Sự kết thúc chiến tranh Việt Nam (Phần 1)

Tác giả: Henry Kissinger

Đỗ Kim Thêm, dịch

Đại tá Bùi Tín của QĐNDVN chào tiễn biệt toán lính Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam vào ngày 29 tháng 3 năm 1973. Nguồn ảnh: Picture alliance / AP / Charles Harrity

Lời người dịch: Nguyên tác của bản dịch là “The Vietnam War and its Conclusions”, một trích đoạn trong tác phẩm Leadership – Six Studies in World Strategy của Henry Kissinger do Nhà xuất bản Penguiun Press, New York ấn hành ngày 5-7-2022, (Trang 149-163).

Trong bài viết, Kissinger nêu lên chiến lược nguyên thuỷ khi đàm phán của Richard Nixon đề ra là binh sĩ Mỹ và Bắc Việt phải cùng lúc rút ra khỏi miền Nam. Nhưng khi Kissinger dự thảo cho Hoà ước Paris,  có sự thay đổi điều kiện là Lê Đức Thọ chỉ chấp thuận cho việc binh sĩ Mỹ đơn phương ra đi trong khi binh sĩ Bắc Việt được tiếp tục đồn trú tại miền Nam. Kissinger không giải thích tại sao phải chấp nhận điều kiện này.

Trong cuốn sách Kissinger’s Betrayal: How America Lost the Vietnam War, do Nhà xuất bản Real Clear Publishing ấn hành vào tháng 4 năm 2023, Stephen B. Young đă dẫn chứng nhiều nguồn tài liệu và thư tín của Ellsworth Bunker, Henry Kissinger, Lưu Văn Lợi và Nguyễn Anh Vũ, Anatoly Dobrynin, Claude Dulong-Sainteny cũng như trực tiếp phỏng vấn Bunker và Nixon. Stephen B. Young kết luận, Kissinger đă qua mặt cả Nixon khi tự ư đề ra điều kiện cho binh sĩ Bắc Việt ở lại. Lá thư của Kissinger gửi cho Bunker vào ngày 25-5-1971 và biên bản cuộc họp ngày 9-1-1971 tại Toà Bạch Ốc với Đại sứ Dobrynin là hai bằng chứng cụ thể.

Sau khi tiếp xúc với Kisinger, Đại sứ Dobrynin xác nhận với Moscow và Hà Nội là: “…Nếu Hoa Kỳ cam kết rút toàn bộ lực lượng trong một thời hạn nhất định và có thể không yêu cầu lực lượng QĐNDVN rút đồng thời ra khỏi miền Nam … Bắc Việt nên cam kết tôn trọng lệnh ngừng bắn trong thời gian Hoa Kỳ rút quân …”

Richard Nixon nói không biết Kissinger thật sự làm ǵ vào năm 1971.

Cho đến nay, Kissinger chỉ lăp lại các biện minh quen thuộc: Hậu quả của Watergate làm cho Nixon ra đi, Quốc hội Mỹ cắt giảm viện trợ làm cho miền Nam không thể tiếp tục chiến đấu, không thú nhận bị Lê Đức Thọ lừa đảo và hay có bất cứ một trách nhiệm nào về chính trị hay đạo đức cá nhân. Kissinger vẫn chưa trả lời các cáo buộc của Stephen B. Young.

***

Khi Nixon tuyên thệ nhậm chức vào tháng Giêng năm 1969, Hoa Kỳ đă có gần hai thập niên can dự tại Việt Nam, 30.000 binh sĩ đă tử thương trên chiến trường và nhiều cuộc biểu t́nh phản chiến, đôi khi bằng bạo lực. Trong lần gặp gỡ Nixon đầu tiên sau khi thắng cử tại khách sạn Pierre, ông nhấn mạnh, kiên quyết kết thúc cuộc chiến Việt Nam trong nhiệm kỳ đầu tiên. Ông hứa với các gia đ́nh tử sĩ về một sự kết thúc phù hợp đối với vinh dự của Mỹ. Ông muốn đạt được việc này bằng chính sách ngoại giao thông qua liên kết với Liên Xô. Ư tưởng về việc mở cửa đối với Trung Quốc cũng có thể sẽ đóng một vai tṛ, nhưng ông sẽ không bán tháo (chủ trương). Một nền an ninh của các dân tộc tự do, hoà b́nh thế giới và tiến bộ tuỳ thuộc vào việc tái lập và đổi mới tinh thần lănh đạo của Hoa Kỳ. Các nỗ lực về chính trị và quân sự cũng phải được duy tŕ song song.

