"Hải Quân của Bắc Việt không thể nào vào tới tận Trường Sa, tại sao các ông phải thả neo chiến hạm ở Trường Sa?" Nguyễn Tiến Hưng |
Tướng
John Murray, Chỉ
Huy Cơ Quan Viện Trợ Quốc Pḥng Mỹ ở Sài
G̣n hỏi tôi trong một buổi Việt - Mỹ
duyệt xét về t́nh h́nh viện trợ vào mùa Hè
1974, đặc biệt là t́nh h́nh chi tiêu của
Quỹ Đối Giá, để có dữ liệu thông
báo cho Bộ Tài Chính. Quỹ Đối Giá (Counterpart
Fund) là nguồn tiền quan trọng nhất của
viện trợ kinh tế Mỹ cho VNCH. Đây là
một ngân khoản thu được khi nguồn
tiền do 'Viện Trợ Nhập Cảng' được
đổi ra tiền đồng Việt Nam. Quỹ này
được cả hai phía Việt - Mỹ quản
trị rất chặt chẽ.
Đầu
năm 1974, có tin dồn dập là Quốc Hội Mỹ
sẽ đi tới việc cấm cả việc sử
dụng Quỹ này để tài trợ cho ngân sách
quốc pḥng. Vài tháng sau th́ tin đồn này thành
sự thực. Tiếp theo là hành động bết bát
của Nghị sĩ Dân Chủ Ted Kennedy:
ngày 11/07/1974 ông đưa ra một Tu Chính Án để
cắt 50% viện trợ kinh tế cho VNCH.
Washington lập tức khuyến cáo chính phủ Sài G̣n
phải cắt chi tiêu ngân sách tối đa, nhất là
chi tiêu quốc pḥng, thí dụ như xăng nhớt và
các căn cứ quân sự. Tổng
thống Thiệu trong lễ khai trương một
bệnh viện tại Sài G̣n hồi 3/1973 Phát
triển Hải Quân VNCH
Hiệp
Định Paris (27/01/1973) được gọi là
"Hiệp Định Da Beo" v́ nó cho phép quân đội
của Miền Bắc đóng lại ở Miền Nam,
và đóng rải rắc khắp nơi như những
đốm da beo trên bản đồ. V́ vậy,
Lục Quân VNCH không được vận chuyển qua
những đốm này, và Không Quân th́ cũng không
được bay trên bầu trời bao phủ nơi
đây. Chỉ
trong ṿng có năm năm, các cơ xưởng của
Hải Quân đă có thể dự trữ tới 64.200
vật liệu và phụ tùng để sửa chữa
và bảo tŕ cho 1.429 tầu chiến - từ Khu Trục
Hạm, Tuần Dương Hạm tới Dương
Vận Hạm, Xà Lan chở dầu. Hệ thống
tiếp liệu của Hải Quân c̣n được
Bộ Quốc Pḥng Mỹ đánh giá là lớn lao
nhất và hiệu quả nhất Đông Nam Á. Khi
quân viện bị cắt vào Hè 1974 th́ khả năng hùng
hậu ấy tuy bị suy giảm v́ thiếu phụ tùng
bảo tŕ và xăng nhớt, nhưng hoạt động
bị ảnh hưởng nhiều nhất là công tác
tuần giang: kiểm soát sông ng̣i và sát ven biển.
