ĐỀ ĐỐC TRẦN VĂN CHƠN: GÁNH NẶNG TRĨU ĐÔI VAI Đại Dương |
Cậu
con trai từng chơi đùa trên băi biển Vũng Tàu,
say sưa dỏi mắt theo những con tàu qua lại ngoài
khơi rồi nuôi mộng hải hồ mà giờ đây
đă từ giả cỏi đời trên xứ người
vào lúc chỉ c̣n vài tháng nữa là đến sinh
nhật thứ 100 (1920 -2019). Người
ấy là Đề đốc Trần Văn Chơn,
cựu Tư lệnh Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà.
Trùng
dương réo gọi nên chàng thanh niên Vũng Tàu thi vào
ngành Hàng hải Thương thuyền của Pháp
tại Sài G̣n năm 1940 sau khi đậu Tú tài phần
I năm 1939. Thời gian phục vụ ở ngành Hàng
hải Thương thuyền, Sĩ quan Trần Văn Chơn
đă được cấp các chứng chỉ chuyên môn
của ngành: Cơ khí Hàng hải (năm 1941), Vô
tuyến Hàng hải (1942), Sĩ quan Hoa tiêu (1948),
Thuyền trưởng Thương thuyền (1949). Sau
khi được Pháp trao trả độc lập th́
Quốc gia Việt Nam thành lập đă thúc giục
thanh niên gia nhập Quân đội. Sĩ quan hàng
hải thương thuyền, Trần Văn
Chơn và đồng nghiệp Lâm Ngươn Tánh,
Trần Văn Phấn, Chung Tấn Cang, Hồ Tấn
Quyền cùng với Thiếu uư Bộ binh Lê Quang
Mỹ, Đoàn Ngọc Bích, Nguyễn Văn Lịch,
Phan Thanh Tùng đă theo tiếng gọi non sông mà gia
nhập Hải Quân v́ cùng chung mộng hải hồ. Họ
nhập học Khoá 1 Sĩ Quan Hải Quân mà sáu người
trước học “ngành chỉ huy”, ba người
sau theo “ngành cơ khí”. Theo
vận nước nổi trôi, Đô đốc Chơn
từng chỉ huy giang đoàn, chiến hạm nên
rất am tường khả năng tác chiến,
sức chịu đựng và ḷng can trường, tính
xốc vác, quan niệm yêu đời, t́nh đoàn
kết đồng đội của các chiến
hữu trên biển cả bao la và sông ng̣i chằng
chịt để cư xử với nhau như anh em
ruột thịt trong gia đ́nh Hải Quân. Quan
niệm của Sĩ quan Trần Văn Chơn
rất rơ ràng: Phục vụ
Tổ quốc Dân tộc, không hoạt động chính
trị để giữ vị thế trung lập
của một quân nhân. Đầu
năm 1957, Hải quân Thiếu tá
Trần Văn Chơn được bổ nhiệm vào
chức Tư lệnh Hải Quân (1957-1959) thay thế cho
Hải quân Đại tá Lê Quang Mỹ, kiêm
nhiệm chức Giám đốc Hải quân Công Xưởng.
