LGT
của cựu Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại -
Tư Lệnh Hải
Quân Vùng I Duyên Hải gởi cho webmaster:
Tôi
phục vụ tại Quân Khu 1 lúc tấn công qua
Hạ lào 1971 và trong muà Hè Đỏ Lửa lúc hành
quân tái chiếm Quảng Trị 1972 và có dịp
dự các buổi họp quan trọng tại Đông Hà
và thấy được sự can trường
cuả các đơn vị Quân Đoàn 1, dặc
biệt là Sư Đoàn 1 và Sư Đoàn Dù trong
trận Hạ Lào và cuả 2 sư đoàn tổng
trừ bị Nhảy Dù và TQLC khi tái chiếm
Quảng Trị. Đó là những anh hùng của VNCH mà
chúng ta phải hảnh diện. Tôi rất xúc
động khi được dịp gặp và tṛ
chuyện với Chiến hửu Trần Ngọc Huế
với tất cả sự cảm phục, vào năm
2011.
Nên
đọc!
hvkt
Quân
đội bị quên lăng của Việt Nam Cộng Ḥa
Bài phát biểu của
Andrew Wiest
Trước hết xin cho phép tôi được tri ân
hội Ái Hữu Người Việt Quốc Gia
Hải Ngoại đă mời tham dự biến cố
tuyệt vời này, và chúng tôi cũng muốn đặc
biệt cám ơn ông Lê Tinh Thông v́ ông đă bỏ
nhiều công sức thực hiện cuộc hội
thảo.
Tôi xin được tự giới thiệu là Andrew
Wiest, dạy môn “Lịch sử Chiến tranh Việt
Nam” tại Đại học Southern Mississipi. Tôi chào
đời năm 1960, là vào thời điểm
cuối của thế hệ “nhi đồng hậu
Thế chiến II” tại Hoa Kỳ. Do đó, tôi c̣n
quá trẻ để phục vụ trong cuộc
chiến Việt Nam, nhưng cuộc chiến ấy
vẫn hiện diện quanh tuổi trưởng thành
của tôi, nhất là trên các đài truyền h́nh. Tôi
rất muốn học hỏi về cuộc chiến
ấy, nhưng các trường từ trung học
đến đại học không có nơi nào dạy
môn đó cả.
Lịch sử và nhân dân Hoa Kỳ h́nh như đều
muốn quên lăng trận chiến và những người
chiến đấu trong chiến tranh đó.
Sau đấy, tôi học môn lịch sử quân sự
trong đại học, và chuyên ngành về Thế
chiến I. Nhưng tôi cũng kín đáo tự học
hỏi về cuộc chiến của thế hệ chúng
tôi: Chiến tranh Việt Nam. Để hiểu
thấu đáo bí mật này, năm 1997, tôi t́nh
nguyện giảng dạy một lớp về
Chiến tranh Việt Nam. Như có thói quen trong các
lớp ḿnh dạy, tôi mời một số cựu
chiến binh trong trận chiến đến diễn
thuyết cho sinh viên. Những câu chuyện họ
kể khiến cho tôi xúc động sâu xa. Tôi học
được thêm về trận chiến Việt Nam,
nhưng vẫn thấy thiếu sót cái ǵ đó, cho nên
vào năm 2000, tôi đem một số cựu chiến
binh và sinh viên sang tận Việt Nam để học
về cuộc chiến ở ngay tại hiện trường.
Tuy nhiên, trong chuyến du hành đó, một việc
rất bất ngờ đă xảy ra.
Tại Huế, tôi gặp ông Phạm Văn Đính,
cựu sĩ quan của Quân lực Việt Nam Cộng
Hoà, một người đă từng oanh liệt
chiến đấu trong nhiều năm, để
rồi năm 1972 phải đầu hàng cùng cả
đơn vị bị vây hăm trong trận Tấn công
mùa Phục sinh “Easter Offensive” [ta gọi là Mùa Hè
Đỏ Lửa]. Và bản thân ông th́ chạy qua bên
địch.
