Trung Cộng Sẳn Sàng Xâm Chiếm Việt Nam Bài ba Zhang Xiaoming - TS.Phan Văn Song phỏng dịch |
Bài
Học (dân
Việt Nam)
Phải Nhớ Đời : nhiều kỳ (bài 3) Trung
Cộng Sẳn Sàng Xâm Chiếm Việt Nam
Trận
Chiến của Đặng Tiểu B́nh, hay Cuộc
Chiến Tranh Tàu Việt 1979-1991 Zhang Xiaoming, Deng Xiaoping’s Long War: The
Military Conflict between China and Vietnam, 1979-1991 (The
University of North Carolina Press, 2015), Chapter 3, pp. 67-89 (22 trang) TS.Phan Văn Song phỏng dịch
Bài 3 :
Đánh Nhau Lực lượng
PLA, từ hơn hai thập kỷ nay, chưa bao giờ
tham gia vào một cuộc hành quân có một quy mô như
vậy ! Bộ chỉ huy tiền phương Quân
khu Quảng Châu ban hành một chỉ thị rất
chi tiết yêu cầu các binh sĩ phải thật chú
ư đến 5 vấn đề khi họ chuẩn
bị cho cuộc xâm lăng Việt Nam. Thứ nhất,
tất cả các binh sĩ cần phải làm các công tŕnh
pḥng thủ và ngụy trang xe cộ, khí giới, đề
pḥng khả năng bị Việt Nam tấn công bất
ngờ từ trên không và trên bộ. Thứ
hai, chỉ huy các cấp cần phải tự làm quen
với kẻ thù và với điều kiện địa
dư ở miền Bắc Việt Nam dọc theo biên
giới Hoa - Việt, và phải thu thập rơ ràng thông
tin cho mục tiêu pháo binh. Thứ ba, tất cả các
lực lượng cần phải tăng sức
mạnh tối đa của các đơn vị ḿnh và
duy tŕ vũ khí và trang bị trong t́nh trạng
tốt nhứt. Thứ tư, tất cả các
đơn vị cần phải thực hành bảo
mật thông tin, đặc biệt là các
lệnh phân công, phải đưa tay trực
tiếp nếu có thể thay v́ qua điện thoại
hay vô tuyến. Cuối cùng, tất cả các
đơn vị cần phải huấn luyện lính
mới ném lựu đạn và bắn súng máy và
lập kế hoạch hoàn thành nhiệm vụ chiến
đấu của họ. Chỉ
thị này rơ ràng, (*PVS) phản ánh một số
vấn đề phức tạp mà PLA phải đối
đầu ngay trước ngày xâm lược. Nghiêm
trọng nhất, các lực lượng của PLA chưa
sẳn sàng, c̣n xa mới sẵn sàng cho chiến
dịch; thật sự là họ vẫn chưa
đủ quân số và trang bị. Trong nhiều năm
qua, lực lượng bộ binh của PLA đă duy tŕ
một cơ cấu tổ chức theo thời b́nh: trong
mỗi đại đoàn, chỉ có một sư đoàn
loại A (jia zhong shi /甲种师 [giáp
chủng sư] hoặc quan zhuang shi /全装师[toàn
trang sư]) – là được giữ để cho
đầy đủ biên chế, trong khi có hai sư
đoàn loại B (yi zhong shi /乙种师 [ất
chủng sư] hay jian bian shi /简编师 [giản
biên sư]) – đều dưới mức biên
chế. Chánh quyền địa phương đă làm
hai bản dự thảo cho thời chiến. Bản
dự thảo thứ hai đặc biệt gọi
nhập ngũ các dân quân đă được huấn
luyện tốt và các cựu chiến binh. Chỉ riêng
ở tỉnh Quảng Đông, gần 40 000 thanh niên
đă nhập ngũ. Tổng cộng có 15 000 tân
binh và 1 512 binh sĩ đă xuất ngũ được
lệnh tái nhập ngũ. PLA cũng nhanh chóng đề
bạt cán bộ để lấp chỗ trống lănh
đạo ở mọi cấp. Cán bộ chuyên ngành
từ quân khu khác cũng đă được
chuyển giao các công việc kỹ thuật về pháo
binh, công binh, truyền thông, thiết giáp, và các
đơn vị chống chiến tranh hóa học. Đại
đoàn 42 đă thăng cấp 11 sĩ quan lên chỉ
huy cấp sư đoàn và 82 sĩ quan lên cấp trung
đoàn. Đại đoàn 55 thăng cấp cho 15
chỉ huy sư đoàn và 76 chỉ huy trung đoàn.
