Siêu
mẫu hạm Mỹ vào Đà Nẵng: Bốn bước
ngoặt cuả bang giao Việt – Mỹ
Nguyễn Tiến Hưng |
Tác giả Nguyễn Tiến Hưng Khi nghe tin hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson
vào Đà Nẵng tháng Ba, 2018, tôi tự hỏi: tại
sao không phải Cam Ranh mà là Đà Nẵng, và tại
sao lại tháng Ba? Nh́n lại lịch sử th́ ta thấy cái
địa danh Đà Nẵng hay gắn liền với
những bước ngoặt của chiến lược
Mỹ tại Biển Đông. Mà kể cũng lạ, những bước
ngoặt ấy lại có một sự trùng hợp:
đó là nó thường hay xảy ra vào tháng Ba:
Bây giờ - tháng Ba, 2018 – siêu hàng không mẫu
hạm cập cảng Đà Nẵng. Liệu nó có
đánh dấu một bước ngoặt khác hay không? Trước hết ta nh́n lại những
mốc lịch sử của Đà Nẵng liên hệ
tới chiến lược của Mỹ: Cuối năm 1964, dù sau khi
đă đại thắng trong cuộc bầu cử
tổng thống vào tháng 11, nhiều người khuyên
ông nên có hành động mạnh ở Việt Nam nhưng
ông vẫn tiếp tục tự chế. Nhưng rồi biến
cố Pleiku đă thay đổi hẳn lập trường
của ông. Cuộc tấn công vào doanh trại cố
vấn Mỹ tại Pleiku và căn cứ trực thăng
Holloway (cách đó khoảng bốn dặm) vào lúc
2:00 giờ sáng ngày 7 tháng 2, 1965 đă gây nên thiệt
hại lớn : trong số 137 quân nhân Mỹ ở căn
cứ này th́ 9 người bị tử thương và
76 người bị trọng thương. Những
tổn thất về thiết bị cũng rất
nặng nề: 16 trực thăng và 6 máy bay các loại
khác bị hư hại. Đó là cuộc tấn công
lớn nhất vào các cơ sở của Mỹ tại
miền Nam Việt Nam cho tới thời gian đó. Nó đă đưa tới
một quyết định mau lẹ của Tổng
thống Johnson để trả đũa. Ông nhóm
họp Hội Đồng An Ninh Quốc Gia và nói: “Tôi
đă gác khẩu súng ở phía trên ḷ sưởi và
cất đạn ở dưới hầm nhà từ lâu
rồi, nhưng địch quân đang giết hại
người của ta... Hèn nhát đă đưa chúng ta
vào nhiều cuộc chiến hơn là trả đũa:
nếu như Hoa kỳ đă mạnh dạn hơn ngay
từ đầu th́ đă tránh được Thế
Chiến I và II.” Sau đó ông cho
khởi động chiến dịch Rolling Thunder:
từng lớp máy bay khu trục bay xuyên qua những
đám mây dầy đặc tới oanh tạc các doanh
trại Bắc Việt cách Vĩ tuyến 17 khoảng 40
dặm về phía bắc tại Đồng Hới.
Việc trả đũa này đă bắt đầu
một chiến dịch oanh tạc kéo dài với
Linebacker I và Linebacker II. Đưa nhiều máy bay
oanh tạc vào tham gia cuộc chiến th́ phải
bảo vệ phi trường Đà Nẵng và khu
vực chung quanh phi trường để tránh bị pháo
kích như ở Pleiku. V́ vậy Washington tính đến
việc mang quân vào để đáp ứng. Nhưng nếu mang quân tác
chiến vào th́ vi phạm Hiệp định Geneve và có
khả năng là chiến tranh sẽ leo thang. Bàn đi bàn lại
thật kỹ nhưng rồi Washington đi tới
kết luận phải chấp nhận mọi rủi
ro. Ngày 23 tháng 2 năm 1965,
tại Sài G̣n, Tướng Westmoreland đề nghị
với Tư lệnh Thái B́nh Dương và Bộ
Tổng Tham Mưu: “Đưa một Lữ
đoàn Viễn chinh Thủy Quân Lục Chiến MEB
(Marine Expeditianory Brigade) để giữ an ninh cho Đà
Nẵng. Việc đưa quân vào tiếp theo sẽ
được triển khai theo từng giai đoạn,
tùy thuộc vào sự đồng ư của thượng
cấp trên căn bản chính trị. Đại sứ
Taylor cũng sẽ đề nghị đưa một
đội Tiểu Đoàn Đổ Bộ BLT (Battalion
Landing Team) vào Đà Nẵng ngay.” Ngày 26 tháng 2 năm 1965,
Bộ Ngoại giao Mỹ gửi Sứ quán tại
Việt Nam: “Thượng cấp đă
có quyết định tiến hành đổ bộ cùng
một lúc một đơn vị MEB, một đơn
vị BLT, và một phi đội trực thăng...