Ngay trong lúc đầu của nhiệm kỳ tổng thống Harry Truman, Hoa Kỳ đă tham gia việc bảo vệ miền Nam để chống lại sự nổi dậy của Cộng sản bằng cách gởi các cố vấn quân sự. Eisenhower gia tăng viện trợ Mỹ và nâng số lượng các cố vấn quân sự từ 35 lên đến gần 700 vào năm 1956, đặt họ trực thuộc Toà Đại sứ Mỹ tại Sài G̣n. Vào lúc cuối nhiệm kỳ, Eisenhower kết luận là, qua việc mở ra các đường tiếp vận mới, các đơn vị Bắc Việt thâm nhập được Lào và Kampuchea, hai nước yếu và trung lập nằm cạnh biên giới Nam Việt Nam, làm cho t́nh h́nh an ninh tại Sài G̣n ngày càng bị đe doạ và do đó phải kháng cự.

Các đường tiếp vận, một hệ thống mà sau này nổi danh là đường ṃn Hồ Chí Minh dài 1000 cây số chạy qua một khu vực rừng hoang dă dọc theo biên giới phía nam của miền Nam Việt Nam; do đó, rất khó để phát hiện, tấn công hay phong toả. Đường ṃn Hồ Chí Minh trở thành một điểm quan trọng của các nhà chiến lược Bắc Việt để họ làm suy yếu và cuối cùng làm sụp đổ chính phủ miền Nam.

Trong lúc chuyển giao quyền tổng thống vào năm 1960, Eisenhower khuyên John F. Kennedy, người kế nhiệm, là nên điều động quân Mỹ đến khu vực, và trong trường hợp cần thiết, chống lại các cuộc xâm nhập trong các nước láng giềng trung lập. Kennedy không thi hành ngay các lời khuyên này của Eisenhower, nhưng thay vào đó, cố thử t́m kiếm một giải pháp chính trị thông qua ngoại giao với Hà Nội. Kết quả là một Hiệp ước Quốc tế về Trung lập Lào được kư kết vào năm 1962.

Về sau, khi Hà Nội vi phạm t́nh trạng trung lập của Lào qua việc thâm nhập nghiêm trọng, Kennedy phản ứng bằng cách gởi 15.000 binh sĩ Mỹ đến để huấn luyện và cố vấn cho các đơn vị chiến đấu của Nam Việt Nam. V́ chính quyền Kennedy nhận ra là Ngô Đ́nh Diệm, nhà lănh đạo độc tài Nam Việt Nam, thiếu sự ủng hộ rộng răi của dân chúng và ư chí chính trị để chiến thắng, nên thúc giục quân đội lật đổ. Cuộc đảo chính đă đưa đến việc sát hại ông Diệm vào ngày 2 tháng 11 năm 1963 và làm suy yếu chính quyền Nam Việt Nam ngay trong ḷng cuộc nội chiến, mà theo định nghĩa, một chính quyền bị bao vây là một cái giá chủ yếu. Bắc Việt dùng cơ hội này để thâm nhập các lực lượng chiến đấu chính quy nhằm tăng cường cho các lực lượng quân kháng chiến.

Sau vụ sát hại Kennedy vào ngày 22 tháng 11 năm 1963, Lyndon B. Johnson đă theo lời khuyên của toán công tác về an ninh quốc gia mà gia tăng các nỗ lực quân sự tại Việt Nam. Ông tiếp nhận nhóm này có từ thời Kennedy, trừ một người trong nhóm chệch hướng là George Ball, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao (1). Tuy nhiên, không bao lâu sau, Johnson nhận ra rằng, các hỗn loạn chính trị trong khu vực phức tạp hơn, v́ các rối rắm qua việc triển khai một chiến lược quân sự.

