SỰ THẬT LỊCH SỬ MÀ CỘNG SẢN SỢ Luật sư Nguyễn Hữu Thống |
Theo sử sách của Đảng Cộng Sản, ngày 11-11-1945 Hồ Chí Minh giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương, và ngày 3-9-1969 Hồ Chí Minh về chầu tổ Mác-Lê. Ngày nay sự thật lịch sử cho biết Đảng Cộng Sản Đông Dương không giải tán năm 1945, và Hồ Chí Minh đă về chầu tổ Mác- Lê ngày hôm trước, 2 tháng 9, 1969. Cũng vào ngày 2 tháng 9 (1945) Hồ Chí Minh đọc Tuyên Ngôn Độc Lập. Thực ra Việt Nam chưa độc lập năm 1945. Chiếu Công Pháp Quốc Tế, Việt Nam chỉ thâu hồi chủ quyền độc lập ngày 8 tháng 3, 1949 do Hiệp Định Elysée. Trong năm này, 11 quốc gia khác tại Á Châu cũng giành được độc lập bằng đường lối chính trị ngoại giao, không bạo động vơ trang và không liên kết với Quốc Tế Cộng Sản. Tháng hai năm 2000, nhà cầm quyền Hà Nội tổ chức lễ kỷ niệm 70 năm thành lập Đảng Cộng Sản Đông Dương. Trong dịp này họ viện dẫn những thành quả đă đạt được trong nửa thế kỷ vừa qua, và tự ban cho ḿnh tư cách độc quyền lănh đạo quốc gia. Gạt bỏ mọi thành kiến và mọi luận điệu tuyên truyền, chúng ta chỉ căn cứ vào những tài liệu lịch sử và những văn kiện pháp lư để đưa ra những nhận định liên quan đến chủ trương đường lối của Đảng Cộng Sản. NHẬN
ĐỊNH VỀ ĐƯỜNG LỐI ĐẤU
TRANH. Dưới chiêu bài giải phóng dân tộc, Đảng Cộng Sản chủ trương đấu tranh bạo động vơ trang, và liên kết với Quốc Tế Cộng Sản. Trên b́nh diện dân tộc đây là một sai lầm chiến lược khiến 3 triệu thanh niên nam nữ thuộc 3 thế hệ phải hy sinh xương máu trong 3 cuộc Chiến Tranh Đông Dương: Chiến Tranh Đông Dương Thứ Nhất chống Pháp và Quốc Gia Việt Nam trong 8 năm (l946-l954). Chiến Tranh Đông Dương Thứ Hai chống Thế Giới Dân Chủ (Việt Nam Cộng Ḥa, Hoa Kỳ và Đồng Minh) trong 20 năm (l955-l975); và Chiến Tranh Đông Dương Thứ Ba tự chống lẫn nhau trong 10 năm, Chiến Tranh Miên Việt kết thúc năm 1989 do sự can thiệp của Liên Hiệp Quốc. Trong số 14 nước thuộc địa, bảo hộ và giám hộ tại Á Châu, chỉ có 3 nước Đông Dương dưới sự lănh đạo của Đảng Cộng Sản Đông Dương đă đấu tranh bạo động vơ trang và liên kết với Quốc Tế Cộng Sản. Trái lại 11 quốc gia khác đă đấu tranh ôn ḥa, không bạo động và không liên kết với Quốc Tế Cộng Sản. Trong
khi Đảng Cộng Sản Đông Dương đứng
vào hàng ngũ Quốc Tế Cộng Sản để
đấu tranh vơ trang nhằm lật đổ các
Đế Quốc Tây Phương, th́ các Đảng
Quốc Gia Á Châu chủ trương hợp tác thương
nghị với Đế Quốc Cũ để giành
tự trị trong giai đoạn đầu và độc
lập trong giai đoạn sau. Cũng v́ vậy họ
đă tiết kiệm được nhiều hy sinh xương
máu và thời gian giành độc lập được
rút ngắn c̣n từ 1 đến 4 năm sau Thế
Chiến II. Sau Thế Chiến I, năm 1919 tại Hội Quốc Liên (League of Nations) tổ chức tiền thân của Liên Hiệp Quốc, Tổng Thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson đề xướng quyền Dân Tộc Tự Quyết để khuyến cáo các Đế Quốc Tây Phương từng bước trả tự trị và độc lập cho các thuộc địa Á Phi. Từ đó trào lưu tiến hóa tất yếu của lịch sử là sự giải thể tiệm tiến của các Đế Quốc Tây Phương. Cũng trong năm này Đế Quốc Anh đă trả chủ quyền độc lập cho Canada tại Bắc Mỹ và A Phú Hăn tại Nam Á. Năm 1941, khi Thế Chiến II c̣n đáng tiếp diễn, các Đế Quốc Tây Phương Anh Mỹ Pháp Ḥa Lan hội nghị tại Newfoundland Canada để công bố Hiến Chương Đại Tây Dương theo đó các thuộc địa và bảo hộ sẽ được trao trả độc lập khi Chiến Tranh kết thúc. Mùa xuân 1945, với sự đầu hàng của Đức Quốc Xă, 50 quốc gia đồng minh họp Hội Nghị San Francisco để thành lập Liên Hiệp Quốc và ban hành Quyền Dân Tộc Tự Quyết trong Điều Thứ Nhất của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc. Trung thành với Hiến Chương Đại Tây Dương và Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, trong 4 năm, từ 1946 đến 1949, các Đế Quốc Mỹ Anh Pháp Ḥa Lan đă lần lượt tự giải thể để trả độc lập cho 12 thuộc địa Á Châu: Độc
lập năm l946: Phi Luật Tân thuộc Hoa Kỳ,
Syrie và Liban thuộc Pháp.
