc trong chiến tranh Việt Nam
Trần Gia Phụng |
LIÊN
XÔ VÀ CHIẾN TRANH VIỆT NAM Sau khi cướp
chính quyền năm 1917, đảng Cộng Sản (CS)
Nga do Vladimir Lenin lănh đạo, thành lập Đệ
tam Quốc tế Cộng sản (ĐTQTCS) (The Third
International) tại Moscow năm 1919, gọi là Communist
International hay COMINTERN. Trong đại
hội kỳ 2 ĐTQTCS từ 24-7 đến 7-8-1920,
Vladimir Lenin công bố bản “Sơ thảo lần
thứ nhứt luận cương về vấn đề
Dân tộc và Thuộc địa” (Draft Thesis on the
National and Colonial Questions), thường được
gọi là bản luận cương của Lenin, theo
đó Lenin nêu cao quyền dân tộc tự quyết, kêu
gọi các nước bị đô hộ (các thuộc
địa) đứng lên chống lại các đế
quốc thực dân, giải phóng dân tộc bằng cách
dựa vào sự ủng hộ của đảng CS các
nước, rồi gia nhập khối Liên Xô. Để
thực hiện chủ trương nầy, ĐTQTCS
tổ chức tại Liên Xô những cơ sở đào
tạo cán bộ tuyên truyền, sách động và
tổ chức quần chúng, rồi tung những cán
bộ nầy về nước hoạt động. Hai
trường nổi tiếng là trường Đại
học Lao động Cộng sản Phương Đông
(Communist University of the Toilers of the East), thành lập năm
1921. Năm 1926, Liên Xô lập thêm trường Quốc
tế Lenin (International Lenin School). Nước Nga, đổi thành Cộng Ḥa
Liên Bang Xô Viết tức Liên Xô ngày 30-12-1922, tuyên
truyền chủ nghĩa CS và phát triển ĐTQTCS
nhằm xuất cảng cách mạng, bành trướng
thế lực ra nước ngoài, tiến đến thành
lập một khối các quốc gia theo chủ nghĩa
CS do Liên Xô lănh đạo, cạnh tranh với các đế
quốc Tây Âu. Đảng CSLX khuyến khích các nước
bị đô hộ, tức thuộc địa của các
nước Tây phương, nổi lên chống các
đế quốc, giải phóng dân tộc, giành độc
lập, rồi gia nhập khối Liên Xô. Nói cách khác,
ĐTQTCS là công cụ bành trướng đế
quốc CS của Liên Xô. Người Việt Nam đầu tiên
xuất thân từ Trường Đại học Lao
động Cộng sản Phương Đông ở
Moscow, được ĐTQTCS gởi qua Trung Hoa hoạt
động gián điệp năm 1924 là Nguyễn Ái
Quốc (NAQ, đă được nhiều người
viết.) Trên đường hoạt động, NAQ
thay đổi tên họ nhiều lần. Năm 1942, NAQ
chiếm dụng tên Hồ Chí Minh (HCM) của Hồ
Học Lăm năm 1942. Dầu đă được ĐTQTCS
đào tạo, nhưng khi HCM cùng đảng Cộng
Sản Đông Dương (CSĐD) cướp chính
quyền ở Hà Nội năm 1945, Liên Xô vẫn không
giúp đỡ, v́ hai lẽ: 1) Joseph Stalin, nhà độc
tài Liên Xô, vốn đa nghi, không tin tưởng
những nước CS không do Liên Xô thành lập. Hơn
nữa HCM lại đă từng cộng tác với cơ
quan t́nh báo OSS (Office of Strategic Services) của Hoa Kỳ.