Năm 1959, bàn giao cho Hải quân Thiếu tá Hồ
Tấn Quyền và được cử đi tu
nghiệp tại Đại học Hải chiến Hoa
Kỳ (Naval War College) ở Rhode
Island. Thời gian tu nghiệp này đă giúp cho Hải quân
Trung tá Trần Văn Chơn hiểu rơ hơn về
chiến lược toàn cầu của Hải Quân Hoa
Kỳ và cách điều động các lực lượng
khắp thế giới và giữ trung lập với
hệ thống chính trị. Về
nước tháng 10 năm 1960, Trung tá Chơn
trợ giúp Bộ Tổng Tham Mưu tổ chức và
chỉ huy Lực lượng Tuần giang để
yểm trợ cho Lực lượng Địa Phương
Quân. Đại
tá Chơn trở lại chức Tư lệnh Hải Quân
(1966-1974) thay thế cho Trung tướng Cao Văn Viên
và được mang cấp bậc Đề Đốc
trước khi giải ngũ năm 1974 do đáo
hạn tuổi. Nhiệm
kỳ Tư lệnh lần thứ nhất chỉ lo
tổ chức lực lượng và đào tạo nhân
sự đáp ứng tiêu chuẩn Hải Quân v́
thuộc vào thời b́nh khi cộng sản chưa
tiến hành chiến tranh giải phóng miền Nam
Việt Nam nên quân số Hải Quân vào khoảng 9,700
người. Nhiệm
kỳ thứ hai đè nặng lên vai Tư lệnh
Trần Văn Chơn với ba nhiệm
vụ chính: Một là, đoàn kết trong nội bộ
binh chủng hơi lỏng lẻo sau vụ Tư
lệnh Hồ Tấn Quyền bị thuộc cấp sát
hại và t́nh h́nh chính trị rối ren ở Sài G̣n,
Huế do cộng sản gia tăng hoạt động
kể cả trên sông ng̣i và tiếp tế vũ khí,
đạn được từ Miền Bắc bằng
đường biển. Như thế, cần hướng
tất cả sĩ quan và đoàn viên các cấp vào
mục tiêu chính của Quân chủng Hải Quân: Tổ
quốc Đại Dương. Cựu
Tư lệnh Hải Quân, Trần Văn Chơn đến
Hoa Kỳ năm 1992 theo diện H.O. đă trả
lời Kư giả Điệp-Mỹ-Linh: “Tôi
không thích chính trị, không hiểu biết nhiều
về chính trị và tôi cũng không nghe ai nói với tôi
về việc Đại-Tướng Dương-Văn-Minh
mời tham dự Nội các. Từ khi Ông làm Quốc-Trưởng
cho đến lúc Ông nhận chức Tổng Thống,
chúng tôi chỉ gặp nhau trong những cuộc
họp”. Thời
gian thụ huấn tại Đại học Chiến
Tranh Hải Quân (Naval War College), Trung tá Chơn được
đi thăm nhiều thành phố và các cơ sở quân
sự, hành chính quan trọng được nên biết
Quân đội Hoa Kỳ đứng ngoài các tranh
chấp chính trị mà chỉ dồn nỗ lực vào
vai tṛ vệ quốc được giao phó. Hai là, phối hợp với Hải Quân
Hoa Kỳ trong mục đích tiêu diệt Cộng
sản trên các sông rạch và biển cả. Năm
1965, Hoa Kỳ quyết định đưa quân chính
quy vào Việt Nam để ngăn chặn Bắc
Việt được Liên Sô và Trung Quốc yểm
trợ tối đa trong mưu đồ chiếm
Việt Nam Cộng Hoà trên con đường thống
trị Đông Nam Á. Đó là chiến lược toàn
cầu của Chính phủ Hoa Kỳ được
đa số dư luận dân Mỹ và Lưỡng
viện Quốc hội ủng hộ. Nói
cho cùng chiến lược đó có lợi cho Việt
Nam Cộng Hoà v́ năm 1964, Lực lượng vũ
trang cộng sản được phe tả thế
giới trợ giúp làm rối loạn t́nh h́nh Miền
Nam vĩ tuyến 17. Quân đội
Việt Nam Cộng Hoà nói chung bị rơi vào t́nh
trạng pḥng ngự hơn là phản công trên khắp
lănh thổ. Hợp tác với
chiến lược toàn cầu của Hoa Kỳ là
một chọn lựa đúng đắn nếu
muốn bảo tồn được nền độc
lập, tự do, phát triển của Việt Nam
Cộng Hoà. Đại
Hàn không thể trở thành quốc gia độc
lập, tự do, phát triển và tiên tiến như ngày
hôm nay nếu chống lại, hoặc không-hợp tác
với chiến lược toàn cầu của Mỹ.