Để lắp chổ trống cho các vị huy
cấp trung đội, đại đoàn 42 phong
chức vụ cho 1 045 sĩ quan vào đêm trước
của cuộc ra quân. Đại đoàn 13 nhận
được 15 381 tân binh, trong đó 11 874 là lính
quân dịch. Tất cả những tài liệu thống
kê nầy cho thấy cái khó khăn về những
vấn đề thuộc vể nhơn sự và
huấn luyện mà PLA phải va chạm khi chuẩn
bị cho chiến tranh. Huấn
luyện : Cũng trong
cuốn sách của tướng Chu Đức Lễ, thành
ngữ được sử dụng là “lâm
trận ma đao” (linzhen modao/临阵磨刀:
ra trận mới mài gươm – chỉ bắt đầu
mài gườm khi chuẩn bị cho chiến tranh - nói tóm
lại chuẩn bị vào giờ chót). Ư muốn nói
rằng PLA đang ở trong t́nh trạng rất
lúng túng vào thời điểm đó. Quả
thật là vào năm 1978, chỉ có 42 % các đơn
vị quân đội là có trăi qua huấn luyện quân
sự. Lực lượng không quân có khoảng 800 phi công
là có thực tập bắn và đánh bom, nhưng
chỉ 1 % đánh trúng mục tiêu. Nhưng t́nh
h́nh thực tế của PLA thậm chí, thực
sự, c̣n bi đát hơn nữa. Tướng Trương
Chấn (Zhang Zhen/张震), Chỉ huy Trưởng Tổng cục Hậu
Cần, khi kiểm tra việc chuẩn bị chiến
tranh trên mặt trận Quảng Tây vào giữa tháng 1 năm
1979, nhận thấy PLA có rất nhiều nhược
điểm, rơ ràng, đây một sự thiếu
thốn nghiêm trọng trong việc chuẩn bị
chiến tranh. Theo hồi kư của ông, đại đội
2 thuộc trung đoàn 367, đại đoàn 41 có 117 lính,
trong đó 57 là tân binh. Trong hơn hai tuần huấn
luyện, 44 lính chỉ có 3 buổi thực hành bắn,
41 có 2 buổi, và số c̣n lại chỉ có 1 buổi.
Ba mươi ba lính được huấn luyện
về chiến thuật tấn công theo
đội h́nh, nhưng
không được huấn luyện chiến thuật
pḥng thủ, v́ không có một sĩ quan nào biết rơ
điều đó. Tướng Trương Chấn khuyên
mỗi sư đoàn nên thiết lập một băi
đất có thể được sử dụng để
huấn luyện các đơn vị hoạt động
ở cấp tiểu đội cũng như ở
cấp đại đội và tiểu đoàn. Các binh
sĩ sẽ thực tập, hành binh bộ binh phối
hợp với pháo binh và thiết giáp. Đặc
biệt các đơn vị bộ binh cần được
dạy cách gọi pháo binh yểm trợ hoả
lực. Dựa trên
những khuyến nghị này, binh sĩ đă bắt
đầu tự huấn luyện bản thân theo như
nhiệm vụ được giao. Sư đoàn 12,
được chỉ định thực hiện
nhiệm vụ xâm nhập sâu vào Việt Nam, tập
trung vào việc làm cách nào để di chuyển
xuyên qua các khu rừng và những đường ṃn trên
núi, chống địch phục kích và sau đó làm cách
nào để tấn công các vị trí địch trên
đỉnh đồi. Ít nhứt 3 binh sĩ thuộc
mỗi đại đội được huấn
luyện để đọc bản đồ. Sư
đoàn tổ chức 3 cuộc tập trận trong
điều kiện môi trường tương tự
như ở miền Bắc Việt Nam để dạy
cho binh sĩ ḿnh quen di động với rất ít
nghỉ ngơi và thực phẩm. Sư đoàn 163
được giao thực hiện các cuộc tấn công
trực diện vào các vị trí kiên cố của
địch, tập trung vào việc huấn luyện
từng cá nhơn binh sĩ và tiểu đội về
chiến thuật chiến đấu, cũng như
tiến hành các buổi học tập bắn đạn
thiệt, ở cấp trung đội, đại đội,
và tiểu đoàn. Sư đoàn thực hiện các
cuộc tập trận chung với một tiểu đoàn
bộ binh phối hợp cùng pháo binh và thiết giáp. Nỗ
lực huấn luyện tuyệt vọng vào phút chót như
vậy, dù có ích phần nào, tiếc thay, là vẫn không
đầy đủ, bởi do quá nhiều tân binh và quá
nhiều người trong số họ là nông dân.