Hải Quân phải giải tán 600 giang thuyền, trong
đó 240 giang thuyền thuộc quyền xử dụng
của Địa Phương Quân, nhưng lực lượng
và khả năng các loại hải hạm vẫn c̣n
nguyên vẹn: 93 tầu biển và trên 1.300 tầu
loại nhỏ. Ngoại trưởng
Mỹ William Rogers (1969-1973) kư hiệp định ḥa b́nh
Paris tháng Giêng 1973 Mỹ đề
nghị rút chiến hạm khỏi Trường Sa
Trong
bối cảnh quân viện bị cắt thật nhanh,
Mỹ đề nghị rút chiến hạm khỏi Trường
Sa và đóng cửa một số cơ sở của
Hải Quân ở Vùng IV. Trở lại buổi họp
với Tướng John Murray trên đây: ông nói: sở
dĩ phải đề nghị như vậy v́ đă
nhận được chỉ thị từ Washington
về vấn đề cắt giảm chi tiêu, thực
tế nhất là tiết kiêm xăng nhớt v́ giá
dầu đă tăng lên gấp bốn lần sau
cuộc chiến Do Thái - Ai Cập vào mùa Thu năm trước. Đây
là vấn đề quân sự, nhưng lúc ấy v́
một t́nh cờ chúng tôi mới biết được
đề nghị của Tướng Murray v́ nó liên
hệ tới ngân sách viện trợ (là lănh vực
của chúng tôi). Trong một báo cáo gửi TT Thiệu,
ông Murray đề nghị nên rút chiến hạm ra
khỏi Trường Sa và đóng cửa bốn căn
cứ Hải Quân ở vùng Đồng bằng Cửu
Long, chúng tôi c̣n ghi lại rất rơ ràng: "Ngoài
Xưởng Đóng tầu và Trung tâm tiếp liệu,
chúng tôi thấy Hải Quân VNCH có bốn loại cơ
sở: những căn cứ yểm trợ hành quân,
yểm trợ chuyển vận, yểm trợ nhanh
(immediate-support bases - ISB's), và những cơ xưởng
sửa tầu. Trong số này, chúng tôi thấy VNCH nên
đóng lại những cơ sở sau đây để
tiết kiệm tiền bạc và tăng hiệu năng: 1.Căn
cứ yểm trợ hành quân ở Cần thơ; 2.Hai
căn cứ yểm trợ hành quân tại Vĩnh Long,
và Long Phú; 3.Hai
căn cứ sửa tầu ở Cửu Long và Cần
Thơ; và 4.Hai
căn cứ yểm trợ nhanh ở Chợ Mới (An
Giang)và Thuận An (B́nh Dương)." TT
Thiệu hành động ngược lại, ra lệnh
bảo vệ Trường Sa Cố vấn
Henry Kissinger và ông Lê Đức Thọ tại Paris, 1973 --thứ
nhất, nguyên tiền xăng nhớt cho hai chiến
hạm ở đây đă tốn tới nửa
triệu đôla một năm, một khoản tiền
lớn lúc đó v́ ngân sách quốc pḥng đă
cạn; và --thứ
hai: thả neo ở Trường Sa là không cần
thiết v́ "Hải
Quân của Bắc Việt không thể nào vào tới
tận Trường Sa." Họp
xong, tôi vội vào Dinh Độc lập báo cáo với
TT Thiệu. Ông nh́n tôi, lắc đầu và nói: "Bắc
Việt không thể nào vào tới Trường Sa nhưng
sau Hoàng Sa, Trung Cộng đă ngừng để
nghỉ ngơi, tái phối trí, nhưng rồi sẽ
tiến thẳng tới Trường Sa." Chúng
tôi cho rằng: sở dĩ ông nhất quyết như
vậy - dù đă sắp hết tiền mua xăng -
một phần cũng v́ ông muốn bảo vệ kho tàng
dầu lửa. Lúc ấy th́ chưa ai biết được
rằng khi ông ra lệnh khai hỏa ở Hoàng Sa vào
đầu năm 1974 th́ Bộ Ngoại Giao Mỹ dưới
quyền Bộ trưởng Henry Kissinger đă gửi
chỉ thị cho ṭa Đại sứ ở Sàig̣n là
phải can ngăn ông Thiệu "đừng có đụng
độ thêm nữa với lực lượng Trung
Quốc về mấy ḥn đảo này." (Kissinger
là người đă tác động TT Richard Nixon
cứu vớt Trung Quốc khỏi bị Liên Xô tấn
công nguyên tử vào năm 1969, rồi mở cửa
Bắc Kinh, đóng cửa Sàig̣n, và giúp cho Trung
Quốc trở nên một cường quốc như ngày
nay). Quân Nam Hàn ra
về tháng Hai 1973 Bởi
vậy TT Thiệu đă ra lệnh cho Hải Quân
đưa những chiến hạm mạnh mẽ
nhất tới Trường Sa để chuẩn bị
khai hỏa. Rút tỉa bài học từ Hoàng Sa, rất
có thể là ông cũng đă có kế hoạch sử
dụng không quân ngay từ đầu cuộc chiến
để bắn ch́m tầu Trung Quốc chứ không
đợi tới sau hải chiến. Nhắc
lại về trận Hoàng Sa: cuối ngày hải
chiến (19/01/1974) vào 8 giờ tối TT Thiệu ra
mật lệnh cho Không Quân dùng phản lực cơ
chiến đấu siêu thanh F5-E để phản công.
