Việt
Nam làm gì để tự vệ? Tiến sĩ Alexander Vuving |
|||
Ai sống cạnh một anh hàng xóm khổng lồ
trong một thế giới vô chính phủ cũng
phải canh cánh câu hỏi: Khi nào th́ anh ta có thể
đánh ḿnh, và làm sao để ḿnh không bị anh ta
đánh? Đây cũng
là một câu hỏi thường trực cho các chính sách
quốc pḥng và ngoại giao của Việt Nam, và anh hàng
xóm khổng lồ của Việt Nam là Trung Quốc. Quy
luật lịch sử Khi nào th́
Trung Quốc có thể đánh Việt Nam? Tương
lai không thể nói trước được, nhưng
nếu lịch sử cho thấy có quy luật th́ có
nhiều khả năng quy luật đó sẽ tiếp
tục ứng nghiệm trong tương lai. Lịch
sử từ khi nước Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa
ra đời có ba lần lớn và một số
lần nhỏ hơn Trung Quốc ra quân đánh Việt
Nam. Lần
thứ nhất năm 1974, Trung Quốc chiếm quần
đảo Hoàng Sa từ tay Việt Nam Cộng ḥa. Lần
thứ hai năm 1979, Trung Quốc tấn công toàn
tuyến biên giới trên bộ, vào sâu nhiều
chục cây số, phá huỷ cơ sở vật
chất, rồi rút về sau đúng một tháng. Lần
thứ ba năm 1988, Trung Quốc chiếm 6 băi đá
trong vùng lân cận các đảo do Việt Nam kiểm
soát ở quần đảo Trường Sa, riêng
vụ đụng độ chiếm đá Gạc Ma
(Johnson South Reef) bắn cháy ba tàu vận tải và
giết khoảng 70 thuỷ thủ của Hải quân
Việt Nam. Những
lần đánh nhỏ hơn bao gồm các cuộc
tấn công ở biên giới sau cuộc chiến 1979, liên
tục cho đến năm 1988. Trong thời gian này,
Trung Quốc đă chiếm được một
số điểm cao chiến lược dọc biên
giới như ở các huyện Vị Xuyên, Yên Minh
(tỉnh Hà Giang) và Cao Lộc, Tràng Định (tỉnh
Lạng Sơn). Các cuộc lấn chiếm này dường
như đă được hợp pháp hóa tại
Hiệp ước biên giới trên bộ năm 1999. Ngoài ra,
trên quần đảo Trường Sa sau năm 1988,
Trung Quốc đă chiếm thêm các băi đá ở
gần vị trí đóng quân của Việt Nam như
Én Đất (Eldad Reef) và Đá Ba Đầu (Whitson
Reef) vào các năm 1990, 1992, và sau đó chiếm đá Vành
Khăn (Mischief Reef) ở gần Philippin năm 1995. Thế và
Thời Tư duy
chiến lược Trung Hoa đặc biệt coi
trọng chữ Thế và chữ Thời. Các cuộc
tấn công Việt Nam cho thấy có một quy luật
khá nhất quán trong việc Trung Quốc chớp
thời cơ vào lúc thế của họ đi lên và
thế của đối phương đi xuống
để tung quân ra đánh. Thời
điểm tháng 1-1974, Trung Quốc đánh Hoàng Sa đang
do Việt Nam Cộng ḥa kiểm soát là sau khi Mỹ cam
kết chấm dứt can thiệp quân sự ở
Việt Nam (Hiệp định Paris tháng 1-1973) và
Quốc hội Mỹ cấm Chính phủ can thiệp
trở lại (Tu chính án Case-Church tháng 6-1973), tạo ra
một khoảng trống quyền lực ở khu
vực và khiến cho Việt Nam Cộng ḥa chới
với không nơi nương tựa. Trong khi
đó thế của Trung Quốc đang dâng lên với
việc Bắc Kinh trở thành một thành viên thường
trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc
(tháng 10-1971) và từ địa vị kẻ thù
của cả hai siêu cường (Liên Xô và Mỹ)
trở thành đối tác của Mỹ (với Thông cáo
chung Thượng Hải tháng 2-1972). Trung
Quốc tấn công Việt Nam năm 1979 là để
trả đũa Việt Nam đưa quân vào Campuchia nhưng
cũng là khi thế của Việt Nam đi xuống
trong khi thế của Trung Quốc đi lên. Một
tháng sau khi Việt Nam và Liên Xô kư liên minh quân sự
(tháng 11-1978) th́ Trung Quốc và Mỹ cũng tuyên
bố lập quan hệ ngoại giao. Đồng
thời, Việt Nam đang bị thế giới ngoài
phe Liên Xô tẩy chay v́ chiếm đóng Campuchia nên
thế của Việt Nam đang xuống rất
thấp. Các
cuộc tấn công của Trung Quốc dọc biên
giới trong các năm từ 1980 đến 1988 diễn
ra trong bối cảnh Việt Nam tiếp tục bị
bao vây cô lập với thế giới bên ngoài trong khi
Liên Xô, chỗ dựa chủ yếu của Việt Nam,
cũng bị cô lập trên trường quốc tế
(do đưa quân vào Afghanistan) và, cộng với
những khó khăn kinh tế, phải đi vào giai
đoạn ḥa hoăn và thỏa hiệp với Trung
Quốc cũng như phương Tây. Chiến
dịch chiếm một phần Trường Sa năm
1988 của Trung Quốc khởi sự từ năm 1986,
khi Liên Xô chuyển sang nhượng bộ chiến lược
với phương Tây và Trung Quốc, đồng
thời rục rịch rút lui ảnh hưởng
khỏi Đông Nam Á cũng như toàn thế giới.
Bài nói
tại Vladivostok của lănh tụ LiênXô Gorbachov ngày 28-7-1986 tỏ ư Liên Xô sẵn sàng chấp
nhận các điều kiện Trung Quốc đưa ra
để b́nh thường hóa quan hệ Xô-Trung (Liên Xô
rút quân khỏi Afghanistan và giảm căng thẳng
ở biên giới Xô-Trung, Việt Nam rút quân khỏi
Campuchia) đánh dấu sự thay đổi chiến lược
trong chính sách của Liên Xô ở châu Á, đồng
thời cũng là chỉ dấu cho thấy thế
của Liên Xô đi xuống và thế của Trung
Quốc đi lên. Trong các
năm sau, việc Liên Xô rút lui trong khi Mỹ không trám
vào đă thực sự tạo ra một khoảng
trống quyền lực ở khu vực. Trong khi
ấy Việt Nam vẫn bám vào Liên Xô mà không phá
được thế bị cô lập. Một nghị
quyết mật của Bộ Chính trị Đảng
Cộng sản Việt Nam điều chỉnh cơ
bản chiến lược đối ngoại từ
dựa vào Liên Xô sang “đa phương hóa” chỉ
được thông qua vào tháng 5-1988, hai tháng sau vụ
đụng độ ở quần đảo Trường
Sa. Xung đột
biên giới giữa Trung Quốc và Việt Nam giai đoạn
1980-1988 có thể coi là dư chấn của cuộc
chiến năm 1979. Các cuộc chiếm đảo
ở Trường Sa thời kỳ 1990-1992 cũng có
thể coi là dư chấn của chiến dịch năm
1988. Thời
kỳ 1980-1988, Việt Nam tiếp tục bị bao vây cô
lập trong khi Liên Xô, chỗ dựa chủ yếu
của Việt Nam, đi vào giai đoạn ḥa hoăn và
thỏa hiệp với Trung Quốc. Thời
kỳ 1990-1992, tuy là những năm Trung Quốc bị
phương Tây cô lập phần nào sau vụ Thiên An Môn,