2) Việt Nam nằm quá xa Liên Xô và Liên Xô không có
quyền lợi ở Đông Nam Á. Năm 1950, khi HCM qua Liên Xô cầu
viện, Stalin ủy nhiệm cho Trung Cộng (TC) giúp HCM
chống Pháp và sau đó Liên Xô viện trợ vơ khí
hạng nặng cho VNDCCH qua đường TC, v́ lúc
đó CSVN chưa có lănh thổ nhất định. Hiệp định Genève (1954) chia hai nước
Việt: VNDCCH ở BVN; QGVN đổi thành VNCH năm
1955 ở NVN. Liên Xô chỉ chú trọng đến BVN
khi xảy ra cuộc tranh chấp Nga-Hoa do viêc Nikita
Khrushchev đưa ra chủ trương “sống chung ḥa
b́nh” (peaceful coexistence) giữa các nước không cùng
chế độ chính trị năm 1956. Liên Xô viện
trợ cho BVN nhằm lôi kéo BVN về phía Liên Xô,
nhiều nhất là viện trợ vơ khí hạng
nặng. Sau hiệp định Paris (27-1-1973), Hoa Kỳ
không oanh tạc BVN nên Liên Xô dễ dàng viện trợ
trực tiếp cho BVN, và tăng gấp 4 lần số
viện trợ để BVN tấn công NVN. TRUNG CỘNG VÀ CHIẾN TRANH
VIỆT NAM Năm 1949, đảng CS thành công ở
Trung Hoa. Ngày 1-10-1949, Mao Trạch Đông tuyên bố thành
lập Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH), thường
được gọi là Trung Cộng (TC). Đầu năm
1950, HCM, chủ tịch VNDCCH, vội vàng qua Bắc Kinh
cầu viện. Lúc đó, Mao Trạch Đông và Châu Ân
Lai không có mặt ở Bắc Kinh và đang viếng thăm
Liên Xô. Tài liệu của một tác giả trong nước
cho biết khi HCM đến Bắc Kinh, th́ HCM làm
kiểm thảo trước Lưu Thiếu Kỳ
về tất cả những chủ trương của
CSVN từ năm 1946. (Trần Đĩnh, Đèn cù,
California: Người Việt Books, 2014, tr. 49.) Sau Bắc Kinh, HCM đến Moscow tối
6-2-1950. Có thể trước đó Stalin và Mao Trạch
Đông đă thỏa thuận chia vùng ảnh hưởng,
nên khi tiếp HCM, Stalin nói: “Đảng Cộng
Sản Liên Xô và nhân dân Liên Xô hoàn toàn nên viện
trợ cho cuộc đấu tranh chống Pháp của các
đồng chí. Song, chúng tôi đă trao đổi
với các đồng chí Trung Quốc, công việc
viện trợ chiến tranh chống Pháp của
Việt Nam chủ yếu do Trung Quốc phụ trách thích
hợp hơn…” (Một nhóm tác giả, Hồi kư
của những người trong cuộc, ghi chép
thực về việc đoàn cố vấn quân sự
Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp, bài
của Trương Quảng Hoa, Bắc Kinh: Nxb Lịch
sử đảng Cộng Sản Trung Quốc, 2002,
Trần Hữu Nghĩa, Dương Danh Dy dịch, Dương
Danh Dy hiệu đính. Montreal: Tạp chí Truyền Thông
số 32 và 33, Hạ-Thu 2009, tr. 45.) Ngày 17-2-1950, Mao Trạch Đông cùng Châu
Ân Lai rời Moscow, trở về Bắc Kinh bằng tàu
hỏa. Hồ Chí Minh tháp tùng theo đoàn tàu nầy.
Một hôm HCM t́m đến toa tàu của Mao Trạch
Đông và dùng tiếng Tàu xin Mao Trạch Đông
viện trợ. Mao Trạch Đông đồng ư nhưng
c̣n đợi ư kiến trung ương đảng CSTH.
(Trương Quảng Hoa, bđd., sđd. tr. 47.) Tại Bắc Kinh, một hiệp ước
pḥng thủ hỗ tương giữa VNDCCH và CHNDTH
được kư kết, theo đó hai bên hợp tác
để tiễu trừ thổ phỉ. (Bernard Fall, Le
Viet-Minh, Paris: Max Leclerc et Compagnie, 1960, tr. 119.) Thổ
phỉ ở đây ám chỉ biệt kích Pháp và tàn quân
Quốc Dân Đảng Trung Hoa, đă trốn tránh
ở biên giới Việt Hoa sau khi Tưỏng Giới
Thạch thất bại. Từ đó, TC viện trợ
tối đa cho CSVN, không phải chỉ v́ t́nh nghĩa
xă hội chủ nghĩa, mà c̣n v́ TC nhờ CSVN bảo
vệ an ninh biên giới phía nam của TC. Hiệp định Genève ngày 20-7-1954 chia
hai Việt Nam ở vĩ tuyến 17. Trước khi kư
hiệp định Genève, Châu Ân Lai triệu HCM hội
họp tại Liễu Châu (Liuzhou), tỉnh Quảng Tây
(Kwangsi) ở TC, từ 3 đến 5-7-1954, để bàn
về việc kư kết hiệp định. Bên
cạnh đó, Châu Ân Lai đưa ra cho HCM hai kế
hoạch: 1) Trước khi rút quân từ NVN ra BVN, CS chôn
giấu vơ khí, cài người ở lại NVN để
chuẩn bị tái chiến. 2) Sử dụng chiêu bài
“chống Mỹ cứu nước” tức chống
Hoa Kỳ để kích động quân đội và lôi
kéo quần chúng. Chống Hoa Kỳ là chủ trương
của TC từ sau thế chiến thứ hai v́ TC đụng
độ với Hoa Kỳ nhiều lần ở
nhiều nơi. Trong cuộc chiến Quốc-Cộng
ở Trung Hoa, Hoa Kỳ viện trợ cho Trung Hoa Dân
Quốc do Tưởng Giới Thạch lănh đao. Khi
THDQ thất bại, di tản ra Đài Loan (Taiwan) năm
1949, Hoa Kỳ giúp THDQ duy tŕ ghế đại diện
Trung Hoa ở Liên Hiệp Quốc, dầu Đài Loan
rất nhỏ, ít dân so với TC. Trung Cộng c̣n đụng
độ trực tiếp với Hoa Kỳ trong chiến
tranh Triều Tiên từ 1950 đến 1953. Tại
hội nghị Liễu Châu, chắc chắn Châu Ân Lai
đă rỉ tai cho HCM biết về những biến
cố nầy. Từ năm 1956, mối bang giao Trung
Cộng – Liên Xô rạn nứt v́ TC chống lại
chủ trương “sống chung ḥa b́nh” do Khrushchev
đưa ra. Liên Xô bao vây TC ở phía bắc và phía tây.