Đối với Mỹ, quy mô tuyệt đối của việc gởi quân Mỹ đến một khu vực xa xôi tạo ra chuyện tối cần thiết là phải chấm dứt chiến cuộc một cách nhanh chóng. Nhưng Hà Nội kéo dài xung đột để làm kiệt quệ tinh thần người Mỹ. Trong một cuộc đọ sức giữa một đạo quân được cơ giới hoá và các đạo quân kháng chiến đặt cơ sở hoạt động trong rừng th́ các bộ đội này chiếm ưu thế, v́ họ sẽ thắng cho đến lúc nào mà họ không thua.

Tháng Giêng năm 1969, Bắc Việt kiểm soát 1/3 lănh thổ phía Tây của Lào và một phần của Kampuchea, v́ nó lọt ra ngoài phạm vi của các lực lượng Mỹ. Họ sử dụng các nơi này như là những căn cứ, một phần lớn là để gởi hàng tiếp vận tới miền Nam và đe doạ vùng cực nam của miền Nam, kể cả Sài G̣n. Do đó, Bắc Việt có vị thế tiếp vận để thử thách tinh thần kiên tŕ của người Mỹ ở trong nước. Như Phạm Văn Đồng, Thủ tướng Bắc Việt, giải thích cho Harrison Salisbury, kư giả của tờ New York Times, là họ theo đuổi một chiến lược dựa vào một niềm tin, người Bắc sẽ chiến đấu cho Việt Nam kiên cường hơn người Mỹ, điểm chủ yếu là nhiều người Việt sẵn sàng chết cho Việt Nam nhiều hơn người Mỹ.

Bế tắc trên chiến trường và số lượng thương vong tăng cao, tạo ra phân hoá xă hội tại hậu phương Mỹ. Trong thời chính quyền Johnson, những cuộc thảo luận trong các khuôn viên đại học về các mục tiêu và khả năng thực hiện của cuộc chiến đă bắt đầu. Khi Nixon tuyên thệ nhậm chức, những cuộc thảo luận đă bộc phát và trở thành những đối kháng trong mối quan hệ về giá trị và phương pháp của Mỹ. Cuộc chiến có chính nghĩa không? Nếu không được biện minh, tốt hơn là nên từ bỏ toàn bộ công cuộc chiến đấu. Mặc dầu thoạt đầu thái độ bỏ cuộc được coi như là cực đoan; về sau, quan điểm này có trong phần lớn giới trí thức của xă hội Mỹ.

Chủ thuyết xem Mỹ là ngoại lệ bị đảo lộn; chủ thuyết duy tâm nhằm đề cao việc hỗ trợ cho Mỹ đảm nhận trách nhiệm quốc tế sau Thế chiến thứ hai được đề cập trở lại khi Mỹ đối diện với cuộc chiến Việt Nam, nhằm vào việc bác bỏ vai tṛ lănh đạo toàn cầu. Cuộc khủng hoảng niềm tin do việc Mỹ tham chiến tại Việt Nam đă vượt ra khỏi vấn đề cuộc chiến và chuyển hướng sang bản chất đích thực và nền tảng trong các mục tiêu của Mỹ.

Phong trào phản chiến ngay trong ḷng các đại học tạo thành các cuộc biểu t́nh của quần chúng, nó đạt đến cao điểm làm cho Tổng thống Johnson không thể xuất hiện trước công chúng trong các cuộc vận động tranh cử vào năm 1968, chỉ với ngoại lệ khi nào ông đến các căn cứ quân sự. Tuy vậy, việc rút quân đơn phương ra khỏi cuộc chiến không được dân chúng ưa chuộng. Hubert Humphrey, ứng viên Tổng thống của Đảng Dân chủ và Richard Nixon, đối thủ của Đảng Cộng Hoà, đều từ chối việc rút quân đơn phương. Nhưng trong cuộc vận động tranh cử, họ hứa hẹn là sẽ t́m ra một đường lối kết thúc cuộc chiến qua đàm phán.