Như vậy lịch sử đă chứng minh
rằng, tại Á Châu, đấu tranh không bạo
động và không liên kết với Quốc Tế
Cộng Sản là đường lối khôn ngoan và
hữu hiệu để giành tự trị và độc
lập cho quốc gia. Ngược lại, đứng
vào hàng ngũ Quốc Tế Cộng Sản để
đấu tranh vơ trang nhằm lật đổ các
Đế Quốc Tây Phương là một sai lầm
chiến lược. V́ đây không phải là
chiến tranh giành độc lập mà là chiến
tranh ư thức hệ giữa Quốc Tế Cộng
Sản và Thế Giới Dân Chủ. Kinh nghiệm dân
gian cho biết nơi nào trâu ḅ húc nhau th́ ruồi
muỗi chết: 3 triệu thanh niên nam nữ tại
Triều Tiên, 3 triệu tại Việt Nam, 2 triệu
tại Miên Lào và 1 triệu tại A Phú Hăn đă hy
sinh thân sống, không phải để giành độc
lập cho quốc gia, mà để cho Đảng
Cộng Sản cướp chính quyền. Trung thành với Quốc Tế Vô Sản, Đảng Cộng Sản Đông Dương phủ định chủ nghĩa dân tộc. Họ không chủ trương đấu tranh giành độc lập v́ quốc gia dân tộc và không quan niệm độc lập quốc gia như một cứu cánh tối hậu, một mục tiêu chiến lược phải tranh thủ với bất cứ giá nào, với bất cứ hy sinh nào, kể cả việc hy sinh những quyền lợi riêng tư của đảng phái. Lịch sử đă chứng minh rằng Đảng Cộng Sản chỉ sử dụng cuộc đấu tranh giành độc lập như một chiêu bài, một chiến thuật để đạt mục tiêu chiến lược là Cướp Chính Quyền. Họ đă chống đối và phá hoại bất cứ giải pháp độc lập nào không cho họ độc quyền lănh đạo quốc gia. Tại
Pháp, tháng 3, l947, Hội Đồng Chính Phủ Ramadier
và Hội Đồng các Chính Đảng (lănh đạo
Quốc Hội gồm cả Đảng Xă Hội và
Đảng Cộng Sản ) công bố Quyết
Nghị về chính sách mới của Pháp tại
Việt Nam theo đó Pháp không chủ trương tái
lập thuộc địa tại Á Châu. Pháp tán thành
nguyện vọng chính đáng của nhân dân Việt
Nam về độc lập và thống nhất (ba
miền cùng chung một lịch sử, một
chủng tộc, một văn hóa và một ngôn
ngữ). Đặc biệt là, cũng trong năm 1947, sau khi kư Hiệp Ước Sơ Bộ Vịnh Hạ Long, Pháp đă đăng kư Việt Nam là một quốc gia độc lập tại Liên Hiệp Quốc. (Everyone’s United Nations năm 1986, trang 332). Chủ quyền độc lập của Việt Nam được thừa nhận bởi Hiệp Định Élysée ngày 8-3-1949 kư kết giữa Tổng Thống Vincent Auriol và Quốc Trưởng Bảo Đại. Hiệp Định Élysée là một văn kiện độc nhất trong lịch sử ngoại giao quốc tề. Thông thường các hiệp ước và ḥa ước quốc tế đếu do các ngoại trưởng kư. Riêng Hiệp Định Élysee đă được chính Tổng Thống Vincent Auriol tự tay kư, với sự kiến thị của Thủ Tướng Henry Queille, của Ngoại Trưởng Schuman,của Bộ Trưởng Quốc Pḥng Ramadier và Bộ Trưởng Pháp Quốc Hải Ngoại Paul Coste-Floret. Từ đó, chiếu công pháp quốc tế, Việt Nam được ḥan toàn độc lập, các hiệp ước thuộc địa và bảo hộ kư với Pháp trong hậu bán thế kỷ 19 đă bị Hiệp Định Élysée băi bỏ. Cũng trong năm l949 Trung Cộng đă dùng vơ trang thôn tính lục địa Trung Hoa. Theo sách lược của Quốc Tế Cộng Sản, việc cộng sản hóa Trung Hoa sẽ mở đầu cho việc nhuộm đỏ hai bán đảo Đông Dương và Tŕêu Tiên. Trước nguy cơ này, các cường quốc Tây Phương chủ trương giữ vững Việt Nam trong hàng ngũ Thế Giớí Dân Chủ chống lại âm mưu thôn tính của Quốc Tế Cộng Sản. Chiếu
Hiệp Định Elysee tháng 3, 1949, Việt Nam là