Phía tây nam, Ấn Độ chận TC. Phía đông là
Thái B́nh Dương với ba nước đồng
minh của Hoa Kỳ là Nam Triều Tiên, Nhật Bản
và Trung Hoa Dân Quốc. Bị bao vây gần như ba
mặt, TC rất lo ngại bị cô lập và nhất
là lo ngại bị Hoa Kỳ chận luôn ở phía nam,
nên TC tận lực giúp BVN. Ngày 4-9-1958, Quốc vụ viện TC (chính
phủ) ra tuyên cáo về ranh giới biển của TC là
12 hải lư kể từ bờ biển, áp dụng cho
toàn thể lănh thổ TC, bao gồm cả các hải
đảo mà TC cho là của TC, trong đó TC kể luôn
cả Hoàng Sa và Trường Sa trên Biển Đông.
Bản tuyên cáo nầy không gởi riêng cho nước
nào và không cần trả lời, nhưng để
lấy ḷng TC nhằm mưu cầu viện trợ
từ TC, Phạm Văn Đồng, thủ tướng
BVN, với sự đồng ư của HCM và bộ Chính
trị đảng Lao Động, kư quốc thư ngày
14-9-1958, tán thành tuyên cáo của TC ngày 4-9-1958, nghĩa là
mặc nhiên thừa nhận hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa thuộc TC. Một năm sau, Phạm Văn Đồng
qua Bắc Kinh tháng 10-1959 để cầu viện. Đáp
lại, tháng 11-1959, TC đưa một phái đoàn sang
BVN trong hai tháng, nghiên cứu tất cả những nhu
cầu của BVN. Tháng 5-1960, các nhà lănh đạo BVN và
TC hội họp liên tiếp ở Hà Nội và Bắc
Kinh để thảo luận chiến lược
tấn công NVN. (Qiang Zhai, China & the Vietnam Wars, 1950-1975,
The University of Carolina Press, 2000, tt. 82-83.) Được TC hứa hẹn viện
trợ, ngay trong năm 1960, tại Hà Nội, đại
hội III đảng Lao Động từ 5-9 đến
10-9-1960, đưa ra hai mục tiêu lớn là xây
dựng xă hội chủ nghĩa ở BVN và giải phóng
NVN bằng vơ lực, nghĩa là động binh tấn
công NVN, tức BVN công khai vi phạm (xé bỏ) hiệp
định Genève năm 1954. Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Văn Tiến
Dũng liên tục qua TC hội họp và thương lượng
với các lănh tụ TC. Ngoài quân viện, từ tháng
6-1965 đến tháng 3-1968, TC gởi sang BVN 320,000 quân, trú
đóng ở các tỉnh và thành phố phía bắc Hà
Nội, điều khiển các súng pḥng không, sửa
chữa đường sá, cầu cống, đường
xe lửa, bảo vệ các tỉnh phía bắc, nhằm
giúp BVN kéo hết lực lượng xuống tấn công
NVN. (Qiang Zhai, sđd., tr. 135. Tuy nhiên, theo Henry Kissinger, On
China, Toronto: Penguin Group (Canada), 2011, tr. 342, th́ Trung Cộng
chỉ gởi 100,000 quân.) HOA KỲ VÀ CHIẾN TRANH
VIỆT NAM Về phía Hoa Kỳ, sách vở tài
liệu Hoa Kỳ đều cho rằng Hoa Kỳ giúp
VNCH hay NVN nhằm chống lại sự xâm lăng
của BVN, nhứt là sự bành trướng của TC.
Tuy nhiên, kết cuộc bi thảm của VNCH năm 1975
đặt ra một câu hỏi: Liệu Hoa Kỳ có
thật tâm giúp VNCH tự bảo vệ và chống
cộng sản không?
