Trung Cộng Sẳn Sàng Xâm Chiếm Việt Nam* Bài một Zhang
Xiaoming, |
Bài Học (dân Việt Nam) Phải Nhớ Đời : nhiều kỳ (bài một) Trung
Cộng Sẳn Sàng
Xâm Chiếm Việt Nam*
Zhang
Xiaoming « Si vis
pacem, para bellum -Muốn
được ḥa b́nh, hăy sửa soạn chiến tranh
- Si tu veux la paix, prépare la guerre - if you wish peace,
prepare for war » - Julius
Caesar
(-100 TTC/-44 TTC).
Kính thưa quư thân hữu, quư bà con, Từ bao năm
nay, biên giới lănh thổ, đất nước
Việt Nam đă bị mất mát xâm chiếm khá
bộn rồi, bởi tên láng giềng phương
Bắc. Ải Nam Quan bị đẩy lùi vào đất
Việt, các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa sát
nhập vào huyện Tam Sa của Tàu Cộng, Đảng
Cộng Sản đương quyền hèn với
giặc ác với dân không một lời phản kháng.
Thế nhưng vài tuần qua, lại lên tiếng khi Băi
Tư Chính bị Tàu xâm chiếm … Tại sao ?
Tuồng hát ǵ đây ? Ḥ Quảng hay Hát Tiều, hát
Xẩm ? Dưới
đây xin gởi đến quư bà con một bài
viết, cũng đă xưa rồi, đăng trên The
Observer, ngày 07 tháng 02 năm 2016, của tác giả Zhang
Xiaoming trong một tài liệu nghiên cứu về
cuộc chiến Trung Cộng xâm lược Việt Nam
năm 1979. Nhận định tuy xưa, nhưng ta nên
đọc rơ, để hiểu rằng Hán tộc
đă, từ cả ngàn năm nay, luôn luôn thèm
chiếm Việt Nam và ngày nay Trung Cộng luôn luôn mưu
đồ sẳn sàng xâm chiếm Việt Nam… Chúng ta,
v́ vậy PHẢI có bổn phận, luôn luôn cảnh giác…
Chống Tàu là Yêu Nước ! Chống Tàu để
Việt Tộc Tồn Tại ! Trận
Chiến của Đặng Tiểu B́nh, hay
Cuộc Chiến Tranh Tàu Việt 1979-1991 Zhang Xiaoming, Deng Xiaoping’s Long War: The
Military Conflict between China and Vietnam, 1979-1991
(The University of North Carolina Press, 2015), Chapter 3, pp. 67-89 (22
trang) TS.Phan Văn Song phỏng dịch
Ngày 9
tháng 12 năm 1978, hai Quân khu Quảng Châu và Côn Minh
nhận được chỉ thị phải sửa
soạn quân đội dọc theo biên giới Việt
Nam truớc ngày 10 tháng 1, chuẩn bị cho
một cuộc chiến tranh “hạn chế về
thời gian và không gian” với một “lực lượng
áp đảo”. Ở thời điểm ấy,
rất có nhiều binh sĩ Trung Cộng đă suy đoán
rằng Trung Cộng sẽ tấn công Việt Nam,
tuy nhiên họ không khẳng định được
là họ sẽ đánh thắng hay không ? Thật
vậy, Quân đội Nhơn Dân Giải Phóng của
Trung Cộng (PLA – People Liberation Army ), lúc bấy
giờ, (và cả ngày nay – lời bàn của
dịch giả PVS) chưa từng đánh một
cuộc chiến tranh lớn nào trong gần ba mươi
năm. Do đó, không có một sĩ quan nào từ
cấp tiểu đoàn trở xuống có kinh
nghiệm chiến đấu. Hơn nữa, cuộc Cách
mạng Văn hóa vừa qua đă làm cho tinh
thần và tiếng tăm của PLA xuống mức
thấp nhứt từ truớc tới giờ.
Các nhà lănh đạo Trung Cộng, kể cả
chính Đặng Tiểu B́nh, đều không biết
ǵ về khả năng chiến đấu của PLA.