Mặc dù mục tiêu là dạy kỹ năng quân
sự. Nhưng hầu hết, các binh sĩ chỉ hoàn
tất 1 hoặc 2 lần thực tập ở sân
bắn và chỉ 1 lần thực tập ném lựu
đạn thật mà thôi. Rất ít đơn vị
thực hiện đầy đủ các bài tập
huấn luyện chiến thuật nghiêm túc ở
cấp trung đoàn hoặc sư đoàn. Nhiều sĩ
quan đă nói rơ rằng họ vẫn chưa
chắc chắn hẵn, về khả năng chiến
đấu của binh sĩ họ, khi khai chiến. Nói tóm
lại, đội quân « xâm lược PLA » hoàn
toàn, thiếu huấn luyện và thiếu chuẩn
bị cho một cuộc chiến thuộc loại
hiện đại. Kết quả kém cỏi nhận xét
ở chiến trường sau đó, của PLA, đă
được đánh giá là rằng là do sự
thiếu huấn luyện của quân đội nhơn
dân giải phóng Tàu hơn là sức mạnh và kinh
nghiệm chiến đấu 25 năm của quân dân
Việt Nam. Sửa
chữa và bảo tŕ các loại vũ khí và trang
thiết bị cũng lại là một vấn đề
phức tạp cho PLA. Từ năm 1975, Đặng
Tiểu B́nh đă kêu gọi phải cải thiện
thiết bị, quân cụ của PLA, nhưng dường
như không có ǵ thay đổi đáng kể nào đă
được thực hiện. Các chuyên gia quân sự
tin rằng việc phục vụ hậu cần bền
vững sẽ bảo đảm thành công quân sự. Tướng
Trương Chấn nhớ lại, rằng vấn
đề tồi tệ nhứt ông gặp phải, là
đạn dược, chẳng những số lượng
thiếu thốn và phẩm chất cũng kém nốt.
Kiểm tra ban đầu đă cho thấy rằng
một số đạn pháo không nổ, và một
phần ba của toàn bộ số lựu đạn cũng
không nổ. Nhơn viên từ các trường quân
cụ, đă được điều động
đến để giúp các nhà kho của các đại
đoàn, kiểm tra toàn bộ hàng tồn kho. Tổng
cục Hậu Cần cũng ra lệnh cho các nhà máy
kỹ nghệ quốc pḥng tăng cường sản
xuất — đặc biệt là đạn pháo cỡ
lớn, hỏa tiển, đạn xuyên thép. Cung cấp xăng
dầu, nhiên liệu, cũng là một ưu tư
của Tổng cục Hậu Cần. Không những hai
tỉnh Quảng Tây và Vân Nam đều xa cơ sở
kỹ nghệ dầu khí của Trung Cộng, ở phía
Đông Bắc và Tây Bắc. Nhu cầu về
dầu mỏ lại sẽ tăng mạnh nếu Liên Sô
trả đũa lại việc tấn công vào Việt
Nam. Ngoài ra, miền Nam Trung Cộng cũng đang bị
thiếu thốn kho chứa dầu. V́ lẽ các kho
dầu ngoài trời sẽ dễ dàng bị tấn công.