Khi Bắc Triều Tiên xâm lăng Nam
Triều Tiên (NTT) năm 1950 th́ Hoa Kỳ hưởng
ứng lời kêu gọi của Liên Hiệp Quốc,
đưa quân qua giúp NTT chống BTT. Tại đây, Hoa
Kỳ đụng độ với Trung Cộng, và
cuối cùng hai bên NTT và BTT kư hiệp ước đ́nh
chiến Bàn Môn Điếm (Panmunjom) ngày 27-7-1953. Để
bảo vệ NTT, Hoa Kỳ kư với NTT ngày 1-10-1953
Hiệp định Pḥng thủ Hỗ tương
giữa Hoa Kỳ và Cộng Ḥa Triều Tiên (Mutual
Defense Treaty Between the United States and the Republic of Korea). Tháng 9-1954, TC đe dọa Trung Hoa Dân
Quốc (THDQ tức Đài Loan), pháo kích hai quần
đảo Kim Môn – Mă Tổ (Kinmen-Mazu). Hai quần
đảo nầy nằm cách hải cảng Hạ Môn
(Xiamen), tỉnh Phúc Kiến (Fujian) của TC khoảng 15
Km, và nằm cách bờ biển Đài Loan khoảng 270
Km, nhưng thuộc chủ quyền của Đài Loan.
Hoa Kỳ liền kư với THDQ ngày 2-12-1954 Hiệp định
Pḥng thủ Hỗ tương Hoa-Mỹ (Sino-American Mutual
Defense Treaty) c̣n gọi là Hiệp định Pḥng
thủ chung giữa Hoa Kỳ và Trung Hoa Dân Quốc
(Mutual Defense Treaty between the United States of America and the Republic
of China). Năm 1972, Hoa Kỳ kư thông cáo chung Thượng
Hải với TC, công nhận CHNDTH hay TC là nhà nước
hợp pháp duy nhất của Trung Hoa, nhưng Hoa Kỳ
vẫn bảo vệ nền độc lập và tự
trị của THDQ (Đài Loan) bằng “Đạo
luật quan hệ Đài Loan” (Taiwan Relations Act,
10-4-1979). Với Nhật Bản, sau các hiệp
ước 1951 và 1954, Hoa Kỳ kư thêm ngày 19-1-1960
Hiệp định Hợp tác và An ninh Hỗ tương
giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản (Treaty of Mutual
Cooperation and Security between the United States and Japan). Trong khi đó, lúc đầu giữa Hoa
Kỳ và VNCH không kư kết một hiệp ước
quân sự v́ điều 19 chương III hiệp định
Genève (20-7-1954) ghi rằng: “Hai bên cam đoan rằng vùng
thuộc về họ không gia nhập một liên minh quân
sự nào và không bị sử dụng để gây
lại chiến tranh hoặc phục vụ cho một chính
sách xâm lược”. Tuy nhiên sau khi đảng Lao Động
công khai vi phạm (xé bỏ) hiệp định Genève
tại đại hội III ở Hà Nội vào tháng
9-1960, th́ tổng thống Ngô Đ́nh Diệm hai lần
đề nghị Hoa Kỳ kư với VNCH một
hiệp ước pḥng thủ hỗ tương
giữa hai nước, nhưng phía Hoa Kỳ cũng
từ chối. Tổng thống Diệm đề
nghị lần thứ nhứt ngày 29-9-1961 với đô
đốc Harry D. Felt, tư lệnh lực lượng
Hoa Kỳ tại Thái B́nh Dương. (Stanley Karnow,
Vietnam, a History, New York: The Viking Press, 1983, tr. 251.) Tổng
thống Diệm đề nghị lần thứ hai
với đại tướng Maxwell Taylor, tham mưu trưởng
Liên quân Hoa Kỳ, đến Sài G̣n từ 18 đến
24-10-1961. (John S. Bowman, The Vietnam War, Day by Day, New York: Mallard
Press, 1989, tr. 22.) Thêm nữa, khi đem bộ binh vào Nam
Việt Nam (NVN) năm 1965, th́ đại sứ Hoa
Kỳ tại VNCH Maxwell Taylor vận động với
thủ tướng Phan Huy Quát và các tướng lănh, và
hai bên Việt Mỹ “thỏa thuận miệng” (không
kư văn bản) để cho Thủy quân lục
chiến Hoa Kỳ đổ bộ vào Đà Nẵng ngày
8-3-1965. Sau đó, khi muốn rút quân, th́ Hoa Kỳ
tự động rút quân, và chỉ thông báo cho
tổng thống VNCH biết. Như thế Hoa Kỳ không kư một
hiệp ước nào với VNCH. Phải chăng đây
là dấu hiệu cho thấy Hoa Kỳ không cương
quyết giúp đỡ VNCH chống CS như Hoa Kỳ
đă giúp đỡ NTT, Nhật, Đài Loan, dầu lúc