một quốc gia liên kết trong Liên Hiệp Pháp nên
giữa Việt Nam và Pháp có nghĩa vụ an
ninh hỗ tương. Nay Quốc Gia Việt
Nam bị đe doạ về an ninh quốc nội
(nội loạn) và an ninh quốc ngoại (ngoại xâm),
nên Pháp có nghiă vụ phải mang quân hay điều
quân để bảo vệ biên thùy của Việt
Nam đồng thời là biên thùy của Liên Hiệp
Pháp và của Thế Giới Dân Chủ. Để vận động toàn dân tham gia kháng chiến, Đảng Cộng Sản tuyên truyền rằng Pháp đem quân trở lại Việt Nam để tái lập chế độ thuộc địa. Đây
là một luận điệu tuyên truyền xuyên
tạc. V́ từ năm 1947 các Hội Đồng Chính
Phủ và Chính Đảng Pháp đă quyết định
không tái lập chế độ thuộc địa
tại Á Châu và tán thành nguyện vọng độc
lập của nhân dân Việt Nam. Trước đó,
năm 1946, Pháp đă trả độc lập cho Syrie
và Liban theo chủ trương của Hiến Chương
Đại Tây Dương và Hiến Chương Liên
Hiệp Quốc. Và trong năm 1947, như đă tŕnh
bầy, Pháp đă đăng kư Việt Nam là một
quốc gia độc lập tại Liên Hiệp
Quốc. Tháng 3, 1949, bằng Hiệp Định
Elysée, Pháp đă chính thức thừa nhận chủ
quyền độc lập của Quốc Gia Việt
Nam. Năm l975 Đảng Cộng Sản không có công thống nhất đất nước. V́ theo quốc tế công pháp, Quốc Gia Việt Nam đă được độc lập và thống nhất từ năm l949 chiếu Hiệp Định Élysée ngày 8-3-l949. Qua tháng sau, chiếu nguyên tắc Dân Tộc Tự Quyết, ngày 23-4-l949, Quốc Hội Nam Kỳ biểu quyết giải tán chế độ Nam Kỳ thuộc địa để sát nhập Nam Phần vào lănh thổ Quốc Gia Việt Nam độc lập và thống nhất (với 45 phiếu thuận và 6 phiếu chống). Tuy nhiên Đảng Cộng Sản đă phủ nhận nền độc lập này và đă phá hoại nền thống nhất này. V́ Hiệp Định Élysée không cho họ độc quyền lănh đạo quốc gia. Do đó họ vẫn tiếp tục chiến đấu vơ trang và đă kư Hiệp Định Genève chia đôi đất nước để cướp chính quyền tại Miền Bắc năm l954. Và rồi, với sự yểm trợ của Quốc Tế Cộng Sản, họ lại tiếp tục chiến đấu vơ trang để thôn tính Miền Nam năm l975. Kể từ năm 1955, Đảng Cộng Sản tuyên truyền rằng Mỹ đă thay thế Pháp để thống trị Miền Nam. Đây cũng là một luận điệu tuyên truyền xuyên tạc. V́ quân đội Hoa Kỳ chiến đấu tại Triều Tiên và Việt Nam không phải để thống trị hai quốc gia này mà để bảo vệ biên thùy của Thế Giới Dân Chủ. Tấm bản đồ Việt Nam ông cha chúng ta đă đổ bao xương máu để tạo lập nên hồi đầu thế kỷ 19. Sau này, v́ yếu thế, chúng ta phải nhượng cho Pháp 6 tỉnh Miền Nam. Năm 1949 đồng bào Miền Nam đă hành sử quyền dân tộc tự quyết để thâu hồi chủ quyền lănh thổ và bồi đắp tấm bản đồ từ Nam Quan đến Cà Mâu. Tuy nhiên, bằng chiến tranh vơ trang, Hồ Chí Minh đă cầm tay xé đôi tấm bản đồ năm 1954 để cướp chính quyền tại Miền Bắc. Và rồi, năm 1975, cũng bằng chiến tranh vơ trang, Đảng Cộng Sản đă cướp chính quyền tại Miền Nam. Rồi họ lấy băng keo dán 2 mảnh dư đồ lại và tuyên bố rằng: “Đảng Cộng Sản có công thống nhất đất nước!”