rồi sẽ thêm BLT thứ hai, tất cả đều
trong Khu vực Đà Nẵng ...” Ngày 8 tháng Ba, bốn con
tầu USS Henrico,
Union, and Vancouver đưa một lữ đoàn 3,500
TQLC vào đổ bộ ở băi biển “Red Beach.” Hành động này là bước ngoặt quan trọng
nhất trong cuộc chiến: sự thay đổi chiến lược
từ trợ giúp, cố vấn trong chiến tranh du kích,
chống nổi dậy (counterinsurgency) tới chiến lược
đem đại quân tác chiến (combat troops), tham gia
trực tiếp vào cuộc chiến. Lữ đoàn TQLC Viễn
chinh Số 9 đă là đội tiền phong dẫn
đường cho trên một nửa triệu quân nhân
Mỹ vào Việt Nam. Tháng
Ba, 1973: rút khỏi Đà Nẵng Theo Hiệp định Paris
kư kết ngày 27 tháng 1, 1973 th́ Mỹ phải đơn
phương rút khỏi Miền Nam. Điều
5 quy định:
“Nội
trong 60 ngày sau khi bản Hiệp Định được
kư kết, tất cả quân đội, cố vấn
quân sự, và nhân viên dân chính làm việc cho quân đội...
phải được hoàn toàn triệt thoái khỏi
miền Nam Việt Nam...” V́ Hiệp định
được kư ngày 27 tháng 1 cho nên ngày 27 tháng Ba là
hạn chót của việc rút quân. Vào thời điểm
ấy th́ một số quân đội Mỹ c̣n đóng
ở Đà Nẵng. Điều
6 của Hiệp định quy định thêm: “ Các căn cứ quân sự
ở miền Nam Việt Nam của Hoa Kỳ và các
quốc gia khác, đă dẫn ở Điều Một,
phải được giải tỏa trong hạn 60 ngày,
sau khi Hiệp định được kư kết.”
Đà Nẵng là căn cứ không quân quan trọng
nhất yểm trợ hai Quân Khu I và II. Nó đă
được chọn để tổ chức một
nghi lễ biểu tượng quan trọng: lễ
hạ lá cờ Mỹ và mang đi, đánh dấu
việc chấm dứt sự có mặt của quân
đội tác chiếnMỹ tại Miền Nam. Lễ nghi được
diễn ra rất trang trọng với sự hiện
diện của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng.
Việc “Cuốn Cờ” (Flag Folding) đă theo đúng
thủ tục gồm năm bước, bắt đầu
bằng việc trải lá cờ ra cho thật thẳng
và gấp lại theo chiều dài lần thứ nhất
(độc giả vào mạng xem để t́m hiểu
thủ tục cầu kỳ và đầy ư nghĩa này).
Tháng
Ba, 1975: Lănh sự cuối cùng rời Đà Nẵng Tuần lễ cuối tháng
Ba, sau khi có tới gần một triệu người dân
từ Huế, Quảng Trị và vùng lân cận di
tản đổ dồn và tràn đầy Đà
Nẵng, thành phố này bị tràn ngập và hỗn
loạn trước sự tiến quân của quân đội
Bắc Việt. T́nh h́nh an ninh trở nên tuyệt
vọng. Mỹ điều động
hai con tầu Pioneer Contender và
Miller tới hải cảng Đà Nẵng để
giúp di tản những nhân viên Mỹ làm ở Ṭa Lănh
sự với hàng trăm ngàn người Việt. Ngoài
số tầu biển c̣n có chiếc máy bay Boeing 727
của hăng hàng không Air America đă hạ rồi
cất cánh trong cảnh hỗn loạn tại phi trường
Đà Nẵng. Sau cùng th́ viên lănh sự
Mỹ, ông Al Francis đă
ra đi bằng đường biển. Sự tham gia của Mỹ