Khi trở về Hoa Kỳ, tôi gặp ông Trần
Ngọc Huế, cũng là cựu sĩ quan Quân lực
Việt Nam Cộng Hoà và chiến hữu của ông
Đính. Tuy nhiên, thay v́ đầu hàng, ông Huế
lại cùng đơn vị chiến đấu đến
cùng khi bị địch quân vây hăm trong chiến
dịch Lam Sơn 719 tại Lào năm 1971. Ông Huế
bị giam 13 năm trong trại tù cộng sản, thêm
sáu năm quản thúc tại gia trước khi
được đi qua Mỹ.
Với tôi, việc hai người là bạn thâm giao
từng chiến đấu bên nhau, lại có hai
kết cục quá khác biệt, là một bí mật
nữa cần được giải đáp. Tôi sang
Việt Nam để t́m hiểu về cuộc
chiến tranh của người Hoa Kỳ, nào ngờ
lại t́m thấy một cuộc chiến của người
Việt Nam.
Sau đó, tôi bắt đầu t́m ṭi và nghiên
cứu tất cả những ǵ tôi thấy về
miền Nam Việt Nam và trận chiến của
họ, nhưng phải chấp nhận một sự
thật phũ phàng là ḿnh gần như không t́m
thấy ǵ nhiều về những điều muốn
biết. Vai tṛ của Việt Nam Cộng Ḥa trong
trận chiến hầu như là một sự vô h́nh
với Tây Phương. Và tôi ư thức được
là tôi đă có một dịp may lớn. Lấy
cuộc đời của hai ông Đính và Huế làm
tâm điểm, tôi quyết định sẽ làm
những ǵ có thể làm được hầu điều
chỉnh quan điểm lịch sử sai lầm và
thảo lại lịch sử của Quân lực
Việt Nam Cộng Hoà. Sau sáu năm nghiên cứu và biên
soạn của tôi, nhà “New York University” cho xuất
bản cuốn “Một Quân đội bị Lăng quên:
Anh hùng và Bội phản trong Quân lực Việt Nam
Cộng Ḥa”, với nội dung tŕnh bày lại
phần lớn của cuộc chiến có kết
hợp quan điểm của Quân lực Cộng Ḥa.
Tôi thường được hỏi, nhất là
từ các sinh viên khi họ chuẩn bị đề
thi cuối năm, rằng ta có thể thắng trong
cuộc chiến Việt Nam không. Và câu trả lời
của tôi – xin đừng cho sinh viên của tôi
biết! – là một lời khẳng định:
chắc chắn!
Thật ra, điều tôi muốn nói là các đơn
vị Hoa Kỳ sẽ không thắng được dù
nếu cố gắng thêm để đạt
được vài thành tích lớn lao. V́ trận
chiến Việt Nam không để Hoa Kỳ chiến
thắng mà là để miền Nam chiến thắng.
Rốt cuộc th́ chỉ có Quân lực Việt Nam
Cộng Hoà mới có khả năng chuyển biến
thắng lợi chiến thuật ngoài trận địa
thành một thắng lợi chiến lược lâu dài.
Với lối suy nghĩ đó, tôi cho rằng chỉ
khi nào chúng ta hiểu được miền Nam và
bản chất của sự liên minh với Hoa Kỳ,
th́ ḿnh mới hiểu thấu đáo về chiến
tranh Việt Nam. Thay v́ bị phủ nhận, miền
Nam và quân đội của họ phải là trọng
tâm của cuộc chiến. Đă đến lúc
trả lại sự công b́nh cho Quân lực Việt
Nam Cộng Ḥa.
Quan điểm của quảng đại quần chúng
và của nhiều tài liệu lịch sử Tây phương
về Quân lực Việt Nam Cộng Hoà mà tôi t́m
thấy đều đơn giản và sai sót trầm
trọng. Nhiều chứng liệu lịch sử hoàn
toàn gạt bỏ Quân lực Việt Nam Cộng Hoà,
trong khi một số khác sơ sài đề cập
đến Quân lực này th́ lại kết án họ
là không hiệu quả và tất yếu thất
bại dưới tay quân đội cộng sản.
Chỉ cần một cái nh́n bao quát, nơi đâu ta
cũng thấy công chúng và các chứng liệu
lịch sử có ảnh hưởng đều đánh
giá miền Nam là suy nhược trầm trọng.