. Chúng ta đưa ra những nhận định này trên cương vị người nghiên cứu sử học và luật học, chứ không với tư cách cán bộ tuyên truyền cho một chủ thuyết hay một chế độ chính trị nào. ĐỐI CHIẾU CÁC PHONG TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC TẠI Á CHÂU. Muốn có cái nh́n khách quan và trung thực, chúng ta hăy đối chiếu công cuộc đấu tranh giành độc lập tại Việt Nam với các phong trào giải phóng dân tộc tại Á Châu. Sau Thế Chiến II, trong số 14 nước thuộc địa, bảo hộ và giám hộ tại Á Châu, chỉ có 3 nước Đông Dương dưới sự lănh đạo của Đảng Cộng Sản Đông Dương đă đấu tranh vơ trang, và liên kết với Quốc Tế Công Sản. Trái lại các Đảng Quốc Gia tại 11 nước Á Châu khác đă chủ trương đấu tranh ôn ḥa, không bạo động và không liên kết với Quốc Tế Cộng Sản. Một năm sau Thế Chiến II, từ l946 đến l949, các Đế Quốc Tây Phương Mỹ, Pháp, Anh và Hoà Lan đă lần lượt tự giải thể để trả độc lập cho 12 nước thuộc địa, bảo hộ và giám hộ tại Á Châu. 1946: Phi Luật Tân độc lập Hoa Kỳ đi tiền phong trong cuộc giải phóng thuộc địa. Nguyên là một cựu thuộc địa, Hoa Kỳ có truyền thống đấu tranh giải phóng dân tộc. Nhân dân Hoa Kỳ có cảm t́nh với những phong trào đấu tranh giành độc lập của các dân tộc Á Phi. Đầu thập niên 1930, Luật Sư Quezon, lănh tụ Đảng Quốc Gia Phi Luật Tân đến Hoa Thịnh Đốn vận động Quốc Hội Hoa Kỳ ban hành quy chế tự trị và độc lập cho Phi Luật Tân. Năm l934 Quốc Hội Hoa Kỳ biểu quyết thông qua Luật Tydings-McDuffie Act công nhận Phi Luật Tân là một quốc gia tự trị (dominion) từ 1935. Trong đạo luật này có khỏan quy định rằng, 10 năm sau, đúng Ngày Quốc Khánh Hoa Kỳ (4 tháng 7, 1945) Phi Luật Tân sẽ được độc lập. Tuy nhiên tới ngày đó, Chiến Tranh Thái B́nh Dương chưa kết thúc, nên Phi Luật Tân chỉ được độc lập ngày 4-7-1946 (trễ một năm v́ lư do chiến cuộc). Trong thời chiến tranh, Luật Sư Quezon tham gia Ủy Ban Chiến Tranh vùng Thái B́nh Dương, và người phụ tá của ông, Luật Sư Roxas hoạt động t́nh báo cho Tướng McArthur. Khẩu hiệu đấu tranh của Đảng Quốc Gia Phi Luật Tân là “Độc Lập do Hợp Tác” (Independence through Cooperation). 1946: Syrie và Liban độc lập. Nếu Hoa Kỳ có truyền thống đấu tranh giải phóng dân tộc, th́ Pháp cũng là quốc gia có truyền thống Tự Do, B́nh Đẳng, Bác Ái tiến bộ nhất trong lịch sử loài người. Tại Syrie và Liban, lănh đạo phong trào giải phóng dân tộc là Đảng Nhân Dân tại Syrie và Luật Sư Dabbas tại Liban. Dabbas đă từng du học tại Paris, nơi đây ông hay biết rằng, bên cạnh các đảng bảo thủ chủ trương duy tŕ thuộc địa c̣n có Đảng Xă Hội Pháp chủ trương giải phóng lao động và giải phóng thuộc địa. Năm 1936 Mặt Trận B́nh Dân nắm chính quyền, Thủ Tướng Xă Hội Pháp Léon Blum kư hiệp ước với Syrie và Liban để trả tự trị cho 2 quốc gia này. Và 10 năm sau, năm 1946 quân đội Liên Hiệp Pháp triệt thoái để trả độc lập cho Syrie và Liban (Thời gian này tại Trung Đông chưa có nguy cơ xâm nhập của Staline). 1947: Ấn Độ và Đại Hồi độc lập. Sau các Đế Quốc Hoa Kỳ và Pháp, đến lượt Đế Quốc Anh tự giải thể. Tới Thế Chiến II, Anh Quốc đă thành lập được một đế quốc hùng mạnh nhất từ cổ chí kim chạy từ Âu Châu qua Mỹ Châu, Phi Châu, Á Châu và Úc Châu. Người Anh thường tự hào nói: “Mặt trời không bao giờ lặn trên Đế Quốc Anh”. Vậy mà 2 năm sau Thế Chiến II, năm 1947, Đế Quốc Anh bắt đầu tự giải thể. Tại Ấn Độ, 3 nhà lănh đạo phong trào giải phóng dân tộc là các Luật Sư