cũng lại là những năm Việt Nam mất
hẳn chỗ dựa ở Liên Xô và các nước
Đông Âu trong khi vẫn chưa được nhận
vào ASEAN và chưa b́nh thường hóa quan hệ
được với Mỹ. Việt
Nam làm ǵ? Hiện
nay Việt Nam có thể làm ǵ để Trung Quốc không
đánh? Lư thuyết quan hệ quốc tế gợi ư
năm phương pháp chính: 1) cùng chung một nhà, 2) ràng
buộc bằng lợi ích, 3) ràng buộc bằng
thể chế, 4) răn đe quân sự, 5) răn đe
ngoại giao. Phương
pháp “cùng chung một nhà” xem ra không ổn v́ ít
nhất ba lư do. Thứ nhất, Trung Quốc rất
thiếu cảm t́nh với Việt Nam và kinh nghiệm
quan hệ với Việt Nam khiến Trung Quốc tin
rằng Việt Nam hay tráo trở. Các cuộc thăm ḍ
dư luận ở Trung Quốc cho thấy Việt Nam cùng
với Mỹ và Nhật Bản là ba nước bị
người Trung Quốc ghét nhất trên thế
giới. Thứ hai, Trung Quốc chỉ coi Việt Nam là
đồng chí chứ không phải đồng minh.
Thứ ba, lịch sử cho thấy quan hệ “gắn
bó như môi với răng” giữa Hà Nội và
Bắc Kinh vẫn không ngăn được Trung
Quốc chiếm quần đảo Hoàng Sa, nẫng tay
trên người “đồng chí anh em” Bắc
Việt. Phương
pháp “ràng buộc bằng lợi ích” sẽ không ngăn
được Trung Quốc đánh ở Biển Đông
v́ lợi ích của Trung Quốc ở Biển Đông
có vị trí rất cao trong chiến lược lớn
của Trung Quốc. Biển Đông là yết hầu
con đường tiếp tế vật tư và nhiên
liệu cho Trung Quốc từ Trung Đông, châu Âu, châu
Phi, Nam Á và Đông Nam Á, với 2/3 lượng dầu
khí nhập khẩu và 4/5 lượng hàng hóa nhập
khẩu của Trung Quốc đi qua. Biển
Đông cũng là bàn đạp để khống
chế Đông Nam Á, một khu vực mà nếu Trung
Quốc khống chế được th́ sẽ có
thể quy phục được Nhật Bản và trung
lập hóa cả Mỹ lẫn Ấn Độ, c̣n
nếu Trung Quốc không khống chế được
th́ sẽ không thể ngoi lên địa vị đứng
đầu châu Á. Trung Quốc không có lợi ích nào
ở Việt Nam, kể cả trong hiện tại
lẫn trong tương lai, lớn hơn lợi ích
ở Biển Đông để Trung Quốc phải
đánh đổi. Phương
pháp “ràng buộc bằng thể chế” càng khó ngăn
cản Trung Quốc ra tay khi cần thiết v́ Trung
Quốc cũng như các nước lớn khác chỉ
tuân thủ thể chế quốc tế nếu thể
chế ấy phục vụ lợi ích chiến lược
của họ. Trong trường hợp lợi ích
chiến lược của họ đ̣i hỏi làm khác
đi, họ sẽ có cách giải thích thể chế
quốc tế theo kiểu riêng để biện minh cho
hành động của ḿnh. Trung
Quốc đă làm như thế khi xâm lăng Việt
Nam năm 1979, nói rằng để trừng phạt
Việt Nam xâm lăng Campuchia. Đây không phải là
đặc điểm riêng của Trung Quốc mà các nước
lớn đều như vậy. Mỹ và phương Tây
đánh Nam Tư rồi tách Kosovo ra khỏi nước
này hay Nga đánh Gruzia rồi tách Nam Ossetia và Abkhazia ra
khỏi nước này đều nói là dựa trên
luật pháp và thể chế quốc tế nhưng
đó là luật pháp và thể chế quốc tế