đó VNCH được mệnh danh là “tiền đồn
chống cộng”? Phải chăng Hoa Kỳ chỉ
muốn kết hợp với VNCH thành một liên minh không
văn bản, khỏi bị ràng buột chặt
chẽ với VNCH, để Hoa Kỳ rộng đường
hành động và xoay xở khi đối đầu
với TC trong lúc t́nh h́nh thế giới đang thay
đổi. Quả thật t́nh h́nh quốc tế
đang biến chuyển mạnh v́ Trung Cộng
chống đối chủ trương “sống chung ḥa
b́nh” giữa các nước không cùng chế độ
chính trị do bí thư thứ nhất đảng CSLX
Nikita Khrushchev đưa ra năm 1956. Càng ngày TC càng
cứng rắn, nhứt là từ khi TC thử nghiệm
thành công bom nguyên ngày 16-10-1964. (Google: “China Nuclear
Forces”.) Ngày 2-3-1969 bùng nổ chiến tranh biên giới
Nga-Hoa tại sông Ussuri (Ô Tô Lư Giang), phía bắc TC. Khi TC lên hàng cường quốc nguyên
tử, Hoa Kỳ bắt đầu quan ngại. Richard
Nixon, cựu phó tổng thống thời tổng
thống Dwight D. Eisenhower, trên báo Foreign Affairs số tháng
10-1967, viết rằng không nên để cho TC sống
biệt lập ngoài đại gia đ́nh thế
giới. (Henry Kissinger, On China, Toronto: Penguin Group (Canada),
2011, tr. 202.) V́ vậy Hoa Kỳ bắt đầu
muốn nói chuyện với TC, vừa v́ thế lực
nguyên tử mới xuất hiện, vừa v́ muốn gây
chia rẽ trong khối CS sau vụ TC và Liên Xô đánh
nhau. Về phía TC, khi cuộc tranh chấp
Nga-Hoa đưa đến chiến tranh, th́ TC phát sinh
nhu cầu làm bạn với một cường quốc
nguyên tử để tạo thế cân bằng với
Liên Xô. Lúc đó cường quốc mà TC nhắm
đến không nước nào khác hơn là Hoa Kỳ,
v́ Hoa Kỳ có vơ khí nguyên tử và Hoa Kỳ cũng
chống Liên Xô. Về địa chính trị, Hoa
Kỳ ở xa TC, trong khi Liên Xô nằm sát biên giới
TC. Do đó, TC cũng có nhu cầu muốn nói chuyện
với Hoa Kỳ. Sau một
thời gian dọ dẫm, hai bên bắt đầu xích
lại gần nhau. Tại Hoa
Kỳ, sau khi thắng cử và lên làm tổng thống
ngày 20-1-1969, Richard Nixon đưa ra kế hoạch
“Việt Nam hóa chiến tranh” (Vietnamization), chuyển gánh
nặng quân sự qua cho quân lực VNCH, rút quân đội
Hoa Kỳ về nước. Tháng 2-1972, Richard Nixon thăm
TC, mở đầu một thời kỳ mới trong
bang giao Hoa Kỳ-TC. Bắt tay được với TC,
quân cờ VNCH không c̣n cần thiết, nên Hoa Kỳ
bỏ rơi VNCH. Chính sách
của Hoa Kỳ trong thời gian tham chiến ở NVN là
chiến tranh giới hạn, không tấn công BVN để
tránh sự can thiệp của TC như ở Nam
Triều Tiên. Trước khi đưa bộ binh vào
NVN, ngày 30-4-1964 ngoại trưởng Hoa Kỳ là Dean
Rusk nhờ J. Blair Seaborn, trưởng đoàn Canada trong
Ủy ban Kiểm soát Quốc tế (International Control
Commission), báo cho Hà Nội biết chủ trương
nầy của Hoa Kỳ và đề nghị Hà Nội
ngưng ủng hộ CS miền Nam để đổi
lấy viện trợ. Seaborn tŕnh bày lại với
Phạm Văn Đồng ngày 18-6-1964 nhưng BVN không
chấp thuận. (John S. Bowman, sđd. tr. 37.) Đánh
trận mà không thắng không thua để làm ǵ th́ chưa
biết, nhưng chắc chắn chiến tranh sẽ kéo
dài và Hoa Kỳ có thời gian tiêu thụ cho hết
số vơ khí tồn kho của Hoa Kỳ từ thời
thế chiến thứ hai c̣n lại. Các cựu quân nhân
VNCH đều cho biết cho đến năm 1968, quân
đội VNCH vẫn sử dụng các loại súng cũ
như Carbine M1 hay Garand M1, máy bay AD5, AD6 … thời
thế chiến thứ hai. Trên
chiến trường Việt Nam, Hoa Kỳ c̣n thử
nghiệm một số vơ khí mới, mà dễ thấy