Tổng cục Hậu Cần đề nghị sử
dụng các hang động đá vôi - karst ở
Quảng Tây để làm hầm chứa nhiên liệu.
Hơn 428 km đường ống dẫn dầu
tạm thời đă được đặt để
cung cấp nhiên liệu cho bốn sân bay ở Vân Nam. V́
mỗi đại đoàn nhận tiếp vận
trực tiếp từ một trung đoàn vận
tải ; để bảo đảm tiếp
liệu cho các sư đoàn, Tổng cục Hậu
Cần phải điều động thêm 3 trung đoàn
vận tải từ quân khu Nam Kinh và Phúc Châu. Và cũng
trong nỗ lực cho các hoạt động quân sự,
với một số lượng các thiết bị
kỹ thuật đáng kể, PLA đă phải t́m thêm
các nhơn viên kỹ thuật dân sự để
trợ giúp bảo tŕ xe cộ, cơ khí đến
cả thiết giáp. Và dĩ nhiên, Hậu Cần
vẫn tiếp tục là vấn đề nhức
nhối trong suốt chiến dịch đánh Việt Nam Huy động
chánh trị : Mặc dù nhu
cầu về huấn luyện quân sự là nhu
cầu cấp bách, PLA vẫn tiếp tục
phải « trả bài do Mao Xù X́ (*PVS) đă chủ
trương 40 năm trước »— đó là ư
thức hệ ! Không thể thắng trong cuộc
chiến tranh nào, nếu không huy động chánh
trị. Ngày 12 tháng 2
năm 1979, Quân Ủy Trung Ương đă ban hành
lệnh nhấn mạnh tầm quan trọng
của huy động chánh trị trong cuộc hành quân
qua đất Việt Nam. Các nhà phân tích Âu Mỹ đă
phê phán quyết định này của PLA
rằng dành “quá nhiều thời gian, năng lực, và
sự chú ư” cho việc nầy, trong khi lính Trung
Cộng lại rất cần huấn luyện về
kỹ thuật quân sự. Lời chỉ trích này đă
bỏ qua tầm quan trọng của việc huy động
chánh trị, vốn đă trở thành thể chế !
Và do đó, đă được chấp nhận, như
nếp suy nghĩ trong sự chuẩn bị chiến
tranh của PLA. Một đặc điểm đáng chú
ư nữa, rằng trong suốt lịch sử của PLA,
là số đông binh sĩ của họ là nông dân
nghèo, mù chữ. Hệ thống tuyên truyền chánh
trị đă được lập ra để động
viên họ cùng chiến đấu chống lại
một kẻ thù mạnh mẽ, cho thấy nó
tỏ ra có giá trị qua nhiều năm. Tới năm
1979, PLA ít thay đổi; binh lính vẫn chủ
yếu là dân quê, thất học, trang bị chưa
đầy đủ và huấn luyện kém (Ngày nay
cũng chẳng tiến bộ hơn *PVS).