Trong cái không khí mơ hồ và đầy ảo tưởng
đó, hai Quân khu, Quảng Châu và Côn Minh bắt tay
vào việc vạch kế hoạch chi tiết và
chuẩn bị cho cuộc xâm lăng vào Việt Nam.. - Trung
Cộng chưa từng lập kế hoạch
đánh Việt Nam, và quân đội Trung Cộng chưa
bao giờ chuẩn bị cho một cuộc hành quân
to lớn như vậy ! Lúc bấy giờ, lực
luợng vơ trang của Trung Cộng (dưới
thời Đặng Tiểu B́nh) quân số c̣n thiếu,
trang bị c̣n kém và huấn luyện c̣n rất tồi.
Và khó khăn nghiêm trọng nhứt là sự thiếu
tinh thần chiến đấu. Rất nhiều binh sĩ
Tàu tự hỏi tại sao họ lại đi tấn công
một nước có vẻ giống như Tàu
– và thường được gọi là – nuớc
“đàn em”. PLA phát
triển trên một quan niệm riêng về chiến
tranh và một kiểu cách độc đáo về
thể chế. Phần lớn khái niệm sanh hoạt
quân sự của PLA đều dựa vào học thuyết,
chiến lược và cũng là một sự kế
tục, của việc tuân thủ các nguyên tắc
của chủ nghĩa Mao, kể cả khi đánh
nhau với một kẻ thù « yếu » như
Việt Nam. Tư tưởng quân sự của Mao
dẫn dắt“hệ thống công tác chánh
trị” của PLA ; việc huy động
toàn thể xă hội toàn dân để phục
vụ tất cả các hành động quân sự đóng
một vai tṛ quan trọng trong mọi chỉ
đạo, lập kế hoạch và chuẩn bị
cho cuộc chiến nầy. Các đặc điểm về
thuật dùng binh của PLA trong các chiến dịch
quân sự trong cuộc xâm lăng này cho ta thấy rơ tánh
cách kế tục nầy. Và chuẩn bị cho
cuộc chiến tranh chống Việt Nam là cả
một công cuộc có tầm vóc quốc gia, phục
vụ cho các mục tiêu chiến lược của các
lănh đạo Trung Cộng thời bấy giờ. Các di
sản lư luận và thể chế của PLA* Năm 1979, các
sĩ quan cấp cao của PLA vẫn là các tướng
của Mao, có kinh nghiệm chiến đấu
trong chiến tranh chống Nhựt, nội chiến
với Quốc Dân đảng, và chiến tranh Triều
Tiên. Họ đă thuộc nằm lòng quan
điểm của Mao đối với mọi
cuộc chiến. Khi lập kế hoạch và chuẩn
bị xâm lược Việt Nam, họ đi theo
đúng các nguyên tắc do Mao đă đề
xuất hồi thập niên 1930 và 1940. Lệnh
của Quân Ủy Trung Ương có chứa
một số những nguyên tắc của Mao, như yêu
cầu hai Quân khu Quảng Châu và Côn Minh “tập
trung lực lượng vượt trội”,
dùng chiến thuật “bao vây và thọc suờn”,
và đánh một “trận đánh hủy diệt”
quyết định. Do đó, muốn t́m hiểu cách
thức PLA áp dụng các di sản về lý
luận và thể chế của Mao trong giai đoạn
lập kế hoạch và chuẩn bị cuộc xâm lược
Việt Nam năm 1979, đ̣i hỏi chúng ta phải xem
xét chính cái nguồn di sản này. Di sản
Mao Trạch Đông trong chiến lược và chiến
thuật* : Quan điểm
quân sự của Mao tập trung vào cách làm thế
nào để một lực lượng kém về
vũ khí, trang bị lẫn huấn luyện
lại có thể đánh bại một đối
thủ vượt trội.
Thực chất của « cách tiếp
cận » của Mao là tạo ra một môi trường
chánh trị để huy động cả nước
và tập hợp sự ủng hộ trong toàn
nhơn dân Tàu cho một cuộc chiến tranh kéo dài.