nhứt là súng AR15 (tức M16) xuất hiện khoảng
năm 1965, và quân nhân Việt Nam sử dụng từ năm
1968; thiết giáp xa Patton 48; phản lực cơ
F4-Phantom; oanh tạc cơ B52 lần đầu tiên trên
thế giới xuất chiến ở B́nh Dương ngày
17-6-1965 trong chiến dịch Arc Light; bột khai quang màu
da cam; loại bom bi khi phát nổ phóng ra những chùm bi
nhỏ sát thương. (Về việc B52 xuất
chiến lần đầu ở B́nh Dương, theo
John S. Bowman, sđd. tr. 72. Tài liệu về các loại vơ
khí mới của Hoa Kỳ sử dụng ở Việt
Nam, theo các website: HISTORY: Weapons
of the Vietnam War: và Vietnam
Equipment) Cũng trên
chiến trường Việt Nam, Hoa Kỳ lại có cơ
hội theo dơi, nghiên cứu những loại vơ khí
mới của Liên Xô viện trợ cho quân đội
CS sử dụng ở Việt Nam. Ngoài các loại súng
của CS như AK-47, Hoa Kỳ c̣n nghiên cứu các
loại xe thiết giáp của Liên Xô và các loại
hỏa tiển pḥng không của Liên Xô. Điểm
quan trọng là khi đến Việt Nam, Hoa Kỳ
chỉ hành động theo chủ trương chính sách
của Hoa Kỳ, quan điểm của Hoa Kỳ, cho
lợi ích của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ ít quan tân đến
đề nghị, nguyện vọng và quyền lợi
của phía VNCH. Ví dụ cố vấn Hoa Kỳ
huấn luyện quân sự theo lư thuyết chiến
tranh của Hoa Kỳ, dựa trên hỏa lực tối
tân và dồi dào mà không dựa trên điều
kiện Việt Nam, hoặc Hoa Kỳ không t́m ra đối
sách chống lại du kích, mà Hoa Kỳ bác bỏ các
đề nghị bắc tiến của các tướng
lănh VNCH để chận đứng du kích CS ở NVN;
và Hoa Kỳ cản trở kế hoạch của VNCH
sản xuất đạn dược để VNCH
tự cung ứng nhu cầu chiến tranh… Người
Hoa Kỳ tính toán tinh vi đến nỗi vào nắm
1972, BVN tràn quân qua vĩ tuyến 17, tấn công VNCH.
Viện dẫn lư do nầy, Quân đoàn I đưa ra
đề nghị đánh thẳng qua sông Bến
Hải, nhằm đe dọa hậu cứ địch,
nhưng cố vấn Mỹ không đồng ư. Lo
ngại Quân đoàn I có thể tự ư tiến quân ra
BVN, các cố vấn Mỹ giới hạn việc
cấp bổng tiếp vận cho Lữ đoàn 1 Kỵ
binh 20 gallons xăng mỗi ngày cho một xe, đạn
pháo binh chỉ được bắn 5 quả mỗi ngày
cho một khẩu và ngưng tiếp tế lương
khô cho Lữ đoàn. (Hà Mai Việt, Thép và Máu,
Thiết giáp trong chiến tranh, Texas: 2005, tr. 103.) Khi quyết
định rút lui khỏi NVN, Hoa Kỳ vận động
kư hiệp định Paris ngày 27-1-1973 gọi là 4 bên,
nhưng thật sự chỉ giữa Hoa Kỳ và BVN
trong khi NVN bị ép phải kư. Trong hiệp định
nầy, chương II về “Chấm dưt chiến
sự – Rút quân”, điều 2, quy định
rằng Hoa Kỳ sẽ rút hết quân về nước,
nhưng qua điều 3 khoản b, th́ bộ đội
BVN vẫn đóng lại ở NVN. Phía BVN hớn hở
xem đây là một thắng lợi của CS v́ Hoa
Kỳ dứt khoát bỏ rơi NVN, và CS tin rằng
sẽ dễ dàng tiếp tục tấn công NVN. Sau đó
điều 21 (chương VIII) viết như sau: “Theo
chính sách truyền thống của ḿnh, Hoa Kỳ sẽ
đóng góp vào việc hàn gắn vết thương
chiến tranh và công cuộc xây dựng sau chiến tranh
ở Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa và toàn Đông Dương.”
Hai bên thương lượng và thỏa thuận Hoa
Kỳ sẽ giúp BVN 3,25 tỷ Mỹ kim để tái
thiết. Richard Nixon gởi thư cho Phạm Văn Đồng
ngày 1-2-1973 xác nhận điều nầy. Trong thư,
phần phụ lục ghi thêm rằng việc giúp đỡ
“sẽ được thực hiện bởi mỗi bên
theo các điều khoản hiến pháp của mỗi nước.”