Nixon không nói rơ bằng cách nào, nhưng chỉ nói là sẽ có một phương sách mới. Tuy nhiên, các các cơ sở của Đảng Dân chủ phản đối các việc rút quân mà không đề cập đến chi tiết. Vấn đề gây cho Đảng Dân chủ chia rẽ và ngày Đại hội đảng để đề cử ứng viên vào tháng Tám xáo trộn là thúc giục đ̣i hỏi việc rút quân của hai phía (Mỹ và Bắc Việt) ra khỏi Nam Việt Nam. Nghị sĩ Edward Ted Kennedy và các đảng viên Dân chủ theo phe bồ câu dự trù khuôn khổ của việc đề nghị rút quân Mỹ, nhưng chỉ đề cập đến như là một số lượng quân đáng kể.

Từ cuộc gặp gỡ đầu tiên của chúng tôi, Nixon kiên quyết t́m ra một lối thoát đầy vinh dự tại Việt Nam, đó là tất yếu cho vai tṛ lănh đạo thế giới của Mỹ. Trong thời gian chuyển quyền sau bầu cử, chúng tôi định nghĩa “đầy vinh dự” là những người Đông Dương đă chiến đấu cho tự do của họ có được một cơ hội để tự quyết định cho vận mệnh của ḿnh, trong khi phong trào phản chiến tại Mỹ chỉ đ̣i hỏi một phía rút quân, điều mà Nixon cực lực phản đối.

Theo quan điểm của Nixon, quyền lợi quốc gia đ̣i hỏi phải có một đường lối trung dung giữa chiến thắng và rút quân. Theo Nixon, rút quân không điều kiện đưa đến sự thoái vị về tinh thần và địa chính trị, nói khác đi, một sự thiệt hại nặng nề về ư nghĩa của Hoa Kỳ đối với trật tự quốc tế. 

Khi Nixon nhậm chức, ông khám phá ra các lư do thiết thực để từ chối việc rút quân đơn phương. Vị Tham mưu trưởng Liên quân ước lượng rằng, để chuẩn bị cho việc rút nửa triệu quân và các thiết bị phải cần thời gian 16 tháng. Ngay cả khi cho rằng, việc ước lượng của vị Tư lệnh này bị ảnh hưởng do ác cảm, kinh nghiệm đầy hỗn loạn trong việc rút 5.000 lính Mỹ ra khỏi Afghanistan trong năm 2021 cho thấy t́nh trạng vô trật tự tiềm ẩn qua việc rút quân đơn phương trong điều kiện chiến tranh. Tại Việt Nam, có khoảng hơn 150.000 binh sĩ Mỹ và ít nhất là 800.000 binh sĩ Bắc Việt và một số lượng tương đương binh sĩ miền Nam, thái độ của họ là có cảm tưởng bị phản bội, có thể xảy ra từ sự thù nghịch cho đến hỗn loạn.

Chính v́ thế, như đă tuyên bố trong cuộc vận động tranh cử, Nixon quyết định đạt được sự liên kết một giải pháp ngoại giao với Liên Xô. Ông theo đuổi chiến lược này ngay khi đối diện cuộc tấn công của Bắc Việt, nó bắt đầu nội trong ba tuần sau khi ông nhậm chức, trước khi ông đưa ra bất cứ một hành động quân sự quan trọng nào, việc này làm cho hơn 6.000 binh sĩ thương vong trong sáu tháng đầu tiên trong nhiệm kỳ tổng thống của ông.

Nixon muốn t́m ra một sự kết hợp ngoại giao bằng cách áp lực buộc Liên Xô cắt giảm viện trợ cho Hà Nội. Ban Tham mưu của tôi dự kiến một kế hoạch ngoại giao để giải thích, trong đó chúng tôi chuẩn bị tŕnh bày các tương nhượng cho Bắc Việt, để có thể thông qua Moscow. Song song, với bí danh “Duch Hook” (2), Ban Tham mưu của tôi có các chọn lựa khác là việc leo thang quân sự (chủ yếu là phong toả và ném bom). Trường hợp Moscow từ chối các đề nghị của chúng tôi, Nixon muốn cố thử áp đặt bằng bạo lực quân sự (việc này đă xảy ra, khi một phần lớn kế hoạch quân sự được thực hiện trong ba năm sau này, tháng 5 năm 1972, như là phản ứng trước việc tấn công của Hà Nội trong chiến dịch  mùa hè đỏ lửa).