theo cách giải thích riêng của họ. Phương
pháp “răn đe quân sự” không phải là cách mà
Việt Nam có thể làm với Trung Quốc trong lúc này
v́ Việt Nam không có vũ khí hạt nhân để răn
đe chiến lược (trong khi Trung Quốc có) và
lực lượng quân sự thông thường của
Việt Nam hiện c̣n quá yếu để có thể
tạo sức mạnh răn đe chiến thuật
đối với Trung Quốc. C̣n lại duy nhất phương pháp “răn đe
ngoại giao”. Phương pháp này là dùng quan hệ
với các nước mạnh hơn Trung Quốc và áp
lực của quốc tế để Trung Quốc không
dám đánh Việt Nam. Hiện nay trong khu vực, Trung
Quốc vẫn phải kiêng dè Mỹ, do đó Việt
Nam quan hệ càng gần gũi với Mỹ bao nhiêu càng
có tác dụng răn đe bấy nhiêu. Một điểm
nữa Việt Nam có thể tận dụng là Trung
Quốc muốn thế giới tin rằng họ không
phải là mối đe dọa đối với các nước. Nếu
những lấn lướt ức hiếp của Trung
Quốc với Việt Nam được thế
giới quan tâm và hiểu như bước đầu
của một mối đe dọa lớn hơn đối
với họ th́ thứ nhất, chúng có thể làm
Trung Quốc yếu thế đi, và thứ hai, đó cũng
là một lư do để Trung Quốc phải cân
nhắc kỹ hơn nếu có ư định đánh
Việt Nam. Bài
học lịch sử Quy
luật rút ra từ lịch sử ba lần Trung
Quốc đánh Việt Nam và qua phân tích năm phương
pháp nói trên cho thấy để
tránh không bị Trung Quốc đánh, Việt Nam
phải làm được ba điều. Thứ
nhất, phải liên tục nâng cao vị thế
của ḿnh trên trường quốc tế, đặc
biệt chú ư trong tương quan với Trung Quốc.
Nếu Trung Quốc có thêm bạn th́ Việt Nam cũng
phải có thêm bạn mạnh hơn và nếu Trung
Quốc xích lại gần các nước th́ Việt
Nam c̣n phải xích lại gần các nước hơn.
Không bao giờ được để Việt Nam
ở thế cô lập hơn Trung Quốc trên thế
giới. Thứ
hai, phải hết sức bén nhạy với cán cân
quyền lực trong khu vực và phải lập tức
mạnh dạn điều chỉnh chiến lược
đối ngoại khi tương quan lực lượng
trong khu vực biến đổi bất lợi cho
Việt Nam. Thứ
ba, phải sáng suốt t́m ra ai là kẻ mạnh trong
khu vực và đâu là chỗ yếu của Trung
Quốc để thực hiện kế răn đe
ngoại giao. Trong dài
hạn, chỉ có kết hợp răn đe ngoại
giao (kết thân với nước lớn và tranh
thủ dư luận thế giới) với răn đe
quân sự (quân đội mạnh, đặc biệt
hải quân và không quân) và liên tục nâng cao vị
thế quốc tế của ḿnh th́ Việt Nam mới
có thể tương đối yên tâm không bị Trung
Quốc đánh. Sống
cạnh một anh hàng xóm khổng lồ mà không để
bị đánh hoặc ăn hiếp quả là rất khó
nhưng vẫn có thể được, nhất là khi
anh hàng xóm đó chưa phải là kẻ mạnh
nhất trong vùng. Bài viết thể hiện ư kiến riêng của tác giả, tiến sĩ Alexander Vuving (Vũ Hồng Lâm), không nhất thiết phản ánh quan điểm của Trung tâm Nghiên cứu An ninh châu Á-Thái B́nh Dương, Bộ Quốc pḥng và Chính phủ Hoa Kỳ. |
|||