(Lê Quỳnh, “Lá thư mật Nixon và quan hệ
Việt-Mỹ”, BBC Việt ngữ 11-5-2008.) Khi BVN cưỡng
chiếm được Sài G̣n, vi phạm hiệp định
Paris, th́ không có lư do ǵ Hoa Kỳ phải tôn trọng
những cam kết giúp đỡ nhân đạo cho BVN.
Thế là sau khi rút về nước tất cả tù
binh Hoa Kỳ bị CS bắt giam, Hoa Kỳ xù luôn
một cách hợp lư chuyện 3,25 tỷ Mỹ kim,
khỏi cần bồi thường ǵ cả. Về phía
VNCH, dầu bị Hoa Kỳ bỏ rơi, quân đội
VNCH vẫn tiếp tục chiến đấu, nên
ngoại trưởng Hoa Kỳ là Henry Kissinger đă trù
ẻo: “Tại sao họ không chết lẹ đi cho
rồi? Điều tệ nhất có thể xảy ra là
họ cứ sống dai dẳng hoài.” (Lời
của Henry Kissinger nói với Ron Nessen. Ron Nessen thuật
lại trong sách It Sure Looks Different from the Inside, Chicago:
Playboy Press, 1978, tr. 98. Nguyễn Tiến Hưng và Jerrold
L. Schecter trích dẫn, Hồ sơ mật dinh Độc
Lập, Los Angeles: C & K Promotions, Inc., 1987, tr. 512.) Đến
giúp nhau mà sao trù ẻo nhau như thế? Tuy nhiên điều tệ hại
nhất cho VNCH là vào tháng 2-1975, các loại đạn dược
tồn kho chỉ đủ dùng trong khoảng 30 ngày.
(Cao Văn Viên, Những ngày cuối của Việt Nam
Cộng Ḥa, Virginia: Vietnam Bibliography, 2003, tr. 92.) Hết
đạn th́ làm sao mà chiến đấu, nên cuối
cùng quân đội VNCH phải hạ khí giới. Xin chú
ư là cho đến năm 1973, khi quân đội VNCH c̣n
được trang bị đầy đủ, th́
bộ đội CS không thắng được
trận nào, kể cả vụ CS bất ngờ đánh
lén nhân Tết Mậu Thân (1968). Chẳng những trù ẻo, truyền thông
Hoa Kỳ, giới phản chiến Hoa Kỳ lớn
tiếng cố t́nh đổ lỗi, gán ghép sự
thất bại của VNCH năm 1975 hoàn toàn do lỗi
VNCH, do hành chánh VNCH “tham nhũng”, do quân đội
VNCH “bất tài”, nhằm khỏa lấp chính sách
“bất phân thắng bại” (no win policy) và chủ trương
“chiến tranh giới hạn” (limited war), rồi
bỏ rơi VNCH để bắt tay với TC. Khi cần th́ tung hô VNCH là “tiền
đồn chống cộng”, tổng thống Ngô Đ́nh
Diệm là “Winston Churchill of Asia” (lời của phó
tổng thống Lyndon Johnson tại Sài G̣n ngày 12-5-1961).
Khi không cần th́ thảm sát ngày 2-11-1963, rồi sau
đó th́ “Việt Nam hóa chiến tranh” để mưu
cầu một nền “ḥa b́nh trong danh dự” riêng
cho Hoa Kỳ, bỏ xó “tiền đồn chống
cộng” “sống chết mặc bay”, cúp viện
trợ, cúp vơ khí, rồi c̣n trù độc “chết
lẹ đi cho rồi.” Trong khi đó, vào cuối tháng 4-1975,
Graham Martin, đại sứ Hoa Kỳ cuối cùng
tại VNCH, đến mời tổng thống Trần Văn
Hương di tản qua Hoa Kỳ, th́ tổng thống Hương
từ chối và nhă nhặn đáp rằng: “Đă
đến đỗi như vậy, Hoa Kỳ cũng có
phần trách nhiệm trong đó.” (Trần Đông
Phong, Việt Nam Cộng Ḥa 10 ngày cuối cùng, California:
Nxb. Nam Việt, 2006, tr. 353.) KẾT
LUẬN Tóm lại,
trong cuộc chiến 1954-1975, Liên Xô (LX) và Trung Cộng
(TC) viện trợ cho BVN tấn công NVN. C̣n Hoa Kỳ
viện trợ cho NVN chống lại BVN. Từ năm
1920, Nga rồi Liên Xô sử dụng ĐTQTCS làm công
cụ để xuất khẩu cách mạng nhằm thành
lập một đế quốc kiểu mới gồm
các nước CS thuộc quyền Liên Xô. Đệ tam
QTCS đă đào tạo HCM thành một gián điệp
phục vụ cho mưu đồ nầy của Liên Xô.