Là nhà đàm phán của chính quyền Johnson với Bắc Việt, Cyrus Vance tỏ ra nhạy bén cho ư tưởng khi được bổ nhiệm làm đặc sứ trong trường hợp đề nghị của chúng tôi được đồng thuận.

Được Nixon thoả thuận, tôi đưa ra một khái niệm với Anatoli Dobrynin, Đại sứ của Liên Xô tại Hoa kỳ, mà không nêu chi tiết. Chúng tôi không nhận được câu trả lời nào từ phía Moscow, nhưng trong lần gặp gỡ đầu tiên vào tháng 8 năm 1969 với Bắc Việt, Xuân Thuỷ, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Hà Nội, từ chối lời đề nghị với lập luận là Hà Nội không bao giờ đàm phán thông qua phe thứ ba.

Trong khi nghiên cứu về các đường lối ngoại giao, Nixon đề ra một khái niệm chiến lược toàn diện trước thế giới vào ngày 25 tháng 7 năm 1969. Về địa điểm của bài diễn văn, ông chọn một nơi vắng vẻ thuộc phía Tây Thái B́nh Dương của đảo Guam, ông dừng lại ở đây vào buổi chiều trong chuyến công du khắp thế giới, ngay trước đó ông chào đón các nhà phi hành không gian Mỹ, khi họ vừa từ mặt trăng trở về.

Qua lời tuyên bố có vẻ đầy ấn tượng trong cuộc họp báo này, Nixon tŕnh bày về chính sách Đông Nam Á; thực ra, bài diễn văn này đă được Toà Bạch Ốc chuẩn bị cẩn trọng và tu chỉnh ngay trong chuyến bay, nhằm nhấn mạnh đến mối bang giao của Hoa Kỳ và các đối tác trong vùng. Nixon cảnh báo về các nguy cơ do các chế độ Cộng sản tại Trung Quốc, Bắc Hàn và Bắc Việt gây ra và tiếp tục lập luận là:

“Hoa Kỳ phải tránh một chính sách mà các nước tại châu Á trở nên quá lệ thuộc vào chúng ta, đến độ mà chúng ta bị ràng buộc trong các cuộc tranh chấp như cuộc tranh chấp mà chúng ta có tại Việt Nam”.

Dĩ nhiên, báo chí tháp tùng có hỏi về các chi tiết mà Nixon đă chuẩn bị sẵn để trả lời. Ông đáp: “Tôi tin rằng, thời điểm đă đến khi Hoa Kỳ phải nhấn mạnh đến hai điểm về mối quan hệ đối với tất cả các nước thân hữu châu Á.

Thứ nhất: Chúng ta sẽ tuân thủ các nghĩa vụ kết ước … nhưng thứ hai, trong những vấn đề có liên hệ đến an ninh nội địa và bảo vệ quốc pḥng, với ngoại trừ việc các cường quốc có trang bị vũ khí hạt nhân đe doạ, Hoa Kỳ sẽ khuyến khích và có quyền kỳ vọng các quốc gia châu Á là sẽ càng lúc càng tự lo liệu về các vấn đề của họ và đảm nhận trách nhiệm”.

Những ǵ mà về sau nổi danh là “chủ thuyết Nixon” bao gồm ba nguyên tắc cơ bản:

1. Hoa Kỳ sẽ tuân thủ các nghĩa vụ kết ước.

2. Hoa Kỳ sẽ sẵn sàng bảo vệ trong trường hợp cường quốc nguyên tử đe doạ tự do đối với một trong các nước đồng minh của chúng ta hoặc một nước mà sự sống của họ c̣n được Hoa Kỳ xem như cần thiết cho nền an ninh của Hoa Kỳ và toàn khu vực.