Một nguyên tắc cốt lõi về lư luận
mà Mao vận dụng trong quan điểm chiến
tranh của họ Mao là “pḥng thủ tích cực”
(jiji fangyu/积极防御 –
tích cực pḥng ngự) thông qua việc “kiên
quyết đánh” bằng cách sử dụng ba nguyên
tắc hoạt động chủ động, linh
hoạt, và có kế hoạch. - Thứ
nhứt, Mao tin rằng nắm lấy và giữ
đuợc thế chủ động là cốt
yếu đối với một lực lượng
yếu hơn trong cuộc chiến bất cân xứng. - Thứ hai,
Mao khẳng định rằng sự linh hoạt là
cốt yếu để đạt được sự
chủ động hoạt động. - Thứ ba,
Mao cho rằng việc lập kế hoạch rơ ràng
và trù liệu được những thay đổi
cần thiết sau này trong cuộc chiến sẽ giúp
vượt qua những nhầm lẫn, những chỗ
tối tăm, và không chắc chắn cụ thể
của cuộc chiến. Mao tin
rằng việc áp dụng những nguyên tắc này
đ̣i hỏi phải có các chỉ huy biết
“sử dụng mọi phương pháp có được
trong tiến hành trinh sát” và “lọc
lựa thông tin” bằng cách “loại cái râu
ria, chọn cái cốt yếu; bỏ cái
giả, giữ cái thật” và sau đó “xử
dụng từ cái này đến cái khác và từ
ngoài vào trong.” Bằng cách xem xét cẩn thận
các mối tương quan giữa các điều
kiện của quân đội của chính ḿnh và
của quân đội đối phương, một người
chỉ huy khôn ngoan có thể “đạt tới
kết luận, quyết định, và đề ra
kế hoạch của ḿnh.” Vào
cuối những năm 1940, khi lực lượng
cộng sản Tàu đang phát triển về quy mô và
sức mạnh sau hơn mười năm chiến
đấu chống lại thù trong giặc ngoài, Mao xác
định lại chiến lược quân sự và lư
luận hoạt động của Trung Cộng, rút
ra bốn nguyên tắc bổ sung: - 1) Tiêu
diệt sức mạnh thực tế của đối
phương (yousheng liliang/有生力量:
hữu sinh lực lượng) chứ không
phải là chiếm giữ một thành phố hoặc
một nơi; - 2) Tập
trung lực lượng vượt trội (jizhong
youshi bingli/集中优势兵力: tập trung ưu thế binh lực)
với các cuộc tấn công trực diện
và bọc suờn đồng thời tránh
bị sa lầy vào một cuộc chiến tiêu hao; - 3) Tạo ra
các chuẩn bị để bảo đảm
chiến thắng trong bất kỳ t́nh huống nào; - 4) chiến
đấu anh dũng trong các trận đánh liên
tục mà không sợ hy sanh hay mệt mỏi. Và PLA đã
sử dụng những nguyên tắc quân sự này
để giành được chiến thắng năm
1949 khi chống lại chế độ Quốc Dân
Đảng, và các nguyên tắc nầy, từ đó
đă trở thành đặc điểm lâu bền
về quan niệm chiến thuật và hoạt động
của PLA (People liberation Army - Quân đội Giải phóng
Nhơn dân) ! Đảng
chỉ đạo : Súng phải đặt dưới
sự kiểm soát của Đảng *: Kể từ
ngày Hồng quân Tàu thành lập vào cuối những năm
1920, Mao đă đặt nặng tầm quan trọng quyền
kiểm soát tuyệt đối của Đảng
Cộng Sản (Tàu) đối với quân đội
rồi ! Mao lúc nào cũng cổ vũ việc
« lồng tổ chức đảng vào trong quân
đội ở tất cả các cấp » để
bảo đảm quân đội phải theo đúng
đường lối của Đảng. Mao, đặc
biệt, nhấn mạnh tầm quan trọng
của vai tṛ của đảng ở cấp
đại đội. Bởi v́ quân đội
của hắn ta lúc bấy giờ, rất yếu và
đang gánh chịu vô vàn khó khăn, do đó Mao tin
rằng chỉ có một quân đội chánh
trị hoá mới có thể giữ vững đức
tin và tinh thần đoàn kết. V́ vậy, Đảng
Cộng Sản phải đóng một vai tṛ tích
cực và quyết định trong việc đưa ra
các quy tắc, các quy định và cả các
quyết định cho quân đội. Binh sĩ, quân
nhơn các cấp, phải hành động theo lệnh
của Đảng thay v́ lệnh của nguời