vào cuộc chiến Việt Nam đến đây đă
chấm dứt hoàn toàn. Tháng
Ba, 2018: hàng không mẫu hạm vào Đà Nẵng Mỹ
đi rồi Mỹ lại về... vào Đà Nẵng? Lich
sử sẽ ghi nhận sự kiện này thế nào? Ta có thể tạm thời
nhận xét như sau: Thứ
nhất,
về chiến lược ở Biển Đông : Mỹ đang xúc tiến cho
thật nhanh diễn tiến ‘Xoay Trục.’ Như chúng
tôi đă đề cập trong cuốn ‘Khi Đồng
Minh Nhảy Vào’: hoàn cảnh lịch sử hiện
nay hết sức khó khăn. Nó khác hẳn với hoàn
cảnh trong những thập niên 60 và 70. Trong hai
thập niên ấy, chiến lược của Mỹ là
“ngăn chận Trung Quốc,” c̣n bây giờ là
phải “trực diện đối đầu
với Trung Quốc.” Từ khi Mỹ rút khỏi
Đài Loan, rồi mặc kệ, không giúp Miền Nam
Việt Nam trong việc bảo vệ Hoàng Sa chống
Trung Quốc, và sau đó là bỏ rơi Miền Nam, TQ
hết bị ngăn chận nên đă thực sự tràn
xuống Biển Đông và đang thâu tóm trọn
vẹn khu vực này, tiến tŕnh theo đúng như
thuyết Đôminô. Nhưng Xoay Trục khó có
thể hoàn thành mau lẹ và thành công nếu không có
sự cộng tác của Việt Nam, v́ đây là “địa
điểm chiến lược quan trọng nhất”
như Bộ Quốc Pḥng Mỹ đă xác định
ngay từ đầu thập niên 50 (xem ‘Khi Đồng
Minh Nhảy Vào,’ Chương 2). V́ vậy Mỹ muốn thúc
đẩy hợp tác quân sự chặt chẽ hơn
đối với Việt Nam. Thông cáo chung về
chuyến viếng thăm Việt Nam của TT Trump tháng
11, 2017 xác định hai điểm:
Lưu ư độc giả
một điểm có ư nghĩa: cho tới nay, chúng tôi
thấy tất cả truyền thông quốc tế đều
loan tin sai lầm rằng “đây là hàng không mẫu
hạm đầu tiên cập bến Việt Nam kể
từ năm 1975” hay “kể từ sau cuộc
chiến,” hay “kể từ khi chiến tranh kết thúc
cách đây hơn 40 năm.” Không đúng, đây là lần
đầu tiên kể từ trước tới nay.
Trong Chiến tranh Việt Nam, nhiều hàng không mẫu
hạm Mỹ như USS Constellation, Hancock, Ticonderoga có tham
chiến, nhưng chỉ đậu ở Subic Bay (Phi
Luật Tân), Yokosuka (Nhật Bản) hay thả neo ở
ngoài khơi, chưa bao giờ vào Đà Nẵng (hay Cam
Ranh). Năm 1964 chỉ có một hàng không mẫu
hạm USS Card chở quân trang, quân cụ và
thiết bị vào Sài G̣n (và bị đánh bom). Nhưng
tầu này nhỏ, thuộc vào loại hộ tống Bogue,
cũ kĩ v́ sản xuất từ năm 1941. Đưa nhiều hàng không
mẫu hạm, chiến hạm vào Biển Đông th́
cần phải có cơ sơ hỗ trợ từ đất
liền – hải cảng, sân bay, bảo tŕ, tiếp
vận xăng nhớt, thực phẩm, tiện nghi.
Những cơ sở ấy th́ thực tế nhất,
tiện lợi nhất là vùng duyên hải của
Việt Nam – đặc biệt là Cam
Ranh và Đà Nẵng. Đây là hai nơi mà Mỹ
đă xây cất, xử dụng trong nhiều năm nên
đă quá quen thuộc. Nhưng tại sao Mỹ không
đưa hàng không mẫu hạm vào Cam Ranh có vịnh
nước sâu mà lại đem vào Đà Nẵng?