3. Trong trường hợp có các loại tấn công khác, nghĩa là, các cuộc tấn công bằng vũ khí quy ước của các cường quốc không có vũ khí hạt nhân, Hoa Kỳ sẽ yểm trợ bằng quân sự và kinh tế, khi được họ yêu cầu. Nhưng Hoa Kỳ cũng chờ đợi các nước bị đe doạ trực tiếp, đảm nhận trách nhiệm chủ yếu trong việc cung ứng nhân lực cho việc bảo vệ.

Trong khuôn khổ mà về sau được gọi là “Việt Nam hoá chiến tranh”, Hoa Kỳ muốn viện trợ quân sự, huấn luyện và yểm trợ không quân theo theo nguyên tắc thứ ba trong ba nguyên tắc kể trên, để cho Sài G̣n có điều kiện cầm cự cho đến khi nào đủ mạnh để tự bảo vệ. Mục đích của chủ thuyết Nixon là thể hiện việc người Mỹ  kiên quyết và khả năng của miền Nam Việt Nam có thể pḥng thủ để Hà Nội đồng thuận về một giải pháp chính trị, nó cho phép dân chúng miền Nam tự quyết định tương lai của ḿnh.

Nixon hứa tuân thủ các nghĩa vụ của Hoa Kỳ đối với các đồng minh kết ước như Nam Hàn và Thái Lan và cũng bảo vệ các nước khác tại châu Á, khi họ bị các cường quốc nguyên tử đe doạ, việc này ám chỉ Trung Quốc và Liên Xô. Sự khác biệt giữa Nixon và các bậc tiền nhiệm là ông làm ràng buộc phạm vi các viện trợ Mỹ, các nước bị đe doạ phải tự nhận trách nhiệm bảo vệ. Mục tiêu chính là ông muốn trấn an các nước mà sự sống c̣n của họ dựa vào niềm tin về vai tṛ của Mỹ, khi các cuộc đàm phám để chấm dứt chiến tranh Việt Nam không đánh dấu về việc triệt thoái chiến lược từ châu Á (3).

Vào cuối nhiệm kỳ, tổng thống Johnson đă có các cuộc đàm phán chính thức với Bắc Việt và được tiếp tục dưới thời Nixon. Hàng tuần đại diện của Bắc Việt, Mỹ, chính quyền miền Nam của Sài G̣n và Mặt trận Giải phóng miền Nam gặp nhau tại khách sạn Majestic, Paris. Hà Nội không bao giờ xem các cuộc đàm phán này là một tiến tŕnh ngoại giao, mà chỉ là một giai đoạn tiếp tục của một chiến lược tâm lư, để họ làm hao ṃn ư chí của Mỹ và làm sụp đổ chính quyền “bất hợp pháp” của Nam Việt Nam.

Vào những ngày cuối cùng của chiến dịch vận động tranh cử năm 1969, Tổng thống Johnson công bố với niềm hy vọng tràn trề là Bắc Việt theo đuổi hai mục đích trong các cuộc đàm phán này: Đối với chính phủ Nam Việt Nam phải mất tính chính danh, để trước hết Hà Nội hoàn toàn từ chối đàm phán với họ và kiên tŕ là Mặt trận Giải phóng miền Nam là phía đàm phán cho miền Nam tại bàn hội nghị.

Sau khi một thoả hiệp được t́m ra để cả hai phe của miền Nam được tham dự đàm phán chính thức, Hà Nội từ chối không hề nói đến bất cứ vấn đề nội dung nào. Mục tiêu của Bắc Việt là kéo dài các cuộc đàm phán cho đến khi nào Hoa Kỳ kiệt sức hoặc do các phản đối của dân chúng Mỹ đến độ phải quay lưng từ bỏ Đồng minh Nam Việt Nam.

Diễn đàn đàm phán chính thức tại khách sạn Majestic mà phái đoàn Bắc Việt do Xuân Thuỷ lănh đạo, mang lại một kỳ tích bất thường. Trong bốn năm được gọi là đàm phán, không có tiến bộ nào đạt được và kết quả chỉ nhằm tŕnh bày hàng loạt các lời tuyên bố cho có h́nh thức với nội dung rỗng tuếch.