Chỉ huy quân sự. Cách suy nghĩ này đă
dẫn đến việc tạo ra một thể
chế đặc biệt trong lực lượng vơ
trang Cộng Sản. Tóm lại, đây là một trong
những nguyên tắc quân sự quan trọng của Mao
: Súng phải đặt dưới sự
kiểm soát của Đảng ; Súng không do của
quân đội nắm. Các thành
phần quan trọng nhất của hệ thống công
tác chánh trị trong Quân đội Tàu, PLA là hệ
thống đảng uỷ và hệ thống chính
uỷ. Các đảng ủy được
chỉ định làm nhiệm vụ lănh đạo, hướng
dẫn và đoàn kết trong các quân nhơn, truyền
đạt chỉ thị và mệnh lệnh tới các
tổ chức đảng cấp dưới và bảo
đảm các binh sĩ quân nhơn tuân thủ, thi hành
nghiêm chỉnh. Dưới sự lănh đạo của
các đảng uỷ, một cơ quan quyết định tập
thể được thành lập trong
đó các chỉ huy quân sự và các chính ủy cùng
chia sẻ trách nhiệm mọi công tác
của đơn vị ḿnh. Đảng uỷ thảo
luận và đưa ra tất cả các quyết định
quan trọng, trừ vài trường hợp chiến
thuật hay khẩn cấp. Dưới
sự lănh đạo tập thể của đảng
ủy, một hệ thống chỉ huy kép
cho các chỉ huy quân sự và chính ủy cấp
bậc ngang nhau. Chỉ huy quân sự chịu trách
nhiệm về tất cả các vấn đề quân
sự, trong khi chính ủy thường là bí thư
đảng ủy, phụ trách việc đề
bạt, an ninh, tuyên truyền, dịch vụ công
cộng, và làm công tác tư tưởng. Các nguyên
tắc cơ bản của công tác chánh trị (sự
thống nhứt giữa sĩ quan và binh sĩ, sự
thống nhứt giữa quân đội và nhơn dân,
và (do đó) phân hoá lực lượng địch,
lập thành cơ sở chánh trị cho việc
đoàn kết giữa các quân nhơn, nhờ đó
đánh bại được kẻ thù. Từ kinh
nghiệm có được từ thập niên 1920 đó,
lănh đạo Đảng Cộng Sản Tàu và quân
đội Trung Cộng tin rằng hệ thống
chánh trị của Đảng Cộng Sản (Tàu)
đóng một vai tṛ tích cực trong sự trung thành
của quân đội với Đảng và trang
bị hữu hiệu cho các binh sĩ, nâng cao hiệu
quả chiến đấu. Các
Lực Lượng : Các lực lượng
do Đảng Cộng Sản Tàu lănh đạo gồm
ba thành phần cơ: lực lượng chánh quy,
lực lượng địa phương, và dân quân
tự vệ. - Lực lượng
chánh quy không bị giới hạn về địa bàn
hoạt động, trong khi lực lượng địa
phương và dân quân bị giới hạn trong địa
phương ḿnh. Do đó,
từ năm này qua năm khác, các lực lượng
địa phương và dân quân lập thành một
hệ thống chằng chịt, quan trọng, đi sâu
vào xă hội, ảnh hưởng sâu rộng vào
quần chúng trong địa bàn ḿnh và nhờ đó,
nắm vững những chi tiết về điều
kiện địa phương và những phương
thức hoạt động. Vào cuối năm 1948,
nhờ sự phát triển các lực lượng quân
đội cộng sản vượt bực, đặc
biệt trong những năm cuối cùng của cuộc
nội chiến, Quân Ủy Trung Ương bèn tổ
chức lại quân đội Cộng Sản Tàu, chia thành
thành bốn quân đoàn (field army) : Lúc mà nước
Cộng Ḥa Nhơn Dân Trung Hoa (Trung Cộng) vừa thành
lập, - Quân đoàn
1 dưới quyền của nguyên soái Bành Đức
Hoài và nguyên soái Hạ Long, đă thiết lập
một sự có mặt đáng kể ở vùng Bắc
và Tây Bắc Trung Hoa. - Quân đoàn
2, dưới quyền của nguyên soái Lưu Bá
Thừa và Đặng Tiểu B́nh, thống trị vùng
Trung tâm và Tây Nam xứ Tàu. - Quân đoàn
3, do nguyên soái Trần Nghị và đại tướng
Túc Dụ chỉ huy, chiếm đóng vùng Đông. - Cuối cùng,
quân đoàn 4, dưới quyền của Lâm Bưu,
phụ trách vùng Đông Bắc đến miền Nam. Quân đoàn
từ đó đă trở thành một đơn vị
tổ chức với cả một cá tánh xác định.