Gandhi, Nehru và Jinnah. Các vị này đă từng du học tại Anh, nơi đây họ hay biết rằng, bên cạnh Đảng Bảo Thủ chủ trương duy tŕ thuộc địa, c̣n có Đảng Lao Động Anh chủ trương giải phóng lao động và giải phóng thuộc địa như Đảng Xă Hội Pháp. Năm 1947 Thủ Tướng Lao Động Anh Clement Attlee trả độc lập cho Ấn Độ và Đại Hồi, và qua năm sau, 1948, trả độc lập cho Miến Điện, Tích Lan và Palestine. Khác với Đảng Cộng Sản Việt Nam, Đảng Quốc Đại Ấn Độ chủ trương đấu tranh công khai, ôn ḥa, hợp pháp, không bạo động, không vọng ngoại và không liên kết với Quốc Tế Cộng Sản. Với
một dân số quá đông (gần 400 triệu, so
với 20 triệu ở Việt Nam năm 1945), trong
một xă hội nghèo đói, thất học, với
những mâu thuẫn trầm trọng về tôn giáo,
chủng tộc, ngôn ngữ, đẳng cấp và giai
cấp, cuộc đấu tranh tại Ấn Độ
10 lần khó hơn tại Việt Nam. Vậy mà, dưới
sự lănh đạo của Gandhi, Ấn Độ
đă giành được độc lập 2 năm
sau Thế Chiến II, trong khi dân tộc ta đă
phải hy sinh xương máu ṛng ră trong 40 năm. 1948: Miến Điện, Tích Lan và Palestine độc lập. Người anh hùng dân tộc Miến Điện là Aung San (thân phụ bà Aung San Suu Kyi hiện lănh đạo phong trào Dân Chủ tại Miến Điện). Cũng như Gandhi, Aung San t́nh nguyện chiến đấu trong Quân Đội Hoàng Gia Anh. Cùng với U Nu, ông thành lập Liên Đoàn Nhân Dân Tự Do Chống Phát Xít để hợp tác với Anh, chống Nhật... Năm l948 Miến Điện được trao trả độc lập. Tại Tích Lan Hiến Pháp năm l931 ấn định thời gian tập sự tự trị là 15 năm. Với chủ trương “Thiện Chí và Hợp Tác” (Good Will and Cooperation), Đảng Quốc Gia Tích Lan đă giành được tự trị năm l945 và độc lập năm l948. Cũng trong năm này Palestine thoát quyền giám hộ của Đế Quốc Anh. 1949: Nam Dương độc lập. Sau các Đế Quốc Mỹ, Pháp, Anh đến lượt Đế Quốc Hoà Lan tự giải thể năm l949. Phong trào giải phóng dân tộc Nam Dương được phát động bởi giới trí thức du học Ḥa Lan. Trong khi Đảng Cộng Sản theo sách lược bạo động vơ trang th́ Đảng Quốc Gia Nam Dương chủ trương đấu tranh ôn ḥa bất bạo động bằng canh tân và giáo dục. Sukarno lập Câu Lạc Bộ Văn Hoá Bandung và Hatta lập Hội Giáo Dục Quốc Gia Nam Dương để nâng cao dân trí và chấn hưng dân khí. Hatta du học 10 năm tại Hoà Lan và Luật Sư Sjahrir đă từng gia nhập Đảng Lao Động Hoà Lan trong thời gian du học. Năm 1942 Nhật chiếm đóng Nam Dương, Sukarno hợp tác với Nhật. Tháng 8, l945 Nhật đầu hàng Đồng Minh, Sukarno tuyên bố Nam Dương độc lập. Nhưng rồi quân đội Ḥa Lan theo chân quân đội Anh sang giải giới quân đội Nhật, Sukarno chủ trương thương nghị với Hoà Lan. Trong những năm l946 và l948, Đảng Cộng Sản Nam Dương phát động chiến đấu vơ trang để phá thương nghị. Thời gian này nước láng giềng Phi Luật Tân đă được độc lập. Tổng Thống Truman vận động Liên Hiệp Quốc áp lực Hoà Lan phải ḥa đàm với chính phủ Sjahrir. Lúc này Hoa Kỳ đang thực thi Kế Hoạch Marshall để tái thiết Âu Châu thời hậu chiến nên tiếng nói của Hoa Kỳ có trọng lượng đối với Ḥa Lan. Hội Nghị Bàn Tṛn La Haye được triệu tập dưới sự bảo trợ của Liên Hiệp Quốc. Tháng 12-1949, do Hiệp Ước La Haye, Hoà Lan thừa nhận chủ quyền độc lập của Nam Dương.