Về phương diện logistic, tầu Carl Vinson quá
lớn, khó mà thả neo ở Hải cảng Quốc
Tế Cam Ranh. Lại nữa, có thể v́
lư do Thành phố Đà Nẵng có giá trị tượng
trưng cho vai tṛ của người Mỹ ở
Việt Nam trước đây - qua các biến cố như
đă đề cập. Ngoài ra, c̣n có khả năng là
sẽ có đông dân chúng Việt Nam chào đón USS Carl
Vinson, giống như thời xưa (1965) có các thiếu
nữ ra băi biển choàng hoa lên cổ các chiến sĩ
thuỷ quân lục chiến Mỹ, hay gần đây
nhiều người Việt leo lên chiến hạm
Mỹ do hạm trưởng người Mỹ gốc
Việt lái tới Đà Nẵng, hoan hỉ đón
tiếp. Và như vậy là để
nêu cao sự ủng hộ của nhân dân Việt Nam
đối với cuộc thăm viếng hữu
nghị này? Xác định xong về
cuộc viếng thăm là có hành động cụ
thể ngay: tại Hà
Nội ngày 25 tháng 1, Bộ trưởng Quốc Pḥng
Jim Mattis đă chính thức tuyên bố là sự
việc này sẽ diễn ra vào tháng Ba. Hè 1974 chúng tôi có dịp thăm
viếng Trung Tâm Hành Quân của Đệ Thất
Hạm Đội ở Honolulu và được chỉ
dẫn về các hoạt động chính yếu
của một hàng không mẫu hạm. Các chuyên gia cho
thấy: việc điều khiển một hàng không
mẫu hạm trên đại dương, nhất là giữa
một cuộc chiến là hết sức phức
tạp, nó đ̣i hỏi nhiều kỹ năng và
kinh nghiệm. Nguyên công tác “roping” (buộc giây,
thả neo) đă rất phức tạp. Rồi đến
việc điều khiển từng lớp khu trục
cất cánh, hạ cánh, đến công tác pḥng không,
chống tầu ngầm, điều hợp với các
tầu hộ tống, với trung tâm hành quân và các
lực lượng hỗ trợ từ trên bờ. Ngoài số lượng, TQ
chưa bao giờ có kinh nghiệm về hải chiến
lớn chứ chưa cần nói tới hàng không
mẫu hạm. Trong Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953),
khi đoàn quân của Tướng Mỹ Douglas MacArthur
từ ngoài khơi đổ bộ vào hải cảng
chiến lược Inchon (phía tây của Nam Hàn,
khoảng 100 dặm về phía nam vĩ tuyến 38 và 25
dặm từ Seoul) vào ngày 15/9/1950, quân đội TQ và
Bắc Hàn phải vội vă cuốn gói rút về qua vĩ
tuyến 38. Tới Trận Hoàng Sa: tuy là
nhỏ mà TQ cũng đă bị Hải Quân VNCH gây
tổn thất nặng nề. Ngược lại,
Mỹ th́ đă có kinh nghiệm về đại
hải chiến và xử dụng hàng không mẫu
hạm từ cả một thế kỷ: trong
Đệ Nhất, rồi Đệ Nhị Thế
Chiến, tới chiến tranh Triều Tiên, chiến
tranh Việt Nam, và ngày nay, chiến tranh vùng Trung Đông.
TQ có nhiều tiền, có thể mua tất cả
những khí giới tối tân trên thế giới này
nhưng không thể nào mua được một
thế kỷ kinh nghiệm về đại hải
chiến. Mở
ra một chương lịch sử mới? Như chúng tôi đă có
dịp đề cập trước đây, trong
chuyến công du tại Hà Nội năm 2016, TT Barrack
Obama đă gợi ư về trang sử mới này khi ông
trích Nguyễn Du trong truyện Kiều: "Rằng trăm năm
cũng từ đây. Của
tin gọi một chút này làm ghi" Tiếp theo, TT Trump đă
đi thẳng vào vấn đề và phát biểu “Chúng
ta đă gắn kết dần với nhau để t́m
được những mục tiêu chung,
những lợi ích chung. Và đó là điều
đang diễn ra. Chúng tôi tới đây hôm nay để
tái khẳng định những gắn
kết đó.” Thông cáo chung cũng xác
định việc“mở rộng quan hệ đối
tác toàn diện giữa hai nước trên cơ
sở ...các lợi ích chung và mong muốn chung.” Tại Hà Nội ngày 25 tháng
1 vừa qua, Bộ trưởng QP Jim Mattis đă cám
ơn Việt Nam về sự phát triển của quan
hệ đối tác ấy, qua việc hàng không
mẫu hạm tới Đà Nẵng (nguyên văn:
“Thank you for increasing partnership, with our aircraft carrier coming
into Danang here in March” ). Thứ
tư,