Vào mùa hè năm 1969, Nixon t́m hiểu rằng qua kênh đàm phán với Moscow có thể đạt được kết quả đầy vinh dự theo quan điểm của chúng tôi. Trước khi thực hiện cách này để gia tăng áp lực, ông quyết định thử lại một lần nữa khi khởi động lại các cuộc đàm phán. Việc này có hai phần: Tôi phải huỷ chuyến du hành thế giới để hội kiến với Xuân Thuỷ tại Paris vào ngày 4 tháng 8 năm 1969. Đó là cuộc mật nghị đầu tiên mà từ đó cho đến tháng 4 năm sau, một kênh mật đàm giữa Lê Đức Thọ và tôi diễn ra.

Pháp là quốc gia duy nhất trong khối NATO có quan hệ ngoại giao với Hà Nội, và cuộc gặp gỡ do Jean Sainteny, Đại sứ Pháp tại Hà Nội, thu xếp. Đối với tôi, phu nhân của Sainteny là một người bạn thân thiết sau khi bà đă tham dự một khoá học quốc tế kéo dài ba tháng trong khuôn khổ chương tŕnh mùa hè của Đại học Harvard, do tôi giảng dạy. Nhờ thế, cuộc mật nghị giữa các giới chức của Nixon và Việt Nam diễn ra trong một căn pḥng sang trọng của Sainteny trên đường Rivoli. Khi ông giới thiệu những người Việt cho chúng tôi, ông đặt điều kiện là không được phép phá vở bất cứ các đồ gia dụng nào.

Một cuộc trao đổi sau đó cho thấy trước viễn cảnh bế tắc trong ba năm sau. Xuân Thuỷ lên lớp giảng dạy về cuộc chiến đấu hào hùng của người Việt cho độc lập và ḷng kiên quyết của Hà Nội để theo đuổi cuộc chiến cho đến cùng. Tôi nghe các lời này lặp đi lặp lại không biết bao nhiêu lần trong nhiều năm và kết thúc bằng việc công bố các điều kiện tiên quyết của Hà Nội. Đến phiên tôi, tôi giải thích là sẵn sàng đàm phán trên cơ sở của một tiến tŕnh chính trị mà tất cả các phe nhóm, kể cả những người cộng sản, có thể tham gia.

Nixon chỉ thị cho tôi nên dùng cơ hội cho các biện pháp táo bạo. Tôi đă truyền đạt là nếu cho đến ngày 1 tháng 11 mà chúng tôi không có được một hồi đáp giá trị nào về các đề nghị của chúng tôi thông qua các kênh ngoại giao của hai phía, chúng tôi sẽ cứu xét đến các biện pháp khác hơn là ngoại giao, có hàm ư về việc dùng biện pháp quân sự. Xuân Thuỷ, cũng như những nhà đàm phán Việt mà tôi gặp gỡ, họ tỏ thái độ rất lịch sự khi trả lời bằng cách lặp lại các điều kiện tiên quyết của Hà Nội: Mỹ rút quân và chính phủ Sài g̣n sụp đổ trước khi có các cuộc đàm phán đầy ư nghĩa.

V́ Nixon không có ư định thảo luận trong các điều kiện như vậy, nên vào ngày 20 tháng 10 tại Toà Bạch Ốc, ông quyết định lặp lại một tối hậu thư cho Dobrynin, Đại sứ Nga. Nixon cầm một tập ghi chú màu vàng từ trên bàn của pḥng Bầu Dục đưa cho vị Đại sứ và nói: “Tốt hơn, ông nên đưa ra một vài ghi chú”. Dobrynin đặt vài câu hỏi cần làm sáng tỏ và cho là không biết ǵ về nội dung của vấn đề. Để ép Moscow và Hà Nội phải cho ngày hẹn chót, Nixon c̣n đi xa hơn khi cho rằng ngày 3 tháng 11 ông dự trù sẽ có bài diễn văn nói chuyện về vấn đề Việt Nam. Việc này trở thành một trong các cách hùng biện nhất của ông.

(C̣n tiếp)

Trở lại