Như vậy từ
1946 đến 1949 tất cả các đế quốc
Tây Phương Mỹ, Pháp, Anh, Hoà Lan đă lần lượt
tự giải thể để trả độc
lập cho 12 thuộc địa Á Châu. Trong khi đó,
từ 1947 tại Đông Âu Staline thiết lập
Đế Quốc Sô Viết bằng cách thôn tính 3 nước
Baltic Lithuanie, Lettonie và Estonie. Sau đó Liên Xô dựng
“Bức Màn Sắt” tại 7 nước Đông Âu
là Ba Lan, Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc, Đông Đức,
Albanie, Bulgarie, và Roumanie. Từ đó, chiến tranh
lạnh hay chiến tranh ư thức hệ bộc phát
giữa Quốc Tế Cộng Sản và Thế
Giới Dân Chủ. Các nhà lănh đạo
phe Thế Giới Dân Chủ như Truman, Churchill và De
Gaulle nhất quyết không trao Đông Dương
cho Đảng Cộng Sản Đông Dương
v́ họ không muốn Staline mở rộng Bức Màn
Sắt từ Đông Âu qua Đông Á. Riêng tại Việt
Nam, De Gaulle cũng nhất quyết không trao Nam Kỳ
cho Hồ Chí Minh v́ Nguyễn Ái Quốc là cán bộ
của Staline tại Đông Dương Cũng v́ vậy
hồi tháng 12-1945 De Gaulle đă mời Cựu Hoàng Duy
Tân từ đảo Réunion tới Paris thương
nghị. Nhiều tài liệu lịch sử cho
biết De Gaulle đă chấp thuận trên nguyên
tắc để Duy Tân về nước đầu năm
l946. Trước đó, hai bên sẽ kư một
hiệp ước công nhận Việt Nam là một
quốc gia tự do và tự trị trong Liên Bang Đông
Dương và trong Liên Hiệp Pháp. Chính Phủ
Việt Nam sẽ được toàn quyền quản
trị về mặt nội bộ. Tuy nhiên v́ lúc này
Đảng Cộng Sản đă cướp chính
quyền tại Miền Bắc, nên quân đội Pháp
c̣n phải ở lại Việt Nam một thời gian
với tư cách quân đội Liên Hiệp Pháp để
yểm trợ Việt Nam giải quyết các vấn
đề an ninh quốc nội (nội loạn) và an
ninh quốc ngoại (ngoại xâm). Theo quy
chế Liên Hiệp Pháp, giữa Pháp và Việt Nam có
nghĩa vụ an ninh hỗ tương. Do
đó quân đội Pháp có nghĩa vụ bảo
vệ biên cương của Việt Nam, đồng
thời là biên cương của Liên Hiệp Pháp. Rất tiếc là mùa Giáng Sinh 1945 Duy Tân
đă tử nạn máy bay trên sa mạc Trung Phi trên
đường từ Paris về đảo Reunion thăm
nhà. Nhiều người cho đây là vụ phá
hoại. Nguyên nhân phi cơ phát hỏa là v́
‘’hết săng’’. Đây là một nguyên nhân hy
hữu v́ không một phi hành đoàn nào chịu
cất cánh nếu máy bay không chứa đủ săng
nhớt. Việc Duy Tân mất đi là một
đại bất hạnh cho Việt Nam cũng như
cho Pháp. V́ nếu đầu năm l946 Duy Tân về nước
lập Chính Phủ Quốc Gia giành tự trị,
độc lập và thống nhất cho Việt Nam th́
chiến tranh Việt Pháp sẽ có cơ tránh
được. Hồ Chí Minh sẽ không c̣n được
độc quyền yêu nước và có lẽ
chẳng c̣n ai muốn gia nhập Đảng Cộng
Sản nữa (năm 1945 Đảng Cộng Sản
chỉ có 5 ngàn đảng viên). Lúc này Đảng Cộng Sản Pháp
đă thông báo cho Staline và Hồ Chí Minh biết De
Gaulle đă có giải pháp quốc gia về Việt
Nam. Cũng v́ vậy, ngày 11- 11-1945, Hồ Chí
Minh giả bộ giải tán Đảng Cộng
Sản Đông Dương. Rồi thành
lập Chính Phủ Liên Hiệp với sự tham gia
của Cách Mạng Đồng Minh Hội (với
Nguyễn Hải Thần) và Việt Nam Quốc Dân
Đảng (với Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Tường
Tam) để bầy cảnh đa đảng làm b́nh
phong thương nghị với Pháp. Ngày 6-3-1946 tại Hà Nội, nhân danh chính