tác động vào đồng minh: qua hành động này, Mỹ cũng
muốn gián tiếp trấn an các quốc gia đồng
minh tại Á Châu . Họ đang lo ngại về
quyết tâm của Mỹ. Lại nữa, cho tới nay
chính sách ngoại giao của TT Trump chưa rơ ràng
về Biển Đông. Bây giờ, với việc
tầu USS Carl Vinson cập bến Đà Nẵng - lần
đầu tiên trong lịch sử Việt Nam (nhắc
lại, lần đầu tiên trong lịch sử
Việt Nam chứ không phải từ khi cuộc
chiến kết thúc năm 1975 như truyền thông
thế giới đă loan tin) - bất chấp sự
phản đối của TQ, đồng minh Á Châu
sẽ thấy – từng bước một - chính
quyền Trump có lập trường bảo vệ
Biển Đông - bằng hành động - và
cứng rắn hơn thời TT Obama nhiều. Đă không phải là
ngẫu nhiên mà TT Trump lại tăng thuế mạnh
tới 25% vào nhập cảng thép (phần lớn là
từ TQ) cùng một thời điểm với sự có
mặt của siêu hàng không mẫu hạm ở Đà
Nẵng - ngay sát Hoàng Sa và chỉ cách căn cứ
hải quân lớn của TQ trên 400 km. Thứ
năm:
lợi ích chiến thuật: đó là để chính thế hệ
trẻ của hải quân Mỹ - những quân nhân
mới vào cuộc sau chiến tranh Việt Nam, gồm
cả trên hai lữ đoàn trên USS Carl Vinson có dịp làm
quen với băi biển, hải cảng và sân bay Đà
Nẵng. Cách đây 6 năm, khi thấy Mỹ trực tiếp giúp
Việt Nam dọn dẹp, làm sạch chất độc
da cam tại sân bay Đà Nẵng vào mùa hè 2012 (mà không
phải trên dẫy Trường Sơn), chúng tôi cho
rằng Mỹ khó mà quên được cái địa
danh Đà Nẵng. Rơ ràng là bang giao mang tính chiến lược và
tiến tới toàn diện Việt - Mỹ đă đi
được một bước đáng ghi nhận. Tuy nhiên, bước ấy dài hay ngắn th́ c̣n tùy
thuộc vào việc có hay không những hành động
có thực chất tiếp theo. Cụ thể, ta có để
đặt câu hỏi liệu sẽ có những
cuộc tập trận giả, thao diễn quân sự
Việt - Mỹ có tầm cỡ lớn với sự
tham gia của Hải Đội Tấn Công USS Carl Vinson
trong năm 2018 hay không? Thay lời cuối: hôm nay, ngày 6/3/1018 thấy trên mạng
chiếu cảnh người dân Đà Nẵng bắt
nhịp với ban nhạc Hạm Đội 7 hát bài “Nối
ṾngTay Lớn” tôi không thể không nghĩ tới
khả năng rằng: biết đâu biết đâu
đấy, một trang sử mới của bang giao
Việt-Mỹ đă thực sự bắt đầu -
như cựu TT Obama đă có dịp gợi ư:
“Rằng trăm năm cũng từ đây?” Muốn cho chương lịch sử này kéo dài và
bền vững th́ nó phải dựa trên căn bản
dài lâu và vững chắc. Căn bản ấy chính là quyền lợi hỗ tương
của cả hai nước: chống lại tham
vọng chiếm trọn Biển Đông của Trung
Quốc và bảo vệ tuyến hàng hải vào hàng
quan trọng nhất thế giới ($3,000 tỷ lưu
thông mỗi ngày) – hai mục tiêu hoàn toàn là tự
vệ chứ không phải khiêu khích hay tấn công.
Tuyến hàng hải này nằm chỉ cách vùng duyên
hải của Việt Nam 12 hải lư. Việt Nam, lại một lần nữa có cơ hội
đóng vai tṛ địa chính trị chiến lược
trên thế giới, nhờ vào vị trí nh́n ra Biển
Đông của Đà Nẵng./ Phụ
Lục Thủy
thủ Mỹ Emily Kershaw hát "Nối ṿng tay
lớn" tại Đà Nẵng https://www.facebook.com/RFAVietnam/videos/10156293136684571/ Tối
ngày 5-3-2018, các thủy thủ thuộc ban nhạc
Hạm đội 7 có buổi biểu diễn ngoài
trời ngay đầu cầu Rồng, thành phố Đà
Nẵng và được nhiều người dân hoan
nghênh. Nữ
ca sĩ của ban nhạc này c̣n tŕnh bày nhạc
phẩm "Nối ṿng tay lớn" của cố
nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Bài hát này từng gây
bất ngờ vào tháng 4-2017, khi Cục Nghệ thuật
Biểu diễn cho hay bài hát của cố nhạc sĩ
sáng tác trước năm 1975 chưa được
cấp phép. (theo
RFA) |