Miền Nam Việt Nam đă gặp chiến tranh
suốt thời kỳ ngắn ngủi, từ 1954 đến
1975 – họ không hề có một ngày an b́nh. Trong
cuộc chiến, miền Nam mất hơn 200 ngàn
chiến binh, chưa kể ha2ng vạn tổn thất
dân sự. Chiến tranh dai dẳng khốc liệt, c̣n
khó khăn hơn mọi hoàn cảnh mà quân đội
Hoa Kỳ đă phải đối phó. Sau khi cuộc
chiến chấm dứt, hơn một triệu rưởi
người dân miền Nam đă rời bỏ
quốc gia thân yêu của họ, và hàng trăm ngàn người
bị giam trong các trại tập trung ở miền
Bắc. Những chứng cớ không thể chối
bỏ này cho ta thấy rằng thay v́ hiển nhiên
thất bại, miền Nam đă chiến đấu
dai dẳng và quyết liệt cho quyền tự do
của họ.
Nếu miền Nam đă chiến đấu anh dũng
th́ v́ sao họ không thắng?
Với sự yểm trợ của người
khổng lồ Hoa Kỳ, tại sao miền Nam không
gieo cho hậu duệ của dân miền Bắc nỗi
trăn trở là “v́ sao miền Bắc lại
thất trận”? Nếu Quân lực Việt Nam
Cộng Hoà không có nhược điểm sinh tử
và nếu họ có một chút hy vọng kiểm soát
trọn quốc gia, th́ câu hỏi chúng ta đặt ra
lại càng gây khó chịu!
Quân lực Việt Nam Cộng Hoà có thể chỉ là
một lư cớ đă bị viện dẫn quá lâu
nhằm giải thích sự thất bại của Hoa
Kỳ. Và đă đến lúc ta phải xét lại
trọn vẹn hơn vai tṛ của Hoa Kỳ trong
sự thất bại của một quốc gia
thật ra có hy vọng sống c̣n.
Các nguyên nhân thất bại của liên minh
Mỹ-Việt thật rất phức tạp, quá
phức tạp để ta có thể đào sâu trong
khuôn khổ của buổi hội thảo. Vả
lại, chủ đề nghiên cứu ban đầu
của tôi chỉ nhắm vào hai sĩ quan trung cấp
trong Quân lực Cộng Hoà và chú trọng vào t́nh h́nh
chiến sự tại Quân Đoàn I.
V́ vậy, cuốn sách của tôi, hay buổi nói
chuyện hôm nay, không có tham vọng tŕnh bày trọn
vẹn lịch sử phức tạp của Quân
lực Việt Nam Cộng Hoà. Nhưng cả quyển
sách lẫn bài thuyết tŕnh hôm nay có thể nêu ra vài
kết luận khái quát về khả năng và
lịch sử của Quân lực Việt Nam Cộng Hoà,
cũng như gợi ư thảo luận về ưu
khuyết điểm của sự vận hành và
thất bại của liên minh Mỹ-Việt.
Dù có thể là quá khái quát, tôi cần nêu lên hai
điểm khởi đầu.
Trước nhất – dù đă chiến đấu
trong nhiều năm rồi, Quân lực Việt Nam
Cộng Hoà là một vận dụng bất toàn khi
mối quan tâm của Hoa Kỳ vào trận chiến
Việt Nam bắt đầu gia tăng vào đầu
thập niên 1960. Trong khi quân nhân miền Nam đă
chiến đấu can trường th́ đa số lănh
đạo cao cấp nhất của Quân lực
Cộng Hoà đều bị chính trị hóa và bị
phân hóa. Cuộc tranh giành quyền lực nội
bộ phương hại nặng nề cho Quân
lực Việt Nam Cộng Hoà – đặc biệt là
sau khi Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm bị
lật đổ – nên cần được thay
đổi từ căn bản.
Thứ hai – dù đầy thiện chí, những
nỗ lực của Hoa Kỳ nhằm gây dựng quân
đội cho miền Nam cho thấy những hiểu
biết phiến diện của họ về thực
trạng Việt Nam. Sau chiến tranh Cao Ly, Hoa Kỳ
cố lập ra một lực lượng quân sự
tại miền Nam với bản chất quá Tây Phương.