Các quân nhơn và binh sĩ sống, sanh hoạt, với
một sự trực thuộc vào một đặc
điểm, một cá tánh của một địa phương,
của các cá nhơn các vị chỉ huy, và cùng
với thời gian thâm niên công vụ, chung sống
cộng đồng, « tam cùng sanh hoạt »,
của các quân nhơn binh sĩ các cấp trong một
đơn vị cụ thể, đă đặt một
nền móng cho mối quan hệ ‘anh cả-đàn em’
sống chết có nhau, đồng kham đồng
khổ - rất quư giá giữa các chỉ huy và
thuộc hạ binh sĩ tạo sự tin cậy trung thành,
nhưng cũng rất là nguy hiểm v́ lại nuôi dưỡng
và phát triển « đầu óc phe phái » rất
có hại trong một chánh sách lănh đạo. Những
di sản và đặc điểm của thể
chế nầy đă ăn sâu trong PLA trong những năm
ấy ( 1979) và ảnh hưởng mạnh mẽ
tới quyết định của Trung Cộng phải
« chiến tranh chống Việt Nam ». Vạch
kế hoạch xâm lược* Nhà báo chánh
trị gia Gia Nả Đại sanh năm 1953 Gerald
Segal, Chủ nhiệm Viện Nghiên Cứu quốc
tế Khoa học Chiến lược tại London-Anh
Quốc - Director of Studies at the International Institute for
Strategic Studies in London - cho rằng động cơ chính
của Trung Cộng trong việc tấn công Việt Nam là
kềm chế tham vọng và sự bành trướng
của Việt Nam ở Đông Nam Á, ngăn
chặn mối đe dọa Việt Nam đối
với an ninh quốc gia (Trung Cộng). Tuy nhiên, v́ tính
toán về chánh trị quá tồi, qua việc cố
tạo ra một lẽ phải để trừng
phạt Việt Nam, các nhà lănh đạo của
Trung Cộng đă vô t́nh đặt ḿnh trong một vị
thế thực sự mà nói, không thể thắng
được— Cái quyết định của
Trung Cộng là nêu công khai “dạy cho
Việt Nam một bài học” đă tạo cho dư
luận thế giới, một ấn tượng
rằng, mục đích chính của cuộc chiến
chỉ đơn giản là một “hành động
trả thù”. V́, ngay từ đầu, Bắc Kinh
đă hạn chế nghiêm ngặt các mục tiêu,
thời gian và phạm vi, và khi thực hiện, tiến
hành chiến tranh, không vượt hơn một
cuộc xung đột biên giới giữa hai nước. Dù việc
thực hiện có đúng với sự thực hay không,
cuộc chiến cũng đă tiết lộ rằng
rất nhiều suy nghĩ đă dành cho việc thảo
ra kế hoạch nầy, cũng đă cho thấy các nhà
lănh đạo Trung Cộng quyết định
ăn thua đủ với Việt Nam, bất chấp cái
giá phải trả. Cũng cần nói rơ thêm, kế
hoạch này phản ánh rơ ràng tác dụng điều ḥa
của Đảng Cộng Sản Tàu Công đối
với nỗi căm giận sôi sục của Quân
đội Nhơn Dân Tàu. Các sĩ quan PLA muốn
sử dụng vũ lực để đánh mạnh vào
Việt Nam, mà theo họ, không khác ǵ hơn là một
cựu đồng minh phản bội phải bị
trừng phạt. Thay v́ đưa cho quân đội
một khuôn khổ không g̣ bó để thực
hiện sự trừng phạt mong muốn đó, Đảng