Đồng thời, cuộc xâm lăng Việt Nam
của PLA không hợp với tuyên truyền Cộng
Sản Mác-Lê Chủ nghĩa, vốn chỉ ủng
hộ việc sử dụng vũ lực, khi nào có
thể, biện minh được sự bảo
vệ Chủ nghĩa Mác Lê. Ngay sau khi nhận được
lệnh của Bắc Kinh, các lănh đạo quân
sự địa phương nhận thấy rằng quân
đội Trung Cộng chưa được chuẩn
bị tư tưởng tốt (Hôm qua là bạn, hôm
nay là thù). Câu hỏi trước mắt là
liệu Trung Cộng có nên tấn công một nước
láng giềng cựu đồng minh, Cộng Sản, như
Việt Nam không ? Theo Mạc Văn Hoa (Mo Wenhua/莫文骅), chánh ủy lực lượng thiết giáp
của PLA, lính Trung Cộng, thời ấy, không có
một tư ǵ hiểu biết về tầm quan trọng
của cuộc chiến chống Việt Nam. Họ không
những, vừa e ngại về sự can thiệp quân
sự của Liên Sô, vừa lo chính khả năng
yếu kém của họ, khó đánh bại Việt
Nam, mà c̣n lo lắng rằng chiến tranh sẽ gây
bất lợi cho Bốn hiện đại hóa của Trung Cộng ; và các nước khác,
sẽ sử dụng đó, để lên án Tàu như
một kẻ xâm lược. Mặc dù
Trung Cộng lấn áp về quân số so với
Việt Nam, lính Tàu Cộng lại lo ngại rằng
họ thiếu lợi thế về kỹ thuật đối
với vũ khí do Nga chế tạo, viện trợ cho
Việt Nam và thiết bị quân sự của Mỹ
mà Việt Nam thu lượm lại được
của chế độ Sài G̣n vào năm 1975. Phi công
không quân của Trung Cộng đặc biệt ngại
rằng J-6 của họ có thể không so sánh được
với MiG-21 của Việt Nam, nhiều chiếc lại
do các phi công Việt Nam từng có kinh nghiệm bay,
và đánh trận với không quân Mỹ. Ngoài ra,
Việt Nam còn có tên lửa SAM rất mạnh đáng
gờm, với đội điều khiển lành
nghề từng có kinh nghiệm thực hành tác
chiến pḥng không. Khi chánh phủ Trung Cộng ra
lệnh tấn công Việt Nam, binh lính Trung Cộng
thực sự, là rành về nghề xây dựng và
sản xuất nông nghiệp hơn là về nghề
điều khiển vũ khí. Tin tưởng
vào các quyết định của lănh đạo trung
ương và tuân theo các mệnh lệnh được
coi là nền tảng cho chiến thắng. Ngày 12 tháng
12, Tổng cục Chánh trị ban hành hướng
dẫn về động viên chánh trị. Không
giống các quân đội phương Tây, với lương
tâm nghề nghiệp và huấn luyện, để
bảo đảm binh sĩ thi hành nhiệm vụ
chiến tranh, quân đội Trung Cộng lại
chọn cách tuyên truyền chánh trị cho binh sĩ ḿnh,
cố gắng làm cho họ hiểu được
tại sao phải chiến đấu và cuộc
chiến ấy có tầm quan trọng thế nào với
họ ! Dưới ảnh hưởng của
triết lư Nho giáo, người Tàu đă quen với
việc tự xem ḿnh như một người yêu
chuộng ḥa b́nh, không bạo lực hay bành trướng,
và chỉ sử dụng vũ lực để tự
vệ. Khái niệm về chiến tranh chánh nghĩa,
chánh đáng rất thịnh hành trong xă hội Nho giáo,
và trong tư tưởng người Tàu. Đối
với lính Tàu, truyền thống văn hóa xă hội này
là một rào cản tự nhiên, cho việc nhận
thấy một quốc gia láng giềng xă hội
chủ nghĩa như ḿnh, « hôm qua là bạn, nay
là một kẻ thù nguy hiểm » đang đe
dọa an ninh quốc gia ḿnh ? Do đó, Tổng
Cục Chánh Trị kêu gọi tất cả mọi binh
sĩ phải học tập các chỉ thị, các bài
phát biểu của ban lănh đạo Đảng
Cộng Sản Tàu cũng như các mệnh lệnh
chiến tranh và chánh trị của Quân Ủy Trung
Ương, để cho họ tin tưởng rằng