Thay v́ thi hành trong khuôn khổ văn hóa Việt Nam, mà
lại lăng quên nhiều triển vọng của h́nh
thái chiến tranh chống nổi dậy, người
Mỹ góp phần gây dựng Quân lực Cộng Hoà
quanh các đơn vị Bộ binh Mỹ, vốn
lệ thuộc vào nguồn tiếp vận dồi dào,
vào hỏa lực và kỹ thuật, để đoạt
thắng lợi chiến thuật.
Khi xây dựng Quân lực Cộng Ḥa như một
sức mạnh quy ước, người Mỹ
hầu như coi thường khía cạnh phiến
loạn của cuộc chiến ở miền Nam,
khiến Quân lực Việt Nam Cộng Hoà không
sẵn sàng đối phó với cuộc chiến. Chính
sách Hoa Kỳ cũng sai lầm khi xây dựng một
Quân lực Cộng Ḥa dù hữu hiệu cũng quá
tốn kém – một quân đội thuộc loại
hạng nhất thế giới mà kinh tế miền
Nam không thể cáng đáng nổi.
Việc Hoa Kỳ trực tiếp nhập cuộc năm
1965 chỉ làm t́nh thế thêm rối ren.
Đáng lẽ gửi quân đội đến
phối hợp với Quân lực miền Nam tại
chiến trường này, Hoa Kỳ lại đưa
quân vào giành chiến thắng thay cho Quân lực
Việt Nam Cộng Hoà. Đáng lư là cùng làm việc
trong một tập thể để tạo dựng
một quân đội và một miền Nam có khả
năng vượt qua chiến tranh, quân lực Mỹ
lại đẩy Quân lực Việt Nam Cộng Hoà
qua bên lề để một ḿnh giành lấy
chiến thắng. Quyết định ấy đă
gạt Quân lực Cộng Hoà và lănh đạo quân
sự của họ ra ngoài biên, đâm ra tŕ hoăn và
cản trở những cải cách cần thiết.
Chính sách này c̣n khiến cho Quân lực Việt Nam
Cộng Hoà càng tùy thuộc vào Hoa Kỳ về cố
vấn, tiếp vận và hỏa lực.
Như ta sẽ thấy, các đơn vị Cộng Ḥa
đă chiến đấu anh dũng bên các đơn
vị đồng minh, và gặt hái nhiều chiến
thắng vẻ vang, mà thường bị lăng quên
trong lịch sử chung của trận chiến. Tuy nhiên,
cho đến năm 1968 chính sách Hoa Kỳ có góp
phần tạo ra một Quân lực Việt Nam
Cộng Hoà, dù hữu hiệu về chiến
thuật, chỉ được thiết trí để
tác chiến bên quân lực Mỹ, thay v́ là một quân
đội có thể tự tồn tại. Chỉ sau
vụ tấn công 1968, khi Hoa Kỳ muốn rút khỏi
chiến tranh hơn là bảo đảm sự
sống c̣n của Quân lực miền Nam, họ
mới giúp đào tạo một Quân lực Việt
Nam Cộng Hoà có khả năng tự lực tự cường
sau khi quân Mỹ triệt thoái. Nhưng việc đó
quá trễ, và quá ít.
Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Sư
đoàn I Bộ binh và sau đó là Tư lệnh Quân
Đoàn I của Quân lực Việt Nam Cộng Hoà,
đă tóm lược sự t́nh như sau: “Gia
nhập cuộc chiến với tinh thần và tác phong
của một đội cứu hỏa, người
Mỹ hăng hái xông vào cứu văn ngôi nhà Việt
Nam khỏi bị thiêu hủy, nhưng không hề quan
tâm đến nạn nhân. Cho tới khi ư thức
được rằng cả nạn nhân cũng
phải được huấn luyện thành người
cứu hỏa để cứu lấy ngôi nhà của
họ th́ Hoa Kỳ mới bắt đếu lưu tâm
đến họ. Một khoảng thời gian quí báu
đă bị lăng phí. Đến khi các nạn nhân
được cấp cứu đă có thể đứng
dậy tiến lên vài bước, th́ đội
cứu hỏa được gọi về trạm
của họ”.
Trong khung cảnh đó, khi t́m hiểu kỹ về trường
hợp của các ông Phạm Văn Đính và
Trần Ngọc Huế, tôi có cơ hội nghiên
cứu sâu rộng hơn vai tṛ tác chiến của Quân
lực Việt Nam Cộng Hoà.