Hoa Kỳ và Đại Hàn đă thoả thuận
sẽ giao Tướng lănh Đại Hàn đảm
nhiệm vai tṛ Tư lệnh Liên quân Hàn-Mỹ từ năm
2014, nhưng, vào giờ chót phía Đại Hàn từ
chối do không-hữu-hiệu khi tác chiến mà c̣n
tạo điều kiện cho Hoa Kỳ rút quân. Đại
đa số dân tộc Đại Hàn không muốn 28,000
lính Mỹ rút đi. Kể từ
khi thành lập NATO năm 1949, tướng lănh Mỹ
vẫn giữ vai tṛ Tư lệnh Lực lượng Hành
quân. Hải
Quân Hoa Kỳ đă cử Phó
đô đốc Elmo Zumwalt làm Tư lệnh Lực lượng
Hải quân trên Biển và Sông tại Việt Nam
được sự phối hợp chặt chẽ
của Tư lệnh Hải Quân Trần Văn Chơn
giúp cho các binh chủng bạn tái chiếm và b́nh định
nhiều vùng đă lọt vào tay cộng quân sau khi
Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm bị sát hại. Đô đốc Zumwalt
chỉ muốn mang vào chiến trường Việt Nam
nhiều phương tiện hành quân nhất để
tương lai sẽ trao lại cho Việt Nam từ
chiến hạm, chiến đỉnh; đồng
thời giúp cải thiện đời sống quân nhân
Hải Quân và gia đ́nh. Khi trở về nước
được gắn 4 sao và bổ nhiệm vào
chức vụ Tư lệnh Hải Quân thứ 19
vẫn tiếp tục tận t́nh giúp Hải Quân
Việt Nam Cộng Hoà bất cứ lúc nào có thể. Đề
đốc Trần Văn Chơn muốn mượn
lực lượng Hải Quân Hoa Kỳ để tiêu
diệt tiềm lực cộng sản trên biển và sông
ng̣i, đồng thời, xây dựng Hải Quân
Việt Nam Cộng Hoà được Jane’s
Fighting Ships 1972-1973 xếp hạng 9 trong các cường
quốc Hải Quân trên thế giới. Sát
cánh bên nhau nên giữa hai ông Zumwalt và Chơn trở thành
đôi bạn thân v́ cùng mục đích tiêu diệt
tiềm lực cộng sản và tăng cường
sức mạnh cho Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà. Tin
tức về kế hoạch tiếp tế súng ống,
đạn dược, thuốc men từ Bắc vào Nam
bằng đường biển từ năm 1960
được Hải Quân Mỹ-Việt phối
hợp, giám sát và phá vỡ vào các năm sau: Phá tan
mật khu Vũng Rô (15/02/1965). Liên tiếp đánh ch́m
tàu tiếp vận của Bắc Việt ở Cửa
Tiểu (08/01/1966), Cửa Bồ Đề (10/05/1966), Ba
Động (20/06/1966), Cửa Bồ Đề lần
thứ hai (01/01/1967), Đức Phổ (01/03/1967), Mũi
Batangan (14/03/1967), Sa Kỳ (15/07/1967), Ḥn Hèo (01/03/1968),
Cửa Việt (01/03/1968), Cửa Bồ Đề
lần thứ ba (01/03/1968), Cửa Cung Hầu (22/11/1970),
Gành Hào (22/11/1971). Khu trục hạm Trần Khánh Dư
HQ 4 đánh ch́m tàu tiếp vận 645 của Bắc
Việt trong vùng biển Phú Quốc (24/4/1972) nhờ
Tiềm thuỷ đỉnh nguyên tử USS Sculpin và phi cơ
hải tuần P-3 của Mỹ theo dơi suốt lộ tŕnh
2,500 hải lư trên Biển Nam Trung Hoa. V́ thế, Bắc
Việt ngưng kế hoạch tiếp tế vũ khí
bằng đường biển. Hải Quân Việt Nam Cộng
Hoà năm 1975 có 43,000 binh sĩ,
84 chiến hạm; 5 vùng Duyên hải với 133 chiến
đỉnh và 500 ghe đủ loại; 2 vùng Sông ng̣i và
3 lực lượng tác chiến trong sông với trên
950 chiến đỉnh đủ loại. Tổng thống Lyndon Johnson
quyết định rút quân tác chiến khỏi
Việt Nam được Bộ
trưởng Quốc pḥng Melvin Laird đưa ra chương
tŕnh Việt-Nam-hoá Chiến tranh nhằm chuyển giao trách
nhiệm quốc pḥng cho Quân đội Việt Nam
Cộng Hoà. Thứ ba, tiếp
nhận chiến cụ và phương tiện chiến