V́ F5-E có trang bị bom tầm nhiệt nên chắc
chắn những phi vụ này đă thành công v́
chiến hạm Trung Quốc phun khói nóng, giầy đặc
góc trời. Ngày hôm sau đoàn phi công đă cất cánh,
nhưng vừa bay được khoảng trên một
trăm dậm th́ phải quay về ví áp lực từ
Đệ Thất Hạm Đội yêu cầu ngừng
kế hoạch oanh tạc, nhấn mạnh rằng
sẽ không có 'top cover' - yểm trợ trong trường
hợp bị phi cơ của Trung Quốc từ căn
cứ ở Hải Nam bay lên để không chiến, và
cũng không có "rescue" - cứu vớt nếu
bị bắn rơi (xem tường thuật của
Đại tá phi công Nguyễn Quốc Hưng trong
cuốn Khi Đồng Minh Nhảy Vào, Chương 25). Phản
hồi lại giai thoại này, chúng tôi thấy rơ lư do
TT Thiệu cương quyết như vậy là v́ ngay
sau lớp chiến hạm của Hải Quân là các công
ty quốc tế đang hoạt động rất thành
công trong việc t́m kiếm dầu lửa, dầu khí.
Theo ước tính th́ cuối năm 1975 sẽ có
tới 20 giàn khoan hoạt động. Hai hăng Esso và
Sunningdale lại c̣n dự định bắt đầu
khoan dầu vào ngay tháng Tư 1975. Tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu dự một sự kiện tháng 3/1973 Niềm hy
vọng dang dở
Triển
vọng dầu lửa th́ đă trở nên lạc quan
ngay từ Hè 1974. Ngày 17/08/1974 hăng Pecten đào trúng
dầu ở lô 08-TLD, đặt tên là HỒNG -X.
Rồi giếng thứ hai, đặt tên là DỪA 1-X.
Pecten rất vui mừng, quyết định tiến hành
khai thác ngay lô 06-LTD, t́m thấy có dấu hiệu c̣n
khả quan hơn nữa. Tin mừng cứ thế mà
đến. Ngày
11/02/1975, hăng Mobil đào tới độ sâu 3.000 mét,
thu được 430 thùng dầu/ngày cùng với 5.600 mét
khối dầu khí. Bảy ngày sau, lại thu được
2.400 thùng dầu và 25.000 mét khối dầu khí. Kết
quả này được liên doanh Mobil - Kaiyo đánh giá
là rất có triển vọng. Mobil ước tính
chỉ tới 1977 sẽ khai thác được lượng
dầu thương mại khả quan tại mỏ này.