Đa số sử gia Tây phương về chiến
tranh Việt Nam đều điểm lại các bài kư
sự chiến trường nổi tiếng, từ
trận đánh tại thung lũng Ia Drang năm 1965
đến trận đánh trên đồi Hamburger Hill năm
1969. Các bài tường thuật này thường là xúc
động và vinh danh chiến binh Mỹ. Tuy nhiên chúng
lại thiếu một yếu tố quan trọng. Trong
các trận đó, hầu như Quân lực Cộng Hoà
đều bị đồng loạt bỏ quên.
Thực tế th́ người chiến binh Cộng Ḥa
đă hiện diện trên các chiến trường
đó. Họ đă từng tác chiến trước
khi lính Mỹ tới, rồi họ chiến đấu
bên quân lực Mỹ trong hầu hết các trận
lớn của cuộc chiến. Để hiểu
được tường tận những thịnh
suy của cả cuộc chiến, chúng ta phải
đưa Quân lực Việt Nam Cộng Hoà vào
khối sử liệu về trận chiến.
Trong buổi nói chuyện ngày hôm nay, tôi chỉ đề
cập đến hai trận đánh quan trọng
nhất trong cuộc nghiên cứu của tôi để
chứng minh là hiển nhiên phải kể đến
vai tṛ của Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa
một cách đầy đủ hơn trong lịch
sử chiến tranh Việt Nam.
Cứ chọn bất cứ quyển sách nào về
cuộc tấn công Tết Mậu Thân 1968 là quư
vị cũng có thể thấy rất nhiều tin
tức hay dữ kiện về các trận đánh
tại thành phố Huế. Trong tất cả các
quyển sách đó, tác giả đều ngợi ca
Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ là đơn
vị đă trước hết bảo vệ rồi
gan dạ văn hồi an ninh chung quanh công sự của
bộ Tư lệnh MACV của Mỹ. Và đơn
vị đă tái chiếm Huế bằng cách đánh
đuổi địch từ nhà này xuyên qua nhà khác cũng
là Thủy quân Lục chiến Mỹ.
Họ không ngớt lời xưng tụng Thủy quân
Lục chiến Hoa Kỳ nhưng hoàn toàn bỏ quên
sự tham chiến của các đơn vị Việt
Nam Cộng Hoà.
Các quân nhân Thủy quân Lục chiến Mỹ đă
giao tranh rất anh dũng, và đă giải phóng
một phần lớn phía Nam sông Hương, và
chứng minh được danh tiếng như
những đơn vị tinh nhuệ nhất thế
giới. Trong trận Tết Mậu Thân oanh liệt
đó, Thủy quân Lục chiến Mỹ có 147
chiến binh hy sinh (theo số liệu của ông Keith
William Nolan trong cuốn “Battle of Hue – Tet 1968″
xuất bản năm 1996, trang 185).
Nhưng cũng trong trận Mậu Thân đó, Quân
lực Việt Nam Cộng Hoà lại ít đươc
đề cập đến, dầu họ đă đánh
đuổi địch tại nhiều địa
điểm nhất, đặc biệt là trong Thành
Nội. Thành tích của các đơn vị Việt
Nam, với hỏa lực và vũ khí yếu kém hơn
Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ, được
minh chứng với Đại đội Hắc Báo
của Trần Ngọc Huế và Tiểu đoàn 2
thuộc Trung đoàn 3 của Phạm Văn Đính.
Họ chiến thắng các lực lượng Bắc
Việt và Cộng sản miền Nam trong một
trận chiến dài và gian khổ mà không có sự
yểm trợ hỏa lực trực tiếp của các
lực lượng đại pháo cơ hữu.
Sau khi chiến trận kết thúc, phía Việt Nam
Cộng Ḥa có 357 quân nhân tử trận, và giết
được 2.642 bộ đội Bắc Việt và
cộng sản miền Nam. Không ai có thể nghi
ngờ được việc quân nhân Thủy quân
Lục chiến Hoa Kỳ chiến đấu cách anh dũng
và gian khổ tại Huế. Tuy nhiên, người ta
quan niệm rằng trận chiến đó là của
người Hoa Kỳ, với sự trợ lực
nhỏ của quân lực miền Nam. Đấy là
một quan niệm hết sức sai lầm.