phủ liên hiệp, Hồ Chí Minh kư Hiệp Ước
Sơ Bộ Sainteny và chấp thuận mọi điều
khỏan mà De Gaulle đă thỏa thuận với Duy Tân:
Việt Nam là một nước tự do và tự
trị trong Liên Bang Đông Dương và trong Liên
Hiệp Pháp. 15 ngàn quân Pháp được đồn
trú tại Bắc Kỳ trong thời hạn 5 năm. Sau đó ngày 14-9-l946 tại Paris, Hồ
Chí Minh đă đến nhà riêng của Moutet để
xin kư Thỏa Ước Tạm Thời Moutet (Marius
Moutet là đồng chí cũ trước khi Hồ Chí
Minh bỏ đảng Xă Hội để gia nhập
Đảng Cộng Sản Pháp). Tuy nhiên các nhà
lănh đạo Thế Giới Dân Chủ vẫn
nhất quyết không trao Đông Dương cho Đảng
Cộng Sản Đông Dương. Theo chỉ thị của Quốc Tế
Cộng Sản Hồ Chí Minh phát động chiến
tranh vơ trang ngày 19-12-1946. Bằng hành động gây chiến này
Hồ Chí Minh đă vi phạm Hiệp Ước Sơ
Bộ Sainteny và Thỏa Ước Tạm Thời
Moutet. Do đó, như đă tŕnh
bầy, 3 tháng sau, tháng 3, 1947, Hội Đồng Chính
Phủ Ramadier cùng Hội Đồng các Chính Đảng
Pháp công bố Quyết Nghị về chính sách
mới của Pháp tại Việt Nam, theo đó Pháp tán
thành nguyện vọng chính đáng của nhân dân
Việt Nam về độc lập và thống
nhất. Ngoài ra, cũng trong
năm 1947 tại Liên Hiệp Quốc, Pháp đă
đăng kư Viet Nam là quốc gia độc lập.
Sở dĩ Việt Nam không được gia nhập
Liên Hiệp Quốc v́ gặp sự phản kháng
của Liên Xô hành sử quyền phủ quyết. Năm 1947, nếu Hồ
Chí Minh là người yêu nước, nếu
Nguyễn Ái Quốc là nhà ái quốc biết đặt
quyền lợi quốc gia trên quyền lợi đảng
phái, th́ ông ta đă phải ngưng chiến cho phe
quốc gia có điều kiện ḥa đàm và kư
kết với Pháp một hiệp ước để
giành lại độc lập và thống nhất cho
Việt Nam. Tuy nhiên Hồ Chí
Minh không phải là người yêu nước,
Nguyễn Ái Quốc không phải là nhà ái quốc nên
ông ta vẫn tiếp tục đẩy tới
chiến tranh vơ trang để phá vỡ mọi
giải pháp độc lập quốc gia. Mặc dầu vậy các Chính Phủ Pháp
vẫn trung thành với Quyết Nghị của các
Hội Đồng Chính Phủ và Chính Đảng Pháp
năm 1947. Tháng 12,1947, Pháp kư Hiệp Ước Sơ
Bộ Vịnh Hạ Long với Quốc Trưởng
Bảo Đại để thừa nhận chủ
quyền độc lập của Việt Nam.
Hiệp Ước Sơ Bộ này được khai
triển bởi Thông Cáo Chung Vịnh Hạ Long tháng 6,
1948.
Theo Hiệp Ước này Pháp thừa nhận nền
độc lập của Việt Nam và Việt Nam
được tiến hành thủ tục thực
hiện thống nhất quốc gia chiếu nguyên
tắc Dân Tộc Tự Quyết. Và tại Điện
Elysée (Paris) Tổng Thống Vincent Auriol, nhân danh
TổngThống Cộng Ḥa Pháp và nhân danh Chủ
Tịch Liên Hiệp Pháp, đă kư với Quốc Trưởng
Bảo Đại Hiệp Định Elysée ngày 8-3-1949
Công Nhận Việt Nam Thống Nhất và Độc
Lập Trong Liên Hiệp Pháp. Do Quyết Nghị ngày
23-4-1949, chiếu Dân Tộc Tự Quyết, Quốc
Hội Nam Kỳ đă giải tán chế độ
Nam Kỳ tự trị và sát nhập Nam Phần vào lănh
thổ Quốc Gia Việt Nam độc lập và
thống nhất (từ Nam Quan đến Cà Mâu). Ngày 6-6-1949 Quốc
Hội Pháp phê chuẩn Hiệp Định Elysée để
giao hoàn Nam Kỳ cho Quốc Gia Việt Nam. Ngày 2-2-1950
Quốc Hội Pháp phê chuẩn toàn bộ Hiêp Định
E1ysée. Cũng trong tháng này Hoa Kỳ, Anh Quốc và Thái
Lan chính thức thừa nhận Quốc Gia Việt Nam
do Chính Phủ Bảo Đại đại diện.