Tin vui được gửi nhanh về Sài G̣n: biết
đâu biết đâu đấy, chỉ trong vài ba năm
sẽ có thể xuất cảng tới 1 tỷ đôla
mỗi năm (tương đương 4,3 tỷ đôla
năm 2020), triển vọng cho một Miền Nam trù phú
có thể tự lực, tự cường mà không c̣n
phải nhờ vả vào người đồng minh Hoa
Kỳ nữa, đă thực sự tới. Ngày
24/02/1975 (chỉ trên hai tháng trước sụp đổ)
Việt Tấn Xă từ Sàig̣n loan tin: "Hôm
nay, 15 giờ, thứ hai, tổng thống Việt Nam
Cộng ḥa Nguyễn Văn Thiệu đă rời Sài G̣n
đi quan sát giếng dầu Bạch Hổ-IX được
khoan cách Sài G̣n chừng 200 cây số về hướng
đông nam trên thềm lục địa Việt Nam. Cùng
tham dự với tổng thống hôm nay có Thủ tướng
Chính phủ Trần Thiện Khiêm, ông Tổng trưởng
Kế hoạch Nguyễn Tiến Hưng, ông tổng
cục trưởng Dầu hỏa và khoáng sản
Trần Văn Khởi và ông Tổng giám đốc
Mobil Vietnam Peter Gelpke." Trên
chuyến bay ra khơi, xa xa khi nh́n thấy ngọn
lửa cháy sáng rực trời từ những ống khí
trên giàn khoan, vẻ mặt ông Thiệu tươi vui
hẳn lên. Ông đăm đăm nh́n thật chăm
chú. "Bao giờ th́ mới thực sự có
dầu," ông quay lại hỏi tôi. "Thưa
Tổng thống, theo Bộ Kinh tế ước tính
dựa trên những thông tin của các hăng thăm ḍ th́
muộn lắm là tới cuối năm 1977," tôi
trả lời. Trong bối cảnh chiến trường
bắt đầu sôi động, kinh tế khủng
hoảng, đồng thời lại liên tục nhận
được những tin tức đen tối cúp
viện trợ từ Washington, ngọn lửa nghi ngút
thoát ra từ những ống dầu khí ngoài khơi
đă chiếu rọi được một tia sáng hy
vọng vào tâm trí người lănh đạo Miền
Nam. Trên
giàn khoan, khi chuyên gia tŕnh bày về khả năng
sản xuất, ông Thiệu lắng nghe mọi chi
tiết. Người chuyên gia kết luận rằng
nếu có thêm sự khuyến khích th́ các hăng có
thể tăng phương tiện để khai thác
nhanh hơn. "Khuyến khích làm sao," ông nh́n tôi
hỏi. Tôi tŕnh bày rằng có thể xem xét lại
hợp đồng rồi cho họ chia phần thật
cao, hoặc nghiên cứu khía cạnh thuế má để
cho họ ưu đăi nhiều hơn khi họ bắt
đầu xuất cảng. Ông Thiệu đồng ư
ngay: "Được chứ, được
chứ." Quân đội VNCH năm 1973 Ghi chú cho
lịch sử về Trường Sa
Hồi
tưởng tới giai thoại này, chúng tôi xin ghi
lại một chú thích cho lịch sử: khi tháp tùng TT
Thiệu ra thăm giàn khoan như đề cập trên
đây, chúng tôi có được nghe chuyên gia của hăng
đào dầu thuyết tŕnh về tiềm năng
dầu lửa của Trường Sa tuy là lớn lao nhưng
bị ṛ rỉ: "Mỏ
dầu vĩ đại của các ông dính liền
với mỏ dầu của Indonesia, cho nên các ông
rất thiệt tḥi nếu không gấp rút khai thác." Indonesia
là thành viên của OPEC. Thu nhập từ xuất
cảng dầu chính là động lực phát triển
kinh tế của nước này. Hoạt động
khai thác đă bắt đầu ngay từ năm 1871
ở Bắc Sumatra, như vậy là lâu vào hàng nhất
thế giới. Năm 1973/1974 khi giá dầu thô tăng lên
gấp bốn lần, Indonesia được hưởng
số ngoại tệ cũng tăng theo gấp bốn
lần, quốc tế gọi là "oil bonanza."