Trận đánh giải phóng thành phố Huế trong
cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân là cơ
hội để chúng ta nh́n nhận một cách chính
xác và trả cho Quân lực Việt Nam Cộng Hoà
những thành quả và danh dự mà họ đă
tạo được trong một chiến thắng có
thể nói là hào hùng và anh dũng nhất.
Một trận đánh cũng nổi tiếng nhất
trong lịch sử quân đội Hoa Kỳ và trong phim
ảnh, là trận chiến tại đồi Hamburger vào
năm 1969.
Trong các sách vở hiện có, các tác giả đều
mô tả một trận đánh bi thảm và anh dũng
của các đơn vị Hoa Kỳ thuộc Tiểu
đoàn 3, Sư đoàn 187 Nhảy Dù, nhằm tái
chiếm ngọn đồi đă bị các quân nhân
Bắc Việt cuồng tín chiếm giữ suốt mười
ngày. Khi gần thoái chí th́ các quân nhân Mỹ lại
t́m ra phương cách chiến thắng quân địch,
và chiếm được vị trí oai hùng trong quân
sử Hoa Kỳ từ cuộc chiến Việt Nam.
Tuy nhiên, sự thực lại khác hẳn.
Chính Tiểu đoàn 2 của Trung đoàn 3 của Sư
đoàn I Bộ binh Việt Nam – dưới sự
chỉ huy của Phạm Văn Đính – đă
tiến chiếm đỉnh đồi trước.
Để rồi được điều động
đi nơi khác mà “nhường” chiến thắng
lại cho lực lượng Hoa Kỳ.
Chỉ với hai thí dụ cụ thể đó để
làm điểm tựa, chúng ta có thể thấy
được rằng muốn hiểu biết rơ ràng
và thâm sâu về chiến tranh Việt Nam, ta phải
kể đến sự tham gia của Quân lực
Việt Nam Cộng Hoà vào lịch sử của
chiến tranh Việt Nam.
Sau Tết Mậu Thân, vai tṛ của Quân lực này
trong trận chiến đă thay đổi một cách
rơ rệt. Đa số người lính Cộng Hoà nghĩ
là họ đă thắng trận chiến chống quân
cộng sản tại miền Nam từ năm 1969.
Đa số các vùng nông thôn đều b́nh yên, và
địch thủ đang lẩn trốn. Về
phần hai ông Đính và Huế, họ nghĩ
rằng bước tiến sắp tới sẽ là
tiến qua Lào hoặc tấn công ra Bắc Việt
để đánh vào gốc. Cũng như các
chiến hữu trong Quân lực, họ rất ngạc
nhiên v́ đáng lẽ tiếp tục tiến mạnh
th́ người Mỹ lại bắt đầu rút
lui: một hành động làm thay đổi toàn
diện cục diện của chiến tranh Việt
Nam.
Đa số các sử gia người Mỹ về
chiến tranh Việt Nam không mấy để ư đến
trận chiến sau năm 1970, v́ cho rằng thảm
kịch của Hoa Kỳ sắp sửa hạ màn. Nhưng,
thảm kịch của quốc gia Việt Nam mới
chỉ bắt đầu. Những trận đánh
lớn nhất trong cuộc chiến chưa khai
diễn, những trận chiến ít được
truyền thông và báo chí Tây Phương theo dơi – mà
lại là những trận then chốt để
hiểu được v́ sao chiến tranh Việt Nam
lại kết thúc như vậy.
V́ không c̣n thiều thời gian duyệt xét lại
từng trận đánh lớn, tôi sẽ nhắc
đến hai trận đánh nổi bật nhất
trong công việc nghiên cứu của riêng tôi: trận
Lam Sơn 719 vào đất Lào và trận tổng
tấn công mùa Phục Sinh, gọi là Eastern Offensive vào
năm 1972 [mà người Việt gọi là Mùa Hè
Đỏ Lửa).