quyết định tấn công Việt Nam là đúng
đắn. Theo đường
hướng tuyên truyền của Tổng Cục Chánh
Trị, cuộc chiến tranh chống lại Việt Nam
là chánh đáng và cần thiết, v́ tham vọng
bành trướng đã dẫn VN thoái hóa thành
“Cuba của phương Đông”, “bọn côn đồ
Châu Á”, và “đám chó săn của Liên Sô .” Việc
hai nước có cùng ư thức hệ chánh
trị không ngăn trở PLA tung ra các hành động
tự vệ chống lại một nước dám
xâm phạm lợi ích quốc gia của Trung Cộng. Quan
trọng không kém nữa, là chỉ thị rơ rằng
Việt Nam, nay, đă xem Trung Cộng là một kẻ thù
chánh của Việt Nam và đã kêu gọi “làm
tất cả mọi thứ để đánh bại
Trung Cộng.” Từ 10 tháng
12 năm 1978 đến ngày 15 tháng 1 năm 1979,
bộ máy chánh trị ở tất cả các cấp
đã chạy hết công suất để chánh
trị hóa tinh thần binh sĩ, bằng cách sử
dụng nào các bài giảng, nào các buổi họp
tố cáo, và cả triển lăm h́nh ảnh để
phục vụ mục đích này. Những chiến lược
nầy bao gồm cả các lời kêu gọi cho các
thuyết “chiến tranh chánh nghĩa”, trừng
phạt “sự vô ơn,” bảo vệ Bốn
hiện đại hóa, và đương đầu
với việc chống bá quyền khu vực
Việt -Sô . Ban chánh trị đại đoàn
43 cố gắng thuyết phục binh sĩ của
họ, rằng họ đang chiến đấu cho
một cuộc chiến tranh chánh nghĩa v́ Việt
Nam đă xâm luợc Trung Cộng và đă bắn phát
súng đầu tiên; và như vậy phản công
lại là điều chánh đáng. Một
chiến thuật khác
là nhắc binh sĩ Tàu nhớ rằng Tàu
đă hy sanh để ủng hộ Việt Nam trong
nhiều năm qua, mà Việt Nam lại đáp
trả lòng tốt đó bằng sự vô
ơn. Lập luận nêu tiếp nữa, rằng
Việt Nam nghĩ rằng Trung Cộng dễ bị
bắt nạt, và do đó, tiếp tục thách thức
chủ quyền lănh thổ của Trung Cộng. Việt Nam là một mối đe dọa chánh
đối với Bốn hiện đại hóa ;
đáng bị trừng phạt. Cán bộ chánh
trị cũng cột chánh sách chống Trung Cộng và
mộng bá quyền của Việt Nam ở Đông Dương
với chiến lược toàn cầu hóa của đế
quốc xă hội chủ nghĩa Sô Viết. Theo hướng
lập luận này, việc Trung Cộng phản công
Việt Nam, sẽ phá vỡ những tham vọng
của Liên Sô trong việc bao vây Trung Cộng. Cuộc
xâm lược Campuchia cùng với chủ truơng
chống Trung Cộng của Việt Nam cũng không
được thế giới ưa thích ǵ lắm.
Do đó, việc Trung Cộng trừng phạt Việt
Nam, dĩ nhiên, sẽ nhận được sự
ủng hộ của toàn thế giới ! Chương
tŕnh này chú trọng tới việc khơi
dậy lòng thù hận của binh sĩ Tàu đối
với kẻ thù Việt Nam. Người lính nông
dân của PLA luôn luôn được khuyến khích trút
căm hờn của họ chống lại địa
chủ áp bức tại các buổi họp
tố cáo được vạch ra, nhằm
khuấy động ư thức giai cấp, để
cho họ có thể được huy động, tin
rằng, họ chiến đấu vì lợi ích riêng
của mình. Năm 1979, các ban chánh trị tổ chức
các cuộc họp tố cáo, mời binh sĩ từ các
đơn vị biên pḥng, mời các dân làng từ
các khu vực biên giới, và những người gốc
Hoa từ Việt Nam về, dùng các kinh nghiệm
cá nhơn của họ, để tố cáo tội
“ghét Trung Cộng, chống Trung Cộng” của
bọn « xét lại Việt Nam ». Bằng cách
này, công tác tuyên truyền chánh trị không những,
gieo mầm thù hận vào đầu óc binh sĩ
Tàu, mà c̣n củng cố niềm tin của họ
trong việc thực hiện nghĩa vụ của ḿnh.