Cộng Sản Tàu Cộng lại giới hạn
hoạt động của quân đội cả về
thời gian lẫn không gian. Thoạt
đầu, Quân Ủy Trung Ương yêu cầu Quân khu
Quảng Châu cho hai đại đoàn [army] 41 và 42
và sư đoàn (division) 129 thuộc đại
đoàn 43, tấn công thực sự Việt Nam ở
khu vực Cao Bằng, trong khi hai đại đoàn khác
43 và 55, cùng tham gia trong các cuộc tấn công nghi binh
vào Đồng Đăng và Lộc B́nh trước
cuộc tấn công toàn diện cuối cùng vào Lạng
Sơn. Quân khu Côn Minh được lệnh phải
sử dụng hai đại đoàn 13 và 14 để tiêu
diệt một sư đoàn Việt Nam tại Lào Cai cũng
như các đơn vị địa phương khác
gần biên giới Vân Nam. Quân Ủy Trung Ương cho
phép cho các chỉ huy khu vực quyền tự chủ
hoạt động nhưng vẫn giữ quyền
quyết định về thời gian và không gian
của cuộc chiến dưới sự chỉ huy
của lănh đạo trung ương Đảng ở
Bắc Kinh. Đặng Tiểu B́nh kiên quyết, nhưng
vẫn né tránh ngại rằng t́nh trạng cuộc xâm
lăng Việt Nam biến thành một vũng lầy cho
Trung Cộng. Theo tướng
Chu Đức Lễ (Zhou Deli/周德礼)
th́ tướng Hứa Thế Hữu (Xu Shiyou/许世友), tư lệnh Quân khu Quảng Châu, đă
nhận nhiệm vụ lập kế hoạch ngày 9
tháng 12 năm 1978 và sau đó bắt đầu xem xét
chiến lược quân sự chống Việt Nam. Tướng
Hứa nghĩ ngay đến một cuộc tấn công
bất ngờ áp đảo vào quân đội Việt
Nam, nắm thế chủ động và ngăn không cho
Việt Nam khôi phục sức mạnh. Dựa trên kinh
nghiệm chiến đấu của ḿnh, Hứa Thế
Hữu đề nghị kế hoạch đặt
tên là niudao shaji (牛刀杀鸡 [ngưu
đao sát kê]: (dùng dao mổ trâu giết gà), mô
tả một bạo lực khổng lồ. Là một
học tṛ của Mao về quan điểm chiến
thuật, Hứa tin rằng chiến thuật này là áp
dụng thích đáng học thuyết và quan điểm
quân sự của Mao để tiến hành cuộc
chiến tranh hủy diệt Việt Nam. Có ba thành
phần: - 1) tập
trung đánh vào các bộ phận pḥng thủ trọng
yếu của địch nhưng không vào điểm
mạnh của địch, - 2)
sử dụng lực lượng và hỏa lực áp
đảo để đè bẹp sự pḥng vệ
của địch vào thời điểm mở
trận và - 3) đánh
nhanh và sâu vào tim của địch. Bằng cách này, Tướng
Hứa dự kiến rằng PLA sẽ cắt hàng pḥng
thủ của đối phương ra manh mún và sau
đó tiêu diệt các lực lượng đă
nhắm trước từng mảng một. Tuần
tới Bài 2 Chuẩn bị Hồi
Nhơn Sơn, đầu tháng chín, 4 tháng nữa trước
2020 TS.Phan Văn Song Ghi chú : * Những đầu đề do
người dịch để làm sáng bài viết. Xin phép tạm dịch Field Army là Quân đoàn, Tàu gọi là « phương diện quân » và Army là Đại đoàn, Tàu gọi là « tập đoàn quân » … các đơn vị tiếp theo là sư đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội ...
|