(Thái Lan có chân trong khối Liên Minh Pḥng Thủ Đông
Nam Á SEATO). Chúng ta không nên có thành kiến cho
rằng gia nhập Liên Hiệp Pháp là vi phạm
chủ quyền quốc gia. V́ các nước Ấn
Độ, Đại Hồi, Canada, Úc Đại
Lợi, Tân Tây Lan v...v... cũng là những quốc gia
độc lập trong Liên Hiệp Anh. Về mặt an ninh
quốc pḥng, nếu năm 1949 Việt Nam không gia
nhập Liên Hiệp Pháp th́ quân đội viễn
chinh Pháp phải rút khỏi Việt Nam (như tại
Syrie và Liban năm 1946). Và chỉ trong một vài
tuần lễ (như tại Nam Hàn năm 1950), phe
Quốc Tế Cộng Sản sẽ nhuộm đỏ
bán đảo Đông Dương. Khách quan mà xét, năm
1949 độc lập trong Liên Hiệp Pháp là giải
pháp tối ưu cho Việt Nam. Chúng ta có thể
sử dụng các chuyên viên Pháp là những người
am hiểu phong tục tập quán, biết rơ dân t́nh nước
ta, lại có những kinh nghiệm về khai thác nông
lâm súc, công kỹ nghệ thương măi, xây cất
cầu cống, đường sá, sông ng̣i, hải
cảng, cồn đảo ... Ngoài ra họ c̣n có
thể cố vấn chúng ta để xây dựng môt
nền giáo dục phổ thông, một nền hành chánh
hiện đại và một nền tư pháp độc
lập để tiến tới tam quyền phân
lập và dân chủ pháp trị. Về mặt phát
triển chúng ta có sẵn thị trường Liên
Hiệp Pháp để xuất cảng các hàng hóa và các
nông, lâm, khoáng sản ... Do đó, năm 1949,
độc lập trong Liên Hiệp Pháp là giải pháp
tối ưu cho Việt Nam. Nhưng rồi Đảng
Cộng Sản đă đưa dân tộc ta vào con
đường chông gai chết chóc trong suốt 40 năm
(từ 1949 đến 1989). Đại
hạnh của Ấn Độ là có Gandhi theo Chủ
Nghĩa Dân Tộc. 1)
l946-l947: chiến tranh vơ trang. 2) Đảng Cộng Sản không có công giành độc lập năm 1954 v́ Việt Nam đă được độc lập từ 1949 chiếu Hiệp Định Elysée. 3) Đảng Cộng Sản không có công thống nhất đất nước năm 1975 v́ Việt Nam đă được thống nhất năm 1949 khi Quốc Hội Nam Kỳ biểu quyết giải tán chế độ Nam Kỳ tự trị để sát nhập Nam Phần vào lănh thổ quốc gia Việt Nam độc lập và thống nhất. 4) Trên b́nh diện dân tộc 3 cuộc Chiến Tranh Đông Dương là những cuộc chiến tranh vô ích, vô lư và vô nghĩa. 5) V́ vậy Đảng Cộng Sản không có tư cách và không có tính chính thống để độc quyền lănh đạo quốc gia. Và chế độ CS phải được giải thể để cho người dân được quyền mưu cầu hạnh phúc trong chế độ Dân Chủ Pháp Trị, trong đó các dân quyền và nhân quyền được tôn trọng, kinh tế quốc gia được phát triển và công bằng xă hội được thực thi. CHÚ THÍCH 1) Sau khi kư Hiệp Định Elysée ngày 8-3-1949, Tổng Thống Vincent Auriol đă kư Hiệp Ước với Quốc Vương Ai-Lao Sisavangvong ngày 20-7-1949 và với Quốc Vương Cao-Miên Sihanouk ngày 8-11-1949 “theo tinh thần Hiệp Định Elysée” Hai quốc gia c̣n lại là Mă Lai và Tân Gia Ba trong Liên Bang Mă Lai Á. Năm 1948 Đảng CS Mă Lai lập chiến khu chiến đấu vơ trang. Để dẹp nội loạn, chính phủ Anh ban hành t́nh trạng thiết quân luật. Từ năm 1952 Đảng Quốc Gia Mă Lai đưa ra chủ trương “độc lập do hợp tác chủng tộc” kết hợp các sắc dân Mă Lai, Trung Hoa và Ấn Hồi. Luật Sư Abdul Rahman đă từng làm phó chưởng lư tại Anh. Abdul Razah phục vụ trong quân đội Hoàng Gia Anh thời Thế Chiến Hai. Sau 5 năm tự trị, Mă Lai được độc lập năm 1957. Năm
1959 đến lượt Tân Gia Ba được
giải phóng do chủ trương ‘’độc
lập nhờ liên lập’’ (với Mă Lai trong Liên
Bang Mă Lai Á). Luật Sư Lư Quang Diệu đă
từng gia nhập Luật Sư Đoàn Luân Đôn và
Đảng Lao Động Anh trong thời gian du
học. Thuyết
Tŕnh Năm 2000 Ngày
23-4-2000 tại Orlando, Florida Luật
Sư Nguyễn Hữu Thống
|