Để khuyến khích binh sĩ (nếu cần)
sẵn sàng hy sanh mạng sống trong chiến, ban chánh
trị đại đoàn 13, tổ chức nhiều buổi,
sĩ quan và binh sĩ cùng thề nguyền, qua
việc đưa súng lên trời và hô vang
những khẩu hiệu. Trong khung cảnh mạnh
mẽ, đầy xúc cảm, nhiệt t́nh yêu nước
bùng cháy ấy, tất cả các binh sĩ đều
thề nguyện sẽ nhận những nhiệm
vụ nguy hiểm và khó khăn.Với thực tế,
binh lính PLA không phải là quân nhơn chuyên
nghiệp, công tác chánh trị được dùng như
là một phương tiện tâm lý để
chuẩn bị những bất trắc và bất định,
và không sợ khó khăn hay chết chóc trên
chiến trường. Nhiều buổi lễ biểu
duơng các anh hùng lịch sử khuyến khích binh
sĩ tiếp tục truyền thống. Đại đoàn
43 yêu cầu tất cả các đại đội
cùng tuyên thệ tiếp nối truyền thống:
“Học tập anh hùng, trở thành anh hùng, và
viết thêm những dòng vinh quang mới vào các
biểu ngữ chiến tranh anh hùng.” Cán bộ,
đảng viên Đảng Cộng Sản được
khuyến khích cố gắng tự ḿnh làm
thành những tấm guơng. V́ binh sĩ Tàu, đă
trong một thời gian dài, chưa từng chiến
đấu, nên bộ chỉ huy tiền phuơng Quân
khu Quảng Châu đã, đi tìm những ai đă
từng tham gia vào các cuộc chiến, nào chống
Nhựt, nào chống Quốc dân Đảng, nào
chiến tranh Triều Tiên và vả chiến tranh
Việt Nam cũng như xung đột biên giới
với Ấn Độ. Những cựu chiến binh
nầy, được yêu cầu trình bày các bài
học về kinh nghiệm của họ. Việc buộc
sĩ quan chỉ huy phải có mặt ở
tuyến đầu, là một truyền thống
của PLA, binh sĩ do đó, thấy rằng
chỉ huy của họ đă cùng họ chia sẻ
rủi ro và khó khăn. Trong khi điều động
các chỉ huy phó của ḿnh tới mỗi
đại đoàn, tướng Hữu cũng yêu
cầu các chỉ huy cấp đại đoàn, sư
đoàn, và cả trung đoàn cũng phải
điều động các cấp phó chỉ huy
của họ tới các đơn vị cấp
dưới để trợ giúp việc chỉ
huy. * Lời
bàn : Người
dịch Phan Văn Song, chúng tui, xin nhắc nhỡ quư bà
con và thân hữu, cái quyết tâm của người nông
dân Tàu là chinh phục đất đai người
Việt Nam, v́ đất Việt Nam nhứt là miền
Nam, có tiếng đồn, là mầu mỡ, tốt hơn
bên Tàu nhiều. Tiếng đồn là người Minh
Hương Tàu di cư qua Việt Nam, thiời xa xưa,
đều giàu sang, sau vài thế hệ. Tất cả các
triều đại cầm quyền Tàu từ thời xa
xưa đến hiện đại đều mang
mộng chinh phục đất nước Việt Nam, cái
mộng trải dài một đất nước Tàu
từ Hoàng Hải phía Bắc xuôi tân Nam, đến
Vịnh Thái Lan. Do đó, dưới ngụy chiêu bài
16 chữ vàng, mộng tạo « bông hoa trung tâm vũ
trụ Tàu » vẫn c̣n tiếp tục là một
truyền thống, đặc biệt dưới
triều đại Tân Hoàng đế họ Tập
một Mao thứ hai, nhưng kinh khủng hơn một
Tần Thủy Hoàng thứ hai ! Mong bà con chớ quên ! Tuần tới kỳ 4 : Tác
dụng của Huy động Chánh trị : Hồi Nhơn Sơn 20 tháng 9 2019 TS.Phan Văn Song |