tranh của Hải Quân Hoa Kỳ tại Việt Nam cho
Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà. Đô đốc
Zumwalt và Đô đốc Chơn phối hợp
nhịp nhàng và dễ dàng khi thực hiện Chương
tŕnh Chuyển giao Cấp tốc (The U.S. Navy's Accelerated
Turnover Program, ACTOV) như đôi bạn chí thân. Cả
hai đều có chung khát vọng muốn xây dựng
một lực lượng hải quân cho Việt Nam
đủ sức kiểm soát và bảo vệ bờ
biển Việt Nam và sông ng̣i chằng chịt ở
miền Nam vĩ tuyến 17. Phía
Việt Nam phải tuyển mộ và huấn luyện
cấp tốc cho đủ quân số cần thiết
40,000 tại các Trung tâm Huấn luyện Hải Quân Nha
Trang, Cam Ranh, Sài G̣n. Hải Quân c̣n gửi 750 nhân viên
theo học ở Officer Candidate School (OCS), nơi các
vị Tổng thống Mỹ từng thụ huấn như
John Kennedy, Lydon Johnson, Richard Nixon, Gerald Ford, Jimmy Carter, và
George H.W. Bush. Sau khi tốt nghiệp, họ phục
vụ trong mọi đơn vị của Hải quân
Việt Nam Cộng Hoà. Tính
đến giữa năm 1970, Hải Quân Hoa Kỳ đă
chuyển giao hầu hết 500 chiến đỉnh và
hoạt động hải quân cho phía Việt Nam. Các căn
cứ tiếp vận của Việt Nam từ Cửa
Việt đến Mũi Cà Mau cũng tuần tự
được chuyển giao. Hiệp
định Hoà b́nh Paris năm 1973 quy định
Việt Nam Cộng Hoà có thể một đổi
một vũ khí chiến cụ hư hỏng. Tuy nhiên,
t́nh h́nh chính trị căng thẳng ở Hoa Kỳ nên
bất-khả-thi khi Hải quân Việt Nam thiếu cơ
phận thay thế để sửa chữa tàu bè và
chiến cụ. Đô đốc Chơn
đích thân sang Hoa Kỳ và lưu trú tại tư gia
của Đô đốc Zumwalt đang làm Tư lệnh
Hải Quân Hoa Kỳ để nhờ giải quyết
khó khăn. Hai bên thoả thuận đặt
một sĩ quan tiếp liệu của Việt Nam
tại Mỹ để chuyển trực tiếp nhu
cầu tới các ban phụ trách cung ứng cơ
phận của Hải Quân đă làm giảm bớt khó
khăn. T́nh
h́nh Nhóm đảo Hoàng Sa (Paracel Islands, Tây Sa) trở nên
căng thẳng khi Tuần dương hạm Lư Thường
Kiệt HQ 16 đang chở một phái đoàn 6 người
gồm cả một người Mỹ đến Đảo
Hoàng Sa hôm 16/01/1974 để khảo sát việc
thiết lập phi trường cho C130. T́nh cờ, HQ 16
phát hiện tàu mang cờ Trung Quốc gần các đảo
lân cận với đảo Hoàng Sa nên lập tức báo
cáo về Bộ Tư lệnh Vùng I Duyên hải, đồng
thời dùng loa ra lệnh họ ra khỏi hải
phận Việt Nam. Phía tàu Trung Quốc cũng bảo
HQ 16 rời hải phận Trung Quốc. Đô
đốc Chơn theo dơi sát t́nh h́nh Hoàng Sa và
đưa ra các chỉ thị cần thiết cho Đề
đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, Tư lệnh Vùng
I Duyên hải và phái Tư lệnh phó, Đề đốc
Lâm Ngươn Tánh ra Đà Nẵng để trực
tiếp chỉ huy. Do bận gặp Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu nên khi trận hải chiến
Hoàng Sa nổ ra trong 30 phút th́ Tư lệnh Hải Quân
c̣n trên phi cơ bay tới Đà Nẵng. Nhóm
đảo Hoàng Sa lọt hoàn toàn vào tay Trung Quốc là
một nỗi đau xé ḷng cho Hải Quân Việt Nam
Cộng Hoà cũng như toàn thể dân tộc Việt
Nam, ngoại trừ bọn thần phục Bắc Kinh. Vận
nước nổi trôi, khi hưng lúc thịnh, nhưng,
những chàng trai nước Việt lúc nào cũng
sẵn sàng đưa vai gánh vác dù cho có phải
oằn vai. Đại-Dương |