Trong trận đánh sang Lào năm 1971, lần đầu
tiên Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa tung các đại
đơn vị vào đất địch mà không có
cố vấn Hoa Kỳ. Trong trận chiến, quân
đội Việt Nam đă tỏ ra rất hùng
mạnh. Trước một địch thủ đông
hơn, với khí giới tối tân hơn do khối
cộng sản cung cấp, các quân nhân miền Nam
đă kiên tŕ chiến đấu, được
thể hiện qua kinh nghiệm của Trần Ngọc
Huế. Ông Huế, Tiểu đoàn trưởng
Tiểu đoàn 2, thuộc Trung đoàn 2 của Quân
đoàn I Bộ binh, đă cùng đơn vị
của ông phải giải vây sau sáu lần bị
địch bao vây, trước khi Huế bị
trọng thương. Chỉ có 26 người c̣n
sống sót trở lại Việt Nam, trong khi Huế
bị bắt làm tù binh và bị giam 13 năm trong các
trại tù cộng sản tại miền Bắc.
Kinh nghiệm của chiến dịch Lam Sơn 719 cũng
cho thấy là quân lực Việt Nam chưa sẵn sàng
để sống c̣n một ḿnh. Họ có vấn
đề lănh đạo ở cấp cao nhất. Và
vẫn phải tùy thuộc vào hỏa lực yểm
trợ của Hoa Kỳ, là những khó khăn có
thể giải quyết được trong tương
lai. Thay v́ bổ khuyết và sửa chữa các khó khăn
này, Hoa Kỳ lại càng rút quân nhanh chóng hơn.
Vào mùa Phục Sinh năm 1972, quân đội Bắc
Việt tung toàn lực vào Nam với hy vọng mau chóng
kết thúc trận chiến. Mặc dù bị thiệt
hại nhiều lúc đầu, quân lực Việt Nam
đă chống trả mănh liệt tại các chiến
trường Quảng Trị, Kontum và An Lộc –
những trận chiến gần như không được
biết tại Hoa Kỳ. Không có bất cứ trợ
giúp nào của binh lính Mỹ tại trận địa,
chỉ có các cố vấn Mỹ và hỏa lực Hoa
Kỳ, Quân lực Việt Nam Cộng Hoà đă
dứt khoát đánh bại địch quân trên
ngần ấy mặt trận.
Với quân cộng sản miền Nam bị triệt
hạ, hai chiến dịch Lam Sơn 719 và tái chiếm
cổ thành Quảng Trị chứng minh cho thế
giới thấy Quân lực Việt Nam Cộng Hoà,
với sự cố vấn và yểm trợ của
Hoa Kỳ, vẫn có thể đương đầu
với quân Bắc Việt.
Trên một số phương diện, hệ thống
kết hợp này đă thành công. Quân lực Việt
Nam từng được đào tạo để
chiến đấu bên lực lượng Bộ binh
Hoa Kỳ. Bây giờ, việc hợp tác giữa nhân
lực Việt Nam và hỏa lực Mỹ đă
chứng tỏ sự công hiệu, nhất là trong
trận tấn công mùa Phục Sinh. Nhưng người
Mỹ đă quá mỏi mệt với “trận
chiến của họ”, nên nhanh chóng rút cả
cố vấn lẫn sự yểm trợ hỏa
lực ra khỏi chiến tranh. Cuối cùng, họ
cắt giảm luôn viện trợ tài chánh cho Việt
Nam.
Hoa Kỳ đă bỏ ra nhiều thời gian và công
sức giúp cho việc đào tạo một Quân
lực Việt Nam Cộng Hoà có thể chiến đấu
trong một liên minh bên cạnh quân lực Hoa Kỳ,
với Hoa Kỳ giữ vai chính. Quân lực Cộng Hoà
chiến đấu rất giỏi trong cái thế phân
công ấy, và thắng bao nhiêu trận mà hoàn toàn
bị Tây Phương phủ nhận. Vào giai đoạn
cuối của trận chiến, liên minh ấy đă
vất vả tiến gần chiến thắng thực
sự. Nhưng chẳng may, người đồng
minh chỉ đạo lại bỏ cuộc, để
quân lực Việt Nam trong một hoàn cảnh mà
họ không hề được huấn luyện
để đảm nhiệm – là đơn phương
chiến đấu. Với thời gian, họ sẽ
thích ứng để đảm đương vai tṛ
mới đó. Nhưng việc Hoa Kỳ rút hết
viện trợ quân sự và tài chánh lại không cho
Quân lực miền Nam khoảng thời gian thích
ứng này.
Hoa Kỳ tháo chạy quá nhanh, để Quân lực
Việt Nam Cộng Hoà có thể tồn tại một
ḿnh.