Đang khi đó, Miền Nam Việt Nam điêu đứng
v́ băo tố siêu lạm phát đă ập tới.
Miền Bắc th́ không bị ảnh hưởng v́ có
Liên Xô cung ứng xăng dầu theo hiệp định
giữa hai nước kư kết vào năm 1968. Dân
gian ta thường nói: "nước ta có tiền
rừng bạc biển." Tiền rừng th́
chẳng có là bao, vả lại khai thác gỗ quư mà
xuất cảng th́ lại phá hủy hệ sinh thái, nhưng
tiềm năng bạc biển th́ thật lớn. Cho nên,
nếu những giếng dầu của Việt Nam
thực sự nối kết với những giếng
của Indonesia - như chúng tôi được nghe
từ các chuyên gia - th́ thật là thiệt tḥi cho người
dân Việt. Như
vậy là Indonesia đă khai thác dưới ḷng biển
từ cả trăm năm rồi, bây giờ th́ Trung
Quốc khai thác - vừa ở dưới vừa ở
trên mặt biển. Biển Đông trong câu chuyện hôm nay
Đục
nước béo c̣:
khi cả Việt Nam, cả Mỹ, và hầu hết các
quốc gia trong khu vực đang ch́m đắm trong
cảnh điêu linh Covid-19, Bắc Kinh công bố thành
lập hai huyện đảo để kiểm soát
cả Hoàng Sa lẫn Trường Sa, rồi tăng
tốc gây hấn ở Biển Đông. Philippines
vừa cực lực phản đối việc Bắc
Kinh tuyên bố một phần lănh thổ Phi là
thuộc về tỉnh Hải Nam. Nối
kết Hải nam với Hoàng Sa, rồi Trường Sa,
rồi Scarborough của Philippines th́ "Vạn Lư Trường
Thành trên biển" mà Trung Quốc quyết tâm
thiết kế đă sắp hoàn thành. Đối
với Mỹ th́ khu vực này là rất quan trọng, v́
không những nó nằm sát đường vận
chuyển hàng hải quốc tế chính yếu mà c̣n là
tuyến pḥng thủ miền Tây của nước
Mỹ - như TT Lyndon Johnson đă từng tuyên
bố:
"Nếu bỏ khu vực Biển Đông th́ Mỹ
tất phải rút về San Francisco." Câu
hỏi nhiều người đặt ra là tại sao
Mỹ không phản ứng trước những hành
động mới đây của Trung Quốc? Thực
ra th́ TT Trump đă
phản ứng trong thời gian gần đây.
Mặc dù mất ăn mất ngủ trong bốn tháng
bị Hạ Viện với đa số Dân Chủ
điều tra để băi nhiệm - và truyền thông
được cơ hội tấn công ào ạt,
tiếp đến là nạn dịch Covid-19, ông cũng
đă hành động khá mạnh mẽ trong vụ TQ -
VN và TQ - Malaysia ở Biển Đông, cảnh cáo TQ không
được dùng pandemic để gây rối loạn,
cũng như vừa cùng Australia đi vào các đảo
TQ đang chiếm đóng, và tàu Mỹ vừa đi qua
Eo biển Đài Loan lần thứ hai trong tháng Tư này. Mặt
khác, bầu cử đă sắp tới, ông Trump cũng
không muốn làm mạnh để không có lơi cho ḿnh. Lịch
sử Mỹ đă chỉ ra rằng: cứ bốn năm,
khi có cuộc bầu cử tổng thống th́ chính
quyền đương nhiệm phải tự kiềm
chế những hành động có tính cách hiếu
chiến, và t́m đủ mọi cách để mang
viễn tượng ḥa b́nh đến cho dân chúng
Mỹ th́ mới mong thành công. Điều này th́ TQ cũng
đă biết quá rơ. Cho nên, ta phải chờ sau
bầu cử (3/11/2020) th́ mới có câu trả lời rơ
ràng hơn. TS
Nguyễn Tiến Hưng |