Liên Xô ở xa Việt Nam, ít có quyền lợi ở
Đông Á, giúp BVN v́: 1) HCM được LX đào
tạo để làm gián điệp cho LX, du nhập
chủ nghĩa CS vào Việt Nam, thi hành chủ trương
bành trướng của ĐTQTCS. 2) Tranh chấp với
TC nên LX viện trợ cho BVN, lôi kéo BVN về phía LX. 3)
Giúp BVN chống Hoa Kỳ, kẻ thù của LX từ sau
1945. Bành trướng
là bản chất cố hữu của những nhà lănh
đạo Trung Hoa. Thời hiện đại cộng thêm
tính hiếu chiến và bạo động của
chủ nghĩa CS. chiến và bạo động của
chủ nghĩa CS. Trung Cộng đă góp phần rất
lớn giúp CSVN thành công trong cả hai cuộc chiến
1946-1954 và 1954-1975. Trung Cộng giúp BVN v́: 1) Bảo
vệ an ninh biên giới phía nam TC. 2) Bành trướng và
t́m đường tiến xuống ĐNA. 3) Ngăn
chận ảnh hưởng của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ
trở thành cường quốc nguyên tử từ năm
1945, đứng đầu khối tư bản sau
thế chiến thứ hai, đến giúp NVN v́: 1)
Muốn xây dựng NVN thành tiền đồn chống
cộng, bảo vệ Hoa Kỳ từ xa. 2) Chống Liên
Xô và sự bành trướng của chủ nghĩa CS.
3) Bao vây TC, ngăn chận TC xuống ĐNA. Tuy nhiên, do
tính thực dụng, cấp tiến, sẵn sàng thay
đổi để tiến bộ và phát triển, nên
sau khi liên lạc và thỏa hiệp với TC, th́ Hoa
Kỳ bỏ rơi NVN và rút ra quân về nước. Trong khi
đó, BVN nhờ viện trợ Liên Xô và TC, xâm lăng
NVN nhằm bành trướng quyền lực và phủ sóng
CS lên toàn cơi Việt Nam. Nam Việt Nam yếu thế,
không lẽ ngồi chờ chết, đành phải
nhờ Hoa Kỳ giúp đỡ để tự vệ.
Hai bên có hai cách viện trợ khác nhau: Đảng CS
Liên Xô và TC độc tài đảng trị, bí
mật viện trợ không cần thông qua quốc
hội, và viện trợ cho BVN từ đầu đến
cuối cuộc chiến (1975). Hoa Kỳ là nước dân
chủ, viện trợ cho NVN phải công khai thông qua
quốc hội; và đến năm 1972 th́ quốc
hội Hoa Kỳ ra lệnh giảm thiểu và chấm
dứt viện trợ. Hai bên
Bắc và Nam Việt Nam đánh nhau bằng vơ khí
của ngoại bang. Dân chúng cả hai bên đều
chết v́ vơ khí của ngoại bang. Hàng trăm ngàn
thanh niên cả hai bên đă nằm xuống, nhưng ư
nghĩa khác nhau: -Thanh niên
Trung Cộng chết v́ âm mưu của tập đoàn
CS Bắc Kinh, số lượng không đáng kể. – Trên
58,000 thanh niên Hoa Kỳ tử trận ở Việt Nam là
ân nhân của NVN v́ bảo vệ nền tự do
của NVN, đồng thời vừa v́ sứ mệnh
ngăn chận CS từ xa của Hoa Kỳ. – Hàng trăm
ngàn thanh niên Bắc Việt Nam thiêu thân trong cuộc xâm
lăng NVN v́ tham vọng bành trướng chủ nghĩa
CS và giấc mộng quyền lực của giới lănh
đạo BVN. Nữ văn sĩ Dương Thu Hương,
vào đến Sài G̣n năm 1975, đă ngồi khóc bên
vệ đường v́ bà nghĩ rằng tuổi thanh
xuân của bà “bị hy sinh một cách uổng phí”
(nguyên văn lời của Dương Thu Hương). – Hàng trăm
ngàn thanh niên Nam Việt Nam hy sinh v́ lư tưởng
tự do dân chủ, bảo vệ nền độc
lập và sự sống c̣n của miền NVN, và
bảo vệ nền văn hóa dân tộc cổ
truyền c̣n được bảo lưu ở NVN. Cuối cùng
người Việt Nam ở cả hai bên lănh đủ
bom đạn ngoại bang. Nước Việt Nam bị
tàn phá trầm trọng. Cả hai bên, Nam và Bắc
Việt Nam, đều bị các thế lực ngoại
bang dùng viện trợ chi phối theo quyền lợi
của ngoại bang. Đây là kinh nghiệm xương
máu đau thương nhớ đời cho người
Việt Nam ở cả hai bên, không thể tin tưởng
bất cứ ngoại bang nào, dù cộng sản hay tư
bản. (Houston,
17-3-2019) TRẦN GIA PHỤNG |