Để hiểu biết tường tận trận
chiến Việt Nam, chúng ta phải nói đến Quân
lực Việt Nam Cộng Hoà trong cuộc chiến.
Một điều mà tôi hy vọng rằng quyển sách
của tôi có thể làm là chứng minh Quân lực
miền Nam đă chiến đấu cam go và bền
bỉ cho nền độc lập của Việt Nam
Cộng Ḥa. Quân lực Việt Nam có thể thắng
trận chiến, và xứng đáng được hưởng
một số phận khác.
Tôi muốn kết thúc phần phát biểu của tôi
bằng cách cám ơn một lần nữa tất
cả quư vị đă cho tôi cơ hội nói
chuyện hôm nay, bằng cách chào kính các cựu quân
nhân trong Quân lực Việt Nam Cộng Hoà. Quư vị
là bậc anh hùng, và tôi vinh dự được là
kẻ tường thuật.
=========
“VIETNAM’S
FORGOTTEN ARMY”
By Andrew Wiest
Vietnams
Forgotten Army: Heroism and Betrayal in the ARVN chronicles
the lives of Pham Van Dinh and Tran Ngoc Hue, two of the brightest young
stars in the Army of the Republic of Vietnam (ARVN). Both men fought with
valor in a war that seemed to have no end, exemplifying ARVN bravery and
determination that is largely forgotten or ignored in the West. However,
while Hue fought until he was captured by the North Vietnamese Army and
then endured thirteen years of captivity, Dinh surrendered and defected to
the enemy, for whom he served as a teacher in the reeducation of his
former ARVN comrades.
An understanding of how two lives that were so similar diverged so
dramatically provides a lens through which to understand the ARVN and
South Vietnams complex relationship with Americas government and military.
The lives of Dinh and Hue reflect the ARVNs battlefield successes, from
the recapture of the Citadel in Hue City in the Tet Offensive of 1968, to
Dinhs unheralded role in the seizure of Hamburger Hill a year later.
However, their careers expose an ARVN that was over-politicized,
tactically flawed, and dependent on American logistical and firepower
support. Marginalized within an American war, ARVN faced a grim fate as
U.S. forces began to exit the conflict. As the structure of the ARVN/U.S.
alliance unraveled, Dinh and Hue were left alone to make the most
difficult decisions of their lives.
Andrew Wiest weaves historical analysis with a compelling narrative,
culled from extensive interviews with Dinh, Hue, and other key figures.
Once both military superstars, Dinh is viewed by a traitor by many within
the South Vietnamese community, while Hue, an expatriate living in
northern Virginia, is seen as a hero who never let go of his ideals. Their
experiences and legacies mirror that of the ARVNs rise and fall as well as
the tragic history of South Vietnam.
Release Date: 12/1/2007
About the Author:
Andrew Wiest is Professor of History and Co-Director of the Center for the
Study of War and Society at the University of Southern Mississippi. He is
co-editor of War in the Age of Technology: Myriad Faces of Modern Armed
Combat (NYU Press, 2001) and author or co-author of numerous books,
including Rolling Thunder in a Gentle Land: The Vietnam War Revisited,
Atlas of World War II, and The Vietnam War, 1959 – 1975. He lives in
Hattiesburg, MS.
• “Exceptional, both in content and readability. Vietnam’s Forgotten
Army addresses one of the lacunas in the historiography of the war — the
story of the South Vietnamese soldier, a story that more often than not is
totally ignored or only given the briefest of consideration. The
author’s vivid description of combat and its toll put a human face on
what for many historians is merely a clinical discussion of unit moves,
victories and defeats.”
James H. Willbanks, Director, Department of Military History, U.S.
Army Command and General Staff College
• “Vietnam’s Forgotten Army offers a compelling account of two
heroic ARVN officers who, in the final years of the war, choose
diametrically opposed courses of action. One surrenders, and enjoys a
relatively easy subsequent life, but is plagued by guilt. His
comrade-in-arms remains true to the Republic, suffers many years of
separation, imprisonment and deprivation, but ultimately finds
fulfillment. In the process of telling this remarkable story, Wiest offers
a better understanding of the trials and travails of those who served in
the Armed Forces of the Republic of Vietnam.”
James R. Reckner, Director, The Vietnam